Phân tích hình tượng con sông Đà năm 2021 (dàn ý – 5 mẫu)

Phân tích hình tượng con sông Đà năm 2021 (dàn ý – 5 mẫu)

Hình tượng con sông đà

Xem toàn bộ tài liệu Lớp 12: tại đây

Đề: Phân tích hình tượng sông lớn trong tác phẩm “Người lái đò ra sông lớn” của Nguyễn Tuân.

Bạn Đang Xem: Phân tích hình tượng con sông Đà năm 2021 (dàn ý – 5 mẫu)

a/dàn ý chi tiết

1. Lễ khai trương

– Đôi nét về tác giả Nguyễn Duẫn: Một nhà văn yêu cái đẹp và suốt đời theo đuổi cái đẹp, có một phong cách nghệ thuật độc đáo: tri thức và tài hoa.

– Tác phẩm: Tác phẩm tiêu biểu cho phong cách Nguyễn Tuân.

– Hình ảnh Đại Hà là cục vàng thứ mười của tự nhiên mà Nguyễn Tuân tìm kiếm.

2. Nội dung bài đăng

2.1. Sông Đà “Bạo lực”

<3

– Bờ sông xây vách: lòng sông hẹp, “bờ sông xây vách”, “trưa nắng sẽ ló”, “vách núi… như họng”

– Trong dòng thác hát loạn xạ: “Nước đụng đá, đá đụng sóng, sóng đụng gió”, lúc nào cũng như những tay đua “đòi nợ gần hết”.

– Ở ta mường bec: “có cửa hút như giếng bê tông”, chúng “thở và kêu như hố ga bị tắc nước” còn tàu thuyền qua vùng hút “như ô tô… vượt mép”,

-Chiến trường đá đổ được miêu tả từ xa đến gần:

+ xa: tiếng của thác “Ta ở xa” mà nghe tiếng thác “kêu càng gần”, tiếng này đa dạng trạng thái khi thì “oan ức”, “hâm mộ”, “khiêu khích” Xuất hiện, “khiêu khích”; ẩn dụ độc đáo: “gầm như ngàn bò rừng… hừng hực” (lửa đối với nước).

+ gần: Đá cũng lắm mánh: “nhăn”, “xoắn”, “lật hàm”, “ảo thuật”, “phòng thủ”, với các động tác như “phục kích”, “chặn ngang”, ” săn”, “nghiền nát”, v.v.”, “tiêu diệt”, wave: “thump thug vu hoi”, “né gần”, “cắt tỉa”

+ Biến đổi linh hoạt của vi khuẩn vi thạch: Tổng cộng có 3 vòng, 5 cổng sinh và 1 cổng tử (tả ngạn) ở vòng 1, nhiều cửa tử và 1 cổng sinh (hữu ngạn) ở vòng 2, 3 ít cổng và 1 cổng sinh mệnh (giữa), thể hiện hình ảnh nham hiểm, xảo quyệt và khó đoán của Dahe.

<3

2.2. “Lời bài hát” Sông Đà

– Khi nhìn từ trên máy bay xuống:

<3

+ Màu sắc của dòng sông thay đổi theo mùa: xanh vào mùa xuân và đỏ rực vào mùa thu.

– Sống lâu năm trong rừng bỗng gặp sông:

<3

– Khi đi thuyền ở hạ lưu sông:

<3

+Sông Đà trong vai “Người Tình Vô Danh”

– Cảm nhận: Sông Đà trữ tình như một người tình, một người tình.

– Chỉ thế thôi: Hình tượng Đại Hà vừa dữ dội, vừa trữ tình. Thông qua hình ảnh sông lớn, Nguyễn Nguyên thể hiện tình yêu của mình đối với thiên nhiên vùng Tây Bắc Trung Quốc.

3. Kết thúc

Xem Thêm: Giải bài 1.31, 1.32, 1.33, 1.34, 1.35 trang 21 SGK Toán 6 Kết nối tri

– Nêu cảm nhận của em về hình ảnh dòng sông.

– Nghệ thuật: so sánh, nhân hóa, tưởng tượng độc đáo, vận dụng tri thức đa nghĩa, tạo hình tượng thành công.

– Tác phẩm là một bài thơ hay được sáng tác bởi lòng yêu nước của một người, tôi muốn dùng văn chương để ca ngợi vẻ đẹp nên thơ hùng vĩ của thiên nhiên và con người Tây Bắc.

b/Sơ đồ tư duy

Phân tích hình tượng con sông Đà trong tác phẩm Người lái đò sông Đà năm 2021 Phan Tich Hinh Tuong Con Song Da 2021 14110

c/bài văn mẫu

Phân tích hình ảnh sông lớn——Mô hình 1

Xem Thêm : 15 câu trắc nghiệm Ancol có đáp án

“Người lái đò trên sông lớn” là một trong những tác phẩm hay nhất trong tập văn xuôi “Sông Đà” của Nguyễn Tuân, đồng thời nó cũng đánh dấu sự thay đổi trong tư tưởng, tình cảm của Nguyễn Tuân so với thời kỳ trước cách mạng. Ở những người lái đò sông lớn không chỉ có hình ảnh những người lao động dũng cảm, ngoan cường mà còn có cả thiên nhiên tươi đẹp, mang hai vẻ đẹp đối lập: vẻ đẹp hung bạo và vẻ đẹp trữ tình. Hai vẻ đẹp ấy hòa quyện vào nhau tạo thành một bức tranh sông nước hoàn chỉnh.

Trước hết về lai lịch của dòng sông này, theo Nguyễn Tuấn, dòng sông này được sinh ra ở huyện Kinh Đông, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc, sau đó nhập tịch vào Việt Nam nên cứ thế sinh sôi mãi mãi. Sinh, quốc… những từ này, biến dòng chảy của con ong thành dòng chảy của cuộc đời, số phận và cơ thể.

Trước hết, dòng sông mang vẻ đẹp hung bạo, dữ dội, bởi trước khi nhập tịch Việt Nam, nó đã chảy qua một ngọn núi hiểm trở ở Trung Quốc. Dòng sông dữ dội: những tảng đá bên bờ sừng sững, “vách thành như cái họng, chắn ngang lòng sông lớn”. Hình ảnh ẩn dụ lạ lùng tái hiện cảnh dòng sông bỗng hẹp lại, kết hợp với lối miêu tả tỉ mỉ: “Chỉ còn nắng trên sông giữa trưa”, hùng vĩ, huyền ảo, choáng ngợp. Với sự liên tưởng độc đáo, lạ lùng đó, Nguyễn Tuân đã gợi lên cái lạnh lẽo của cảnh vật. Trời thường lạnh và mọi người có xu hướng liên kết nó với mùa đông, nhưng Ruan Shun đã tuân theo sự liên tưởng này: “Ngồi trong khoang phà từ xa, đang là mùa hè, nhưng tôi cũng cảm thấy lạnh, cảm giác như đang đứng trong mùa hè. ngõ… Nhưng nhìn lên cửa sổ nhà lầu nào đó thì nó vừa tắt đèn.” Nó ngấm vào da thịt mà rợn người.

Khúc nguy hiểm của dòng sông cũng được tác giả uốn nắn trong dòng nước lũ. Với vốn kiến ​​thức địa lý sâu rộng và vốn từ phong phú, Nguyễn Tuân đã tái hiện thành công vẻ đẹp hung bạo của dòng sông: “Mặt ghềnh mà nước băng, bãi đá, sóng kéo dài hàng cây số. quanh năm Người lái đò sông lớn mắc nợ, lúc này không chú ý tay lái dễ bị lật bụng thuyền”. , chồng lên nhau về mặt cấu trúc, tạo nên nhịp điệu nhanh, mạnh, gấp gáp, gợi tả sóng biển, sự phản ứng dây chuyền giữa gió, nước và đá đầy nguy hiểm.

Mối nguy hiểm còn thể hiện ở lượng nước của sông. Giọng nói thật kinh khủng, “thở dài như đổ dầu sôi”, giọng gấp gáp và ghê rợn, như thể phát ra từ cổ họng của một con quái vật. Hình ảnh được tác giả miêu tả là “đàn quạ bay lượn trên cửa hút nước” gợi lên sự diệt vong và chết chóc. Tài hoa nhất là nguyễn tuấn đã đẩy trường đến cực hạn, khi tác giả vẽ cảnh anh thợ chụp ảnh táo tợn ngồi trong thúng, thả mình vào những cái hút ấy: “Ngồi thuyền quanh thúng, cho cả thuyền, chính anh và chiếc máy ảnh chìm xuống đáy hút của dòng sông lớn…”.

Nói xong về tên mạo hiểm giả độc ác này, Nguyễn Tuân tiếp tục đi sâu vào lòng sông. Tâm địa độc ác và xấu xa của Dahe thể hiện rõ nhất ở cách chúng thể hiện những vi khuẩn microlithic. Ở đây, Nguyễn Tuấn sử dụng biện pháp nhân hóa đến mức cực đoan, tạo cho những viên đá khác một tính cách và khuôn mặt con người. Theo miêu tả của Nguyễn Tuân, từng viên đá đều bị vò nát, uốn éo và biến dạng, vô cùng dữ tợn, chúng liên kết với nhau tạo thành một cái kéo trên trời và một cái võng bên sông. Trước khi bước vào trận chiến, chiến trường đã được thiết lập, chúng được chia thành ba trận địa vi thạch liên tiếp, chứa đựng vô số cửa tử, nhưng mỗi trận địa vi thạch chỉ có một cửa sinh mệnh, cửa sinh mệnh này khó lường. Như vậy để thể hiện sự gian xảo, xảo quyệt của dòng sông đối với những người lái đò. Thông thái, uyên bác, giàu ẩn dụ, Nguyễn Nguyên lột tả đầy đủ sự nguy hiểm, dữ dội của dòng sông, không chỉ ở vẻ bề ngoài mà ở cả tâm hồn, tính cách của vùng đất này.

Ở thượng nguồn mang vẻ đẹp hùng vĩ, dữ dội thì ở hạ lưu sông lại mang một vẻ đẹp khác, dường như đối lập hoàn toàn với vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng. Về vấn đề này, Nguyễn Tuấn cho rằng những dòng sông lớn là báu vật vô giá mà thiên nhiên ban tặng cho vùng đất Tây Bắc.

Để cảm nhận được toàn cảnh Đại Hà, tác giả đã nhìn nó từ nhiều góc độ, nhiều thời điểm khác nhau. Từ trên cao nhìn xuống, dòng sông lớn như một sợi dây thừng uốn lượn, rất mềm mại và đàn hồi. Dòng sông lớn được ví như “chảy như biểu”, dòng sông trông đẹp lạ thường, hệt như một thiếu nữ xinh đẹp. Nhất là khi sắc trắng tinh khôi của hoa ban, sắc đỏ của hoa gạo và làn khói bếp thoang thoảng làm cho dòng sông như lạc vào chốn bồng lai tiên cảnh thì vẻ đẹp của dòng sông càng thêm nổi bật. . Màu nước sông cũng thay đổi theo mùa, nước suối trong xanh, nước chảy êm đềm. Mùa thu vẫn đỏ như kẻ say mới bữa Dòng sông chậm trôi nặng phù sa Hình ảnh so sánh thật đặc sắc.

Đặc biệt vẻ đẹp trữ tình của dòng sông được thể hiện sinh động qua cảnh sông nước. Tác giả đã cố ý đẩy dòng nước sông vào một cõi thần tiên, để có cảm giác “khi mặt trời lặn, hoa lê nở trong trời lặng lẽ”. Tác giả miêu tả sự yên tĩnh của dòng sông, sử dụng bút pháp bơi trái phải, và chỉ tiếng kêu của cá ruy băng màu xanh cũng đủ khiến con nai hoảng sợ.

Ở hạ lưu, dòng nước của sông Qiu trở nên hiền hòa hơn, mà Ruan Tuan đã nói một câu rất tinh tế: “Thuyền tôi trôi trên sông Di”. Tuy không được miêu tả trực tiếp nhưng giọng điệu của câu văn toát lên sự nhẹ nhàng, êm đềm và duyên dáng của một dòng sông.

Tác giả đi sâu miêu tả cảnh vật ven sông, làm nổi bật lên vẻ thơ mộng, hương sắc như tranh vẽ của cảnh vật. Anh không tham chi tiết, nhưng có rất ít chi tiết rất đẹp và độc đáo làm toát lên hết khí chất của bức tranh, đó là cánh đồng ngô mới nhú, những ngọn đồi hoa cỏ mọc um tùm,… tất cả các chi tiết đều nhẹ nhàng và thanh thoát, nhưng để lại ấn tượng khó phai trong lòng người đọc.ấn tượng sâu sắc.

Ruan Tuan, một người có cuộc sống sung túc, đã vẽ nên một bức tranh rất đẹp về phong cảnh thiên nhiên và những dòng sông của Songda bằng ngòi bút tài hoa của mình. Dòng sông lớn xuất hiện trong tác phẩm của Ruan Jun không chỉ là một thiên nhiên thuần túy mà còn là một sản phẩm nghệ thuật vô giá. Qua đó, tác giả cũng thể hiện một cách mơ hồ lòng yêu nước, tự hào về quê hương.

Phân tích hình ảnh sông lớn—Mô hình 2

Sông Đà được cho là một trong những tác phẩm hay nhất của Nguyễn Tuân. Điều đó thể hiện đặc điểm phong cách của ông, đặc biệt qua hình tượng Dã Nguyễn Tuấn Hà cho người đọc thấy một nhà thám hiểm, nhà văn, nhà thơ, nhà ngôn ngữ lớn. Ở mỗi giai đoạn khác nhau, vẻ đẹp của non sông gấm vóc lại được tái hiện một cách sống động, sinh động và tràn đầy sức sống.

Đặc biệt, Người lái đò và Văn xuôi Đại Hà là kết quả của những chuyến đi thực tế của nhà văn Nguyễn Tuân lên vùng đất Tây Bắc vào những năm 1958-1960. Đây là thời kỳ miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội sau giải phóng. Dưới sự kêu gọi của Đảng bộ miền Bắc, một phong trào tình nguyện đã đến các vùng sâu, vùng xa của đất nước để khôi phục kinh tế và hàn gắn vết thương chiến tranh.

Đoạn văn của người lái đò sông lớn có lẽ là câu nói nổi tiếng nhất, miêu tả đúng nhất vẻ đẹp của dòng sông lớn. Từ đầu đến cuối tác phẩm, hình tượng Đại Hà thể hiện những phong cách và trạng thái khác nhau, vô cùng phong phú và độc đáo. Có lẽ Nguyễn Tuấn đã phải nghiên cứu, tìm tòi và quan sát rất kỹ lưỡng mới có thể mang đến một cảnh quan non sông trọn vẹn và đẹp đẽ như vậy.

Dahe, người lần đầu tiên xuất hiện trên trang phục tùng của Ruan, trông có vẻ độc tài và hung dữ, dường như là kẻ thù số một của nhân loại. Dòng sông lớn âm u lạnh lẽo, nhưng người đứng dưới đáy sông dường như không cảm nhận được ánh mặt trời chiếu xuống, cái lạnh thấu xương dường như xâm chiếm lấy người ngồi trên thuyền. Đặc biệt là biểu đồ so sánh: “Vách núi lũy sông lớn là chỗ hiểm yếu” đã thể hiện đầy đủ sự nguy hiểm rình rập con người khi dòng sông nhỏ hẹp và ngập lụt. Nguyễn Tuân tiếp tục nhấn mạnh sự tàn bạo này trong phần tiếp theo, như một cái vòi hút chết người, chỉ chờ người lái xe đến là hút vào, bỏ xác tan tác dưới dòng sông bên dưới. Người lái đò không dám lại gần: “Chiếc thuyền nào dám lại gần những cửa nước này. Mỗi chiếc thuyền đi qua đều nhanh chóng chèo qua sông, giống như ô tô sang số và đạp ga để tăng tốc thêm một quãng đường”. một cái cạp. Chèo cho mau, vững tay lái qua giếng sâu…’.

Nhưng sự hung dữ của sông lớn thể hiện rõ nhất ở trận chiến với những người chèo thuyền trên sông, thật trùng hợp là những khối đá tinh xảo được sắp xếp rất có trật tự. Âm thanh của thác nước từ xa báo trước sự hung dữ của chúng. Khi chúng rên rỉ, khi chúng cầu xin, khi chúng gầm gừ, chúng khiến bất cứ ai cũng phải khiếp sợ. Dần dần, khuôn mặt của họ đã được tiết lộ. Trong mảng đá vi mô đầu tiên, những viên đá ở nhiều tư thế khác nhau, méo mó, không hoàn chỉnh, độc ác và phóng túng, xếp thành hàng trên chiến trường. Trong trận chiến đó, có bốn cửa tử nhưng chỉ có một cửa sinh. Không chỉ vậy, đá ngầm còn hòa hợp với sóng biển, tạo nên một cơn bão dữ dội với mặt nước và đánh chìm con tàu. Trong sự hình thành vi thạch thứ hai, các cửa tử tiếp tục tăng lên, “thác báo gầm ở Thạch Giang”, các thủy thủ tranh nhau nuốt chửng thuyền. Chúng vô cùng oai phong và hung hãn. Trong trận đồ đá nhỏ cuối cùng, một số cánh cửa “tử vong ở bên trái và bên phải”, và chỉ có một “người bảo vệ thác nước ở giữa” được phục sinh. Việc điều quân vô cùng linh hoạt, mục đích đánh sông lớn là lấy mạng thợ thuyền. Đồng thời, những câu miêu tả này cũng thể hiện tài diễn đạt điêu luyện, óc quan sát tinh tế và nhạy bén của Nguyễn Nguyên.

Nhưng điều đẹp nhất và để lại cho chúng tôi nhiều ấn tượng nhất không phải là dòng sông đầy sóng gió mà là dòng nước sông hiền hòa, đượm một không gian trữ tình. Ở một góc độ khác, từ trên cao nhìn xuống, dòng sông lớn thật hiền hòa, đằm thắm: dòng sông lớn chảy dài, như một áng tóc trữ tình, ẩn hiện trong mây mù sương trời Tây Bắc, khoe sắc hoa. Tháng hai khói nương, mèo cháy ruộng xuân”. Đoạn văn này như một bản nhạc êm dịu, êm dịu, đồng thời cũng như một bức tranh màu nước. Sự kết hợp giữa nét chấm phá đơn giản và sương khói làm cho bức tranh đẹp hơn. Mờ ảo và kỳ ảo. Nhìn dòng sông lớn vào những thời điểm khác nhau, anh cũng thấy rằng dòng sông lớn mỗi mùa sẽ mang một dấu ấn riêng. Dấu ấn đó thể hiện ở màu nước thay đổi theo mùa. năm. Nước suối trong xanh màu ngọc bích, lung linh Lấp lánh trong như gương Nhưng đến mùa lũ thu, khi phù sa đổ về, dòng sông lớn mang một dáng vẻ rất khác: giữa dòng sông. Ai oán làm chi a rất nhạy cảm nhưng cũng rất tinh tế, bằng sự Tìm tòi, khám phá kết hợp với tình yêu thiên nhiên, Dòng sông lớn đã được Nguyễn Tuân cảm nhận một cách đầy đủ, trọn vẹn.

Không chỉ thấy Dahe là một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp mà anh còn thấy Dahe là một con người, đặc biệt là một ông già: “Bờ sông lớn, bãi sông lớn, chuồn chuồn bươm bướm. dòng sông lớn.” Chà, hãy nhìn Đối mặt với dòng sông, hạnh phúc như ánh nắng rực rỡ sau cơn mưa, hạnh phúc như tìm lại được giấc mơ đã tan vỡ. Vào rừng lâu rồi lại ra sông lớn, vâng, thật êm đềm và ấm áp như gặp lại người bạn cũ. “Đôi bờ sông lớn gợi ta nhớ đến thế giới cổ xưa của những con đường, đồng thời gợi cho người ta nhớ đến chốn thần tiên diệu kỳ. Nỗi nhớ sông lớn không đơn thuần là nỗi nhớ một địa danh, một chốn đã đi qua, mà là kiểu hoài niệm ấy, giống như một người bạn cũ, một người bạn cũ, vì thế mà càng ngày càng sâu.

Xem Thêm: Top 13 Bài văn tả một đêm trăng đẹp hay nhất

Dòng sông Lớn mang vẻ đẹp tiền sử của sự tĩnh lặng, yên bình và hoang sơ. Cảnh đẹp đến nỗi đã khơi nguồn cảm hứng thi ca cho biết bao thế hệ. Vẻ đẹp ấy theo dòng sông lớn xuyên qua không gian, thời gian và đặc biệt là qua thơ ca của nhiều thế hệ Nguyễn Quang Bi, Danda… trở thành bất tử. Trong mắt nhà thơ Tan Dacheng, Song Dacheng là “người tình vô danh”.

Dòng sông lớn mà Nguyễn Tuân miêu tả không chỉ là một cảnh quan thiên nhiên đẹp và độc đáo. Nhưng hơn hết, qua sông lớn, ông thể hiện tình yêu quê hương đất nước sâu sắc. Đồng thời, nó cũng minh chứng cho sự thay đổi quan niệm nghệ thuật của ông. Anh tìm thấy cái đẹp và cái đẹp ở đây, trong cuộc đời, trong giây phút này, chứ không phải trong những ngày huy hoàng của quá khứ.

Phân tích hình ảnh Sông lớn – Mẫu 3

“Sông lấy đâu ra nước

Nhưng khi về nước, tôi bắt đầu đi hát

Người ta hát khi vừa chèo vừa kéo thuyền qua thác

Đề ra trăm màu trên trăm dáng sông”…

(“Đất Nước” – nguyễn khoa điểm)

Nước ta trăm núi nghìn sông. Ông viết nhiều bài thơ hay về sông núi quê hương. Đoạn thơ trên khơi dậy tình yêu giang sơn trong lòng ta. Kể cả Đại Giang được người xưa khen ngợi:

“Chúng ta đang ở dưới nước,”

Sông lớn đầu độc phương bắc. “

Những dòng sông lớn ngày nay đã cung cấp cho nhân dân ta nguồn thủy năng to lớn, đem ánh sáng đến mọi miền đất nước. Cách đây gần 50 năm (1960), nhà văn Nguyễn Tuân đã viết tác phẩm “Đại Giang”, ca ngợi cảnh sắc thiên nhiên hùng vĩ, kỳ vĩ và con người vùng Tây Bắc Trung Quốc có nhiều phẩm chất cao quý, đáng yêu. Văn xuôi “Người lái đò của sông lớn” là một trong 15 bài văn của tác phẩm “Sông lớn”, và nó là một “danh sách hoa” thực sự. Phong cách nghệ thuật của Ruan Yuan được thể hiện rất rõ: hiểu biết, tài năng và độc đáo. Bên cạnh hình ảnh người lái đò là hình ảnh dòng sông lớn mà Trạng Nguyên bày tỏ về tình yêu quê hương đất nước.

Dahe hùng vĩ, dữ dội và thơ mộng — Ruan Xuan coi Dahe là một “ông già”, một ông già “đôi khi dịu dàng, đôi khi tức giận và cục cằn”. .

Sông lớn sóng dữ, lắm ghềnh thác: “Đường bao xa, trăm lẻ bảy thác, trăm lẻ ba ghềnh” (Bài ca). Nguyễn Tuấn như một nhà thám hiểm – đi xa mới biết nhiều, đến sơn và thủy thơ cho biết lý tiên và ba biên giang là hai tên cổ của đà giang. Ông cho chúng tôi biết tên của hàng trăm thác nước độc ác, kỳ lạ hoặc kỳ lạ: Enpu, Jiangpu, Moxia, Mota, Huaxi, Fengyin, Changyin, Tiepu… Tác giả nói từ Tie rằng thác nước chảy xuôi dòng Xuống bên dưới, sông Dahe là êm đềm và thanh bình nên ở Thái Lan có câu ngạn ngữ: “Đặt đệm dưới thác nước mà nằm”.

Ở giữa và thượng nguồn sông lớn có những vách đá dựng đứng sừng sững. Lòng sông chỉ còn nắng buổi trưa, một đoạn lòng sông bị “xẻ thịt” như nuốt nước bọt. Ngày xửa ngày xưa, một con hươu và một con hổ nhảy từ bờ này sang bờ khác. Tiếng thác ghềnh của sông lớn nghe rất réo rắt. Ở ghềnh có câu ca “Nước đụng đá, đá đụng sóng, sóng ngược gió, quanh năm gió lộng…”. Cửa lấy nước của tà mường xiên xẹo, tiếng nước “ọc ọc” như đổ dầu sôi vào, hút lấy phần nước lơ lửng dưới đáy, cao hơn cả cánh quạ. Tiếng thác đổ càng nghe càng hãi ​​hùng. Nghe “như một lời phàn nàn…, như một lời năn nỉ…, như một giọng khiêu khích, giễu cợt”. Âm thanh của thác nước giống như tiếng gầm của hàng ngàn con bò trong rừng và rừng trúc đang bốc cháy! Miêu tả dòng nước xiết của sông lớn, ngòi bút của Nguyễn Tuân đầy biến hóa và trí tưởng tượng phong phú. Có lúc ông sử dụng kỹ xảo điện ảnh, âm nhạc, hội họa, có lúc ông tạo ra những nhân cách hóa, so sánh, liên tưởng rất đắt giá để miêu tả, tái hiện và cảm nhận tính chất hung dữ của thác ghềnh sông lớn. Nguyễn Tuấn đã so sánh Dahe với một kẻ nham hiểm, xảo quyệt và tàn nhẫn với “mặt và tâm”, trên người có nhiều mầm “đá”, dày đặc “hầm trú ẩn thành pháo đài đá bọt”, và khuôn mặt “xanh” oai phong. Đáng sợ, sẵn sàng “gãy mái chèo” và “bắt chết” những con tàu đi qua. Ruan Yuan miêu tả cảnh người lái đò vật lộn với thần sông và thần đá thông qua ba thành đá của “Cửa nước”, thể hiện một cách sinh động sự hung dữ của dòng sông lớn và mang đến cho mọi người cảm giác mạnh mẽ.

Xem Thêm : Văn mẫu lớp 8: Thuyết minh về chiếc bánh chưng ngày Tết Dàn ý & 24 bài văn thuyết minh lớp 8

Sau khi đọc bài Người lái đò phố sông nước, chúng ta đã hiểu hơn về vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của vùng sông nước miền Tây này. Hình dáng mềm mại và duyên dáng của Daji được so sánh với “mười một triệu sợi tóc đen”, hay “mái tóc dài bồng bềnh như hồ ly, rễ ẩn trong mây trên bầu trời Tây Bắc”. “Tháng hai hoa nở, hoa rụng”. Một cách so sánh tài hoa, phong cách. Nước sông lớn bốn mùa thay đổi, nhưng đẹp nhất là mùa xuân và mùa thu: “Ngọc Khê mùa xuân xanh (…); mùa thu nước sông lớn chín đỏ như làn da bị rượu làm tổn thương.”

Sông lớn không chỉ có nhiều thác, nhiều ghềnh mà còn có những khoảng, không gian nên thơ hữu tình. Ở đoạn trên, cảnh dòng sông lớn “lặng lẽ”, dường như “dòng sông này thật yên tĩnh” từ cuộc sống lý trí, cuộc sống của thế giới và cuộc sống của hoa lê với nước. Có những cảnh đẹp hoang sơ, lạ lùng: “Bờ sông hoang sơ như bờ kè thời tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một cổ tích xưa” Lâu lâu, ông lấy bút chấm “điểm mắt”, tô đậm Khung cảnh thiên nhiên hữu tình của dòng sông lạ mà thân thương Đó là màu xanh mướt của bãi ngô đầu xuân Là ngọn đồi đầy “nụ hoa” Đó là những chú nai rừng “thơ mộng” ngẩng đầu mềm mại trên ngọn cỏ đẫm sương Đó là một đàn đuôi tóc xanh như bạc rơi bơi ngược dòng sông trắng.” Chuồn chuồn bướm bên bờ sông lớn, vào rừng Người trong huyện mang niềm vui “như thấy nắng tan sau mưa, như niềm vui trở về trong giấc mơ”, bị lãng quên như một con yêu tinh đá xa”, hay “nước sông như nghe tiếng người xuống dốc êm đềm”, v.v.

Một nhà phê bình văn học đã nhận xét rằng văn xuôi “Sông Đà” là một thể loại “văn xuôi-ký bút”. Đọc văn xuôi Người lái đò sông lớn, ta đã tiếp thu được nhiều kiến ​​thức mới, về địa lý, lịch sử, văn hóa, phong tục tập quán của một vùng quê, một dòng sông, về cảnh vật và con người Tây Bắc… Nói về thơ, ta đã thấy một Nguyễn Tuân rất phong độ, tài hoa và uyên bác. Hai câu thơ “Tizi” với những nguồn ít được biết đến đã ca ngợi hương vị thơ mộng và vẻ đẹp độc đáo của Dajiang: “Non sông không hay bằng tiếng hát”, “Trung Kỳ Dongtou”. ——Đại Hà đầu độc phương Bắc”. Giống như sông Dương Tử ở Trung Quốc, Dahe của chúng ta cũng mang vẻ đẹp của một bài thơ tuyệt vời “Thơ Đường” do Liebach viết hơn 1300 năm trước:

“Yên hoa tam tam ha duong chau”.

Khi ấy, Nguyễn Côn lại ngâm khúc hát thần sông, thần núi tranh sắc, như đưa tâm hồn ta về với truyền thuyết: “Núi cao nước dài, báo thù năm năm vạn năm. ” Nhà thơ Tấn và Nguyễn Tuấn là bạn cũ. Chúng tôi tìm thấy hai câu lớn trong bài viết, rất thú vị:

“Dòng sông gợn sóng

Có bao nhiêu tình yêu bấy nhiêu.

Từ đó ta càng cảm nhận được rằng tình yêu quê hương đất nước cũng chính là tình yêu của tâm hồn.

Nói về truyền thống yêu nước hào hùng của nhân dân vùng Tây Bắc Trung Quốc mà “thánh địa núi rừng đã anh hùng”, tác giả cũng không quên trích dẫn hai dòng tâm huyết của những người chí sĩ chống Pháp. Ruan Guangbi ở cuối – có trong chữ ký:

“Lòng trung thành không muốn rời Tây Âu”

Xem Thêm: PRAHA Thủ đô của mọi người

Giữ đẳng cấp cao của môn thể thao này”

Những trang văn của Nguyễn Tuấn đôi khi dường như hội tụ những gì tốt đẹp nhất của văn hóa phương Đông và phương Tây. Trí óc người đọc như được nâng lên tầm nhân văn, trí tuệ được khơi dậy, trở nên trong sáng và phong phú. “Người lái đò trên sông lớn” quả thực là một kiệt tác góp phần làm đẹp thêm vườn hoa nghệ thuật Việt Nam của Nguyễn Tuân.

Ai đã đọc “Vàng vàng gặp gỡ” chắc hẳn sẽ cảm nhận được sự sắc sảo, sang trọng và tài hoa của Nguyễn Nguyên khi ông nói về thư pháp, uống trà, chơi đèn Trung thu, v.v. vườn nho. Nhưng lòng người thư thái hơn, tự hào về bản sắc tốt đẹp của văn hóa Việt Nam đã được kết tinh trong tâm hồn dân tộc hàng ngàn năm.

Đọc văn xuôi “Người lái đò trên sông lớn”, chúng ta thật thích thú khi thấy rằng Nguyễn Tuân đã “làm thơ sang sông”. Anh khám phá ra nhiều điều trong văn hóa và nghệ thuật—những dòng sông lớn; dòng điện mô tả và chấp nhận con người—chào đón con người—trong tài năng và nghệ thuật. Miêu tả cảnh vật thay đổi theo mùa, mọi lúc. Talking Rapids đa âm và phức tạp, với tất cả sự nhạy cảm tinh tế, những liên tưởng đầy chất thơ, những kích thích đầy màu sắc và góc cạnh, cũng như vốn từ vựng phong phú và sáng tạo. nguyễn tuân là giọt mật của con ong yêu hoa, cần cù và sáng tạo, đem thơm thảo cho đời. Những câu văn xuôi thật hay, có lúc vang vọng ba tiếng thác đổ, có lúc gợi nhớ hương hoa núi rừng.

Đọc “Người lái đò sông lớn”, ta thêm yêu mến con người Việt Nam cần cù, dũng cảm, tự hào về sông núi kỳ vĩ của Tổ quốc. Dòng sông lớn là quà tặng của thiên nhiên và là hồn thiêng của Việt Nam.

Phân tích hình ảnh Sông lớn – Mẫu 4

Nguyễn Tuấn là một cây bút tài hoa và độc đáo, Nguyễn Tuấn thích miêu tả những cái to khỏe, cái đẹp một cách cao siêu. Những trang viết hay nhất của ông thường là những trang tả đèo, vực thẳm, thác nước. Nguyễn Tuấn yêu thiên nhiên và có nhiều khám phá tinh tế về vẻ đẹp của sông núi, cây cỏ trên đất nước mình. Phong cách tùy bút “Dahe Ferryman” thể hiện đậm phong thái của Ruan. Lấy cảm hứng từ dòng sông Đại Hà “hung bạo mà trữ tình” chảy qua trang nguyễn tuấn, lưu vực sông ấy đã được chuyển hóa thành một hình tượng nghệ thuật độc đáo.

“Người lái đò sông lớn” dựa trên tác phẩm văn xuôi “Sông Lớn” của Nguyễn Tuân. Công trình là kết quả của nhiều lần lên Tây Bắc thời chống Pháp, đặc biệt là chuyến đi thực tế Tây Bắc năm 1958. Tình nguyện viên, công nhân làm đường và dân tộc thiểu số. Thực tiễn xây dựng cuộc sống mới đã khơi nguồn cảm hứng cho nhà văn. Đến với tác phẩm của Nguyễn Tuân là đến với một tâm hồn vô cùng phong phú, có sự khám phá về quê hương vô cùng tinh tế và độc đáo. Nguyễn Tuân là một nhà văn yêu nước đầy tự hào dân tộc. Lòng yêu nước đó cũng chính là lòng yêu thiên nhiên tha thiết. Một trong những thành tựu to lớn của ông là khám phá ra Great River, dòng sông hùng vĩ chảy qua các khu rừng ở Tây Bắc. Chỉ có Nguyễn Nguyên không truy cứu nguồn gốc của dòng sông, lần theo nguồn gốc của dòng sông và biết rằng nó bắt nguồn từ huyện Jingdong và có tên của dòng sông ngay từ đầu. Trung Quốc khá thơ mộng. : Lý Thiên, Bá Biện Giang. Ngoài ra, trước Nguyễn Tuân, chưa có nhà văn nào kể tên được 50/73 ngọn thác lớn nhỏ trên một đoạn sông từ Lai Châu đến Chợ. Cũng chẳng có ai như Nguyên, viết đúng 3 câu về màu nước của một con sông lớn, phải bay qua sông đó vài lần. Trong suy nghĩ của người viết, Dahe có hai nét tính cách hoàn toàn trái ngược nhau: bạo lực và trữ tình.

Nguyễn Tuấn mô tả Đại Hà ở một trạng thái rất khác. Lúc đầu, dòng sông xuất hiện dưới dạng điên cuồng. Những vách đá “tường thành bằng đá”, những vách đá cao chót vót vắt vẻo trong lòng sông hẹp. Lòng sông hẹp, nhiều chỗ được tác giả miêu tả: “Trên sông chỉ có nắng trưa”, hổ và hươu nhảy qua sông, dùng tay ném đá nhẹ. con sông. Bên này đến bên kia bức tường. “Ngồi trong cabin ở khoảng cách đó, và trời mùa hè se lạnh, cảm giác như đứng trong ngõ nhìn lên khung cửa sổ tầng 2 của một ngôi nhà vừa tắt đèn”. Sự so sánh vừa chính xác vừa tinh tế, vừa ngạc nhiên vừa lạ lùng. Có cảm giác như nguyễn tuân luôn lục lọi trong thư viện ấn tượng đầy đủ để tìm ra những câu nói gây sốc.

Gió trên sông lớn: “Cây số dài, nước băng, đá, sóng, quanh năm lên xuống…” Chữ viết đẹp, câu văn diễn đạt mạch lạc. Câu trùng điệp, gợi hình ảnh Dòng sông giận dữ, hung dữ luôn muốn tiêu diệt con người. Cái hút nước ở góc xiên: “Nước ở đây thở nghe như miệng cống ngộp thở”, “Nước giếng sâu quá…” Cốc hút kéo bè gỗ xuống, hoặc hút thuyền xuống, đập nát nó thành từng mảnh. -> Sự tương phản độc đáo khiến Dahe không khác gì một con thú biển, cất tiếng kêu thảm thiết, như muốn uy hiếp cả thần linh và loài người.

Tiếng sông thác lớn: Nguyễn Tuấn như một nhạc trưởng, chỉ huy dàn nhạc giao hưởng, tấu lên bản nhạc của gió, thác, sóng và đá. Nguyên tác giả hát bài hát như thể đang “dằn mặt buộc tội”, “van xin”, “khiêu khích”, “giọng khinh bỉ mà giễu cợt”. Rồi bất ngờ âm thanh được khuếch đại đến cực đại và tiếng đàn bùng cháy lên, cất lên tiếng nhạc của thiên nhiên trong một sự phấn khích hoang dại và mãnh liệt: “Nó rống như cả ngàn con Trâu mộng ngồi giữa rừng và lũy tre rừng đang cháy Rừng cháy gầm da trâu cháy…”-> Liên tưởng vô cùng phong phú, tiếng thác Đại Hà trong tác phẩm của Nguyễn Tuân không khác gì tiếng động rừng, động đất hay núi lửa thời tiền sử phun trào. Dùng lửa tượng trưng cho nước, lấy rừng tượng trưng cho sông, Nguyễn Tuân quả thực đã đóng một vai trò lớn trong nghệ thuật.

Thông qua biện pháp nhân hóa, người đọc có thể nhận ra từng khuôn mặt con người từ những khối đá vô tri vô giác. Nguyễn Tuấn thổi sức sống vào từng thớ đá bằng sức mạnh điêu khắc của ngôn từ: “Cả chân trời đá… mặt đá nào cũng ‘dồ’, ‘nhăn nheo’, ‘méo mó’ -> những viên đá này vô hồn Vâng, nhưng trong mắt của Nguyễn Tuân, chúng mang trong mình sự ngông cuồng, hung dữ của ba vi khuẩn Vi khuẩn thứ nhất: Có con đá “đá cằm”, có con “thách thức”, “mặt nước lao vào bẻ chèo”, con sóng nước “đá sang trái, thúc gối vào bụng” đập vào mạn tàu”… Trận vi đá thứ hai: hai bên sông, quân đâu đâu cũng nhiều cửa tử, cửa ải sinh Nằm bên hữu ngạn… Trận vi đá thứ ba: Các sông lớn bố trí hai bên trái phải đều là suối chết, suối ở giữa.

Dahe tỏ ra hung bạo và tàn ác, không khác gì “kẻ thù số một của nhân loại”. Nhưng cũng chính từ hình tượng dòng sông, ông đã tôn vinh tài năng nghệ thuật của cây bút đầu tiên của thể loại văn xuôi Việt Nam tài hoa, lỗi lạc và uyên bác.

Nhưng Dahe không chỉ dữ dội như vậy, bởi đôi khi nó dịu dàng với vẻ đẹp trữ tình. Dahe không chỉ có “thác báo đỏ rực trên sông đá” mà còn có bức tranh màu nước đọng lại trong lòng người. Từ trên máy bay nhìn xuống, “sông lớn chảy như suối, tóc, tóc, ẩn hiện trong mây và sương trên bầu trời Tây Bắc, hoa nở, hoa gạo…”

Sắc nước sông thay đổi theo mùa, “mùa xuân xanh ngọc bích”, khác hẳn “màu xanh canh nghêu” của Ganhe và Luohe. Nước sông mùa thu “chín đỏ dần như mặt người hằn vết rượu…” -> Đại Hà mùa nào cũng có vẻ đẹp riêng, quyến rũ và yêu kiều.

Khi đến Đại Hà, niềm khát khao và nhiệt huyết đã khiến tác giả như muốn “đổ sông đổ bể”. nguyễn tuấn nhìn dòng sông lớn như một cố nhân, và cảnh vật hai bên bờ sông gợi vô cùng: lá non nhú trên bãi ngô, con nai “ngẩng đầu mềm dưới ngọn cỏ đẫm sương”… đã khắc sâu vào lịch sử của đất Việt: “Bờ sông hoang vắng như một bãi tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một cổ tích xưa… lặng lẽ như “đời từ đất, đời lê”.

Nguyễn Tuấn nhạy bén miêu tả dòng sông bằng tất cả những cảm xúc tinh tế và tình yêu thiên nhiên đất nước. Ngưỡng mộ, trân trọng và tự hào về một dòng sông, một dòng thác, một dòng suối đã tạo nên một trang sử đẹp hiếm có – Nguyễn Duẩn xứng đáng là nhà văn tài hoa nhất trong lịch sử văn học Việt Nam. Nam.

Văn phong của Nguyễn Tuân độc đáo và phong phú. Trong bài “Người lái đò sông lớn”, ta thấy phong cách đáng quý của ông thể hiện rõ nhất ở cảm quan nhạy bén của người nghệ sĩ, cùng với vốn từ ngữ phong phú, giàu màu sắc và một văn phong rất tài hoa. Đại Hà “dữ dội mà trữ tình” như nỗi nhớ và niềm tự hào của nhà văn Nguyễn Tuân về cây cỏ, sông núi quê hương sẽ mãi chảy trong dòng văn học nông thôn.

Phân tích hình ảnh sông lớn—Mô hình 5

Văn xuôi “Người lái đò trên sông” dựa trên văn xuôi Đại Hà của Nguyễn Tuân viết năm 1960, là kết quả của chuyến đi thực tế Tây Bắc của tác giả. Từ năm 1958 đến năm 1960, khi miền Bắc đang hàn gắn vết thương chiến tranh và bước đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tác phẩm là hình ảnh một dòng sông lớn chảy ngược so với các dòng sông khác ở Việt Nam, mang hai tính cách đối lập hoàn toàn: một bên là man rợ, hung dữ, một bên là vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình.

Tác phẩm thuộc thể loại đó là văn xuôi, tức là do nghệ sĩ tự do sáng tác, đây là tùy bút ghi lại người thật việc thật, không có cốt truyện cố định, theo cảm nhận chủ quan của chính tác giả. Văn xuôi Người lái đò qua sông lớn của Nguyễn Tuân là một thể loại văn xuôi như vậy.

Để làm rõ vẻ đẹp của dòng sông lớn, tác giả miêu tả nó từ hai khía cạnh: một là dữ dội, hùng vĩ, hai là thơ mộng, đẹp như tranh vẽ. Đầu tiên là tính hung bạo của dòng sông, để thể hiện Đại Hà là một dòng sông vô cùng hùng vĩ và hung dữ, tác giả Nguyễn Tuấn đã từng viết để miêu tả vẻ ngoài của Đại Hà: “Đá xây thành”, “Buổi trưa, chúng tôi có thể nhìn thấy bầu trời”, “Kín như yết hầu”, “Hơi nén sang bên kia”, “Đêm lạnh”,… Tác giả sử dụng nghệ thuật so sánh lạ, bất ngờ. Cảm giác gần gũi mang đến cho người đọc nhiều cảm xúc tinh tế, lan tỏa qua từng câu văn, thành hình, mang đến cho người đọc những liên tưởng khác nhau.

Tiếp theo, tác giả miêu tả sự vây bủa của dòng sông lớn trong “dài dặm ghềnh đá, đá sóng, gió cuộn, quanh năm gió lộng như thuở nào. Người lái đò sông lớn lúc đòi nợ bắt quả tang nào”. Câu văn của Tuân Nhịp điệu gấp gáp, đồng thời tác giả còn sử dụng động từ “xô” trong một loạt câu để diễn tả trạng thái dâng trào của dòng sông qua từng câu. .Đến khu vực dốc phía dưới “sơn la. Trên sông có một cửa hút đột ngột, giống như một miệng giếng bê tông đổ xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu. Nước dưới đáy thở, nghe như tiếng cống nghẹt. Cái hút xoáy đáy Mặt cũng quay tít như tiếng quạ vỗ cánh Không thuyền nào dám lại gần cửa hút nước ấy…” Tác giả dùng hình ảnh ẩn dụ để miêu tả sức hút của nước sông như miệng giếng xi măng , và âm thanh nó tạo ra chỉ là âm thanh. Hơi thở của vật đanh như tiếng gà gáy, thể hiện đầy đủ sự dữ dội của sông nước, người ta nói: “như một lời khiêu khích”, “như ngàn mộng bò rừng” trong rừng lửa. Tác giả dùng lửa để miêu tả sức mạnh của nước.

Tiếp theo, tác giả giới thiệu vòng đá Dahe và thực hiện tổng cộng ba vòng. Vòng đầu tiên bao gồm ba hàng thuyền tổng cộng, hàng đầu tiên bao gồm hai hòn đá mở ra hai bên, một cửa sinh tử và bốn cửa tử, tác giả sử dụng kiến ​​​​thức võ thuật và quân sự để mô tả phần Dahe này. Thứ hai là lòng sông hung dữ, đen tối khiến nó trở thành con thủy quái khổng lồ, kẻ thù số một của thuyền nhân mỗi khi qua sông, nó luôn rình mồi và lật úp khắp nơi. Hai bên bờ sông đâu đâu cũng có những tảng đá ngàn năm tuổi, nhưng thỉnh thoảng chúng lại xuất hiện ở giữa sông lừa phòng trường hợp thuyền bị lật.

Dòng sông lớn của nhân cách thứ hai mang một cảm xúc thẩm mỹ huyền diệu, trữ tình Tác giả miêu tả dáng vẻ của dòng sông lớn như một sợi dây uốn lượn Tác giả thay đổi góc nhìn từ trên cao, lúc này nhìn xuống dòng sông lớn từ một nơi cao. Tác giả sử dụng hình ảnh nghệ thuật ẩn dụ của dòng sông lớn là “như mái tóc trữ tình, mái đầu, sợi tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc, hoa ban nở, hoa gạo tháng hai, cuộn trào, như mùi khói núi, mùi mèo cháy”. “. Dòng sông lớn mang vẻ đẹp duyên dáng của người con gái Tây Bắc. Dòng sông đổi màu theo mùa. dòng sông, như một nàng tiên năm xưa.Tác giả còn gọi dòng sông lớn là ông già ốm yếu,…

Tác giả Ruan Duan miêu tả Dahe với hai tính cách hoàn toàn khác nhau, hung dữ và hung dữ, để thể hiện tình yêu quê hương đất nước và phong cách nghệ thuật tài hoa, uyên bác, thiên về miêu tả và gây ấn tượng đặc biệt. câu.

Nguồn: https://anhvufood.vn
Danh mục: Giáo Dục