Văn mẫu lớp 12: Phân tích 9 câu đầu bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm Dàn ý & 21 bài phân tích Đất nước 9 câu đầu

Mở bài đất nước 9 câu đầu

Mở bài đất nước 9 câu đầu

Video Mở bài đất nước 9 câu đầu

Phân tích 9 câu đầu Ruan Guoyan’s Kingdom gồm 21 bài văn mẫu siêu hay và gợi ý cách viết chi tiết nhất. Phân tích chín câu đầu của Đất nước không chỉ giúp ta hiểu được cội nguồn, lịch sử hình thành của đất nước mà còn gợi lên những nét đẹp về phong tục văn hóa đã được hun đúc và nuôi dưỡng từ hàng ngàn năm.

Bạn Đang Xem: Văn mẫu lớp 12: Phân tích 9 câu đầu bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm Dàn ý & 21 bài phân tích Đất nước 9 câu đầu

top 21 bài văn mẫu phân tích 9 câu đồng quê cực hay trong bài viết dưới đây sẽ giúp các bạn ôn tập, củng cố lại những kiến ​​thức, kỹ năng đã học trên lớp. Đồng thời, phần Phân tích tình hình đất nước trong 9 câu đầu sẽ cùng các em nâng cao vốn văn học, hoàn thiện bài soạn trong quá trình ôn tập, đạt điểm cao trong kỳ thi. kỳ 1. Trong số những thứ khác, bạn có thể thấy: nguyen khoa diem Phân tích đặc điểm mới của tư tưởng dân tộc, Phân tích dân tộc thơ.

Dàn ý phân tích 9 câu đầu của bài viết

I. Lễ khai trương

– Giới thiệu tác giả, tác phẩm

– Đoạn giới thiệu

Hai. Văn bản:

Một. Lập luận 1: Nhà nước tồn tại từ khi nào?

– Phần đầu tiên là câu trả lời cho câu hỏi này:

“Ta lớn lên Tổ quốc đã có”

Đất nước là thứ mà ai cũng quen thuộc, gần gũi, gắn bó và ai cũng tồn tại từ thuở phôi thai. Thể hiện tư tưởng “một đất nước của nhân dân”

– Qua câu “ngày xửa ngày xưa”, tác giả dùng chiều sâu văn hóa để cảm nhận lịch sử đất nước và cuộc sống đời thường của mọi người, đồng thời gợi lên những bài học đạo đức làm người qua các câu chuyện. Truyện cổ tích đầy cảm xúc.

b. Bài 2: Quá trình hình thành nhà nước?

– Bắt đầu từ tục ăn trầu gợi cho người ta hình ảnh quen thuộc của người bà, gợi câu chuyện về sự tích trầu cau, gợi tình anh em sâu nặng, thủy chung son sắt.

– Hình ảnh “cây tre” còn gợi cho người ta hình ảnh con người Việt Nam cần cù, cần cù, bao dung, chịu khó. “Trưởng thành” là nói đến quá trình lớn mạnh của một quốc gia, nói lớn mạnh trong chiến tranh tức là truyền thống đánh giặc ngoan cường.

– Tục chải tóc ra sau để tập trung vào công việc gợi nhớ đến những câu ca dao yêu chuộng hòa bình. Qua bức tranh liên tưởng đến tình cảm sâu nặng giữa vợ và bố chồng: “gừng cay”, “muối muối”.

– Tái hiện nét văn hóa của nước ta với câu ca dao giản dị mà đầy ý nghĩa: “Hạt gạo phải xay, giã, sàng, sảy”. Nghệ thuật liệt kê, đi liền với nhịp điệu đều đặn thể hiện truyền thống lao động cần cù, lối sống trong cuộc sống hàng ngày.

– nguyễn khoa điểm thâu tóm tất cả chỉ với một suy nghĩ: “Đất nước này có từ ngày ấy…”. Dấu “…” ở cuối câu là một phép tu từ câm, dù lời đã mất nhưng ý còn, còn, còn cháy.

=>Sự hình thành của quốc gia này có liên quan đến văn hóa, lối sống, phong tục tập quán và đời sống gia đình của người Việt Nam. Cái làm nên một đất nước cũng được cô đọng trong tinh thần dân tộc. Vì vậy, đất nước xuất hiện linh thiêng, ngoan đạo và gần gũi.

Ba. Kết luận:

– Phác thảo vấn đề

………………………………………….. .

9 câu đầu phân tích đất nước

Ví dụ 1

Đất nước – chỉ hai từ thôi mà sao nhân hậu đến thế! Nó còn là nguồn cảm hứng vô tận cho thơ ca, nghệ thuật. Mỗi nhà thơ sẽ chọn cho mình một góc độ riêng để nói về đất nước này, nếu như các nhà thơ đương đại thường chọn nhìn đất nước này bằng những hình ảnh vĩ đại hay những cảm hứng lịch sử từ các triều đại đã qua, thì Nguyễn Khắc An lại chọn một góc độ nhân hậu và giản dị để miêu tả đất nước này. dân tộc. Bài thơ ‘Đất Nước’ của nguyễn khoa diem gợi cho người đọc vẻ đẹp văn hóa, thuần phong mỹ tục thật đẹp, sinh động và đầy tình người việt nam. Với 9 câu thơ mở đầu, nhà thơ đưa người đọc ngược dòng lịch sử của đất nước này để trả lời câu hỏi đất nước này có từ bao giờ:

Khi tôi lớn lên Đất nước này đã có Đất nước này trong “Ngày xửa ngày xưa…” Mẹ thường nói Đất nước này bắt đầu từ miếng trầu, bây giờ ăn nước này dân ta mới biết làm sao phải làm Khi lớn lên trồng tre chít tóc mẹ Đào ra sau đầu cha mẹ yêu thương Gừng cay muối muối Cây trúc con sào thành danh hạt gạo phải nên đất nước này đã có từ ngày đó…

Nguyễn khoa Điểm là một nhà thơ và chính khách Việt Nam. Anh là người con xứ Huế, chính những nét riêng của Huế đã làm nên thơ Nguyễn Gạo Điềm trữ tình sâu sắc, dung hòa giữa trí tuệ và cảm xúc. Sau khi tốt nghiệp khoa Ngữ văn Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Nguyễn Kế Điềm trở về Tổ quốc, tham gia cuộc đấu tranh khốc liệt vì hòa bình và công lý. Trực tiếp tiếp xúc với chiến tranh, chứng kiến ​​tội ác của kẻ thù, cuộc đấu tranh gian khổ của đồng bào… tất cả những điều đó đã khơi dậy nguồn cảm hứng sáng tác mạnh mẽ của Ruan Keyan. Nguyễn khoa Điểm đã tích lũy vốn sống và kinh nghiệm cho mình từ những đêm ngày không ngủ trên đường phố, nên nguồn cảm hứng mới có thể tuôn trào trong bản trường ca chín chương viết năm 1917 này. Tác phẩm thành công nhất là “Đất nước” đã trở thành một bài thơ có sức sống độc lập và thể hiện đầy đủ tài năng văn phong của Nguyễn Khả An.

Nguyễn khoa Điểm suy tư, ngẫm nghĩ về nguồn gốc và sự hình thành của các dân tộc bằng một giọng văn truyền cảm, ngọt ngào như truyện cổ tích ngay từ những dòng đầu của đoạn trích:

Khi ta lớn lên, quê hương đã có quê hương trong “Ngày xửa ngày xưa…” mẹ từng nói với tôi

Mở đầu bài thơ là khẳng định “Đất nước lớn lên đã có”, đất nước đã có rồi, nó tồn tại trước khi ta sinh ra, bởi nó đã có khi ta lớn lên. Đây cũng là sự khẳng định chắc chắn về bề dày lịch sử dựng nước và giữ nước hàng nghìn năm của dân tộc ta. Từ “trước” chỉ thời gian hư ảo, huyễn hoặc và chính nhịp thời gian cổ kính, thăm thẳm mở ra câu chuyện cổ. Với Nguyễn khoa Điểm, đất nước này đã có từ xa xưa, trong chiều sâu của thời gian, trong ký ức tuổi thơ trong sáng của mỗi con người. Truyện Nguyễn Khoa Điểm gợi hoài niệm da diết về một thời đại trong lòng người đọc. Đó cũng là đất nước mà người ta cảm nhận trong sâu thẳm trái tim, văn hóa và lịch sử:

Đất nước từ miếng trầu, nay trầu cau, đất nước phát triển từ khi dân biết trồng tre, đánh trận

Xem Thêm: Giáo án Sang Thu Hữu Thỉnh chi tiết đầy đủ nhất

Đây là miếng trầu gợi lên truyền thuyết cổ xưa nhất của người Việt “sự tích trầu cau”, từ tích xa xưa của vị vua anh hùng lập quốc, ca ngợi tình nghĩa vợ chồng, anh em thương yêu và các chị em, đồng thời đánh thức họ. Hình ảnh miếng trầu đã trở thành biểu tượng của tình yêu thủy chung, và miếng trầu là đầu câu chuyện. Đó còn là truyền thuyết tiên hiền nhổ tre đánh đuổi giặc Ân gợi lên vẻ đẹp bất khuất, khỏe khoắn của tuổi trẻ Việt Nam. Vẻ đẹp ấy không thể tách rời khỏi hình ảnh cây tre Việt Nam. Làng nào cũng có lũy tre hiền hòa. Hình ảnh cây tre là phẩm chất cốt lõi của con người Việt Nam: thật thà, trung hậu, yêu chuộng hòa bình, bất khuất trong chiến tranh. Với tầm nhìn độc đáo của Nguyễn khoa Điểm, quê hương đã ăn sâu vào mỗi chúng ta và trong đời sống tinh thần của biết bao thế hệ người dân.

Tác giả cũng đề cập đến những phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, câu nói “tay cầm chén muối đĩa gừng cay/ gừng mặn xin đừng quên nhau” dường như đã đi vào hồn thơ nguyễn khoa diem:

Tóc mẹ chải sau mái đầu cha mẹ thương, mặn gừng cay

Tóc búi sau gáy vẫn là một phong tục rất quen thuộc của bao thế hệ phụ nữ Việt Nam. Đó là nét đẹp giản dị nhưng toát lên vẻ đẹp trong sáng không thể lẫn với các nền văn hóa khác. Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục kết nối ý tưởng của mình với những người đã sống, làm việc và chiến đấu trên đất Việt hàng thiên niên kỷ để giữ gìn và làm đẹp cho mảnh đất thân yêu này. Ở đó, những nguyên tắc tao nhã và chung thủy đã trở thành truyền thống ngàn đời ở đất nước này: “Cha mẹ thương nhau, gừng và muối”. Người ta thường nói gừng càng già càng cay, càng già càng mặn, nghĩa là càng ở bên nhau lâu thì tình cảm càng thắm thiết.

Đất nước gần gũi, thân thiết như ruột thịt và nhiều công việc khác:

Những hạt gạo làm giàn, làm đòng nổi tiếng phải được xay, giã, nghiền, sàng

Cha ông gắn liền với nông nghiệp lúa nước, mái tranh, miền quê khắc khổ nên ông thường đặt cho con những cái tên giản dị, mộc mạc, có khi là vài bộ quần áo. Bản thân các bộ phận của ngôi nhà tre gỗ nằm ở “kèo” và “cột”. Đối với người dân Việt Nam từ lâu đã gắn bó với nền văn minh lúa nước, hạt gạo đã trở thành một vật gia truyền vô cùng cần thiết trong cuộc sống. Vì vậy, ngay cả khi đứa trẻ lớn lên, trải nghiệm vật chất đầu tiên phải là hạt gạo, được kết tinh từ mồ hôi nước mắt của người lao động qua quá trình lam lũ “một nắng hai sương, bôn ba, bôn ba”. Đến với đất suốt ngày tắm mưa dãi nắng, dân tộc ta mới đúc kết được viên ngọc quý ấy Cái thấm vào hạt gạo nhỏ bé ấy là mồ hôi của người nông dân và vị mặn của mồ hôi Đó là lý do tại sao khi ăn xôi basmati cơm phải nhớ kẻ nấu.

Câu cuối tự hào kết thúc lời khẳng định: “Đất Nước có từ ngày ấy…” “Ngày ấy” là ngày nào ta không biết, nhưng lời khẳng định “Ngày ấy” là ngày ta có truyền thống. Có truyền thống, phong tục và văn hóa, và văn hóa có nghĩa là một quốc gia.

Trong đoạn thơ trên, tác giả đã khéo léo sử dụng các cấu trúc câu như “nhà nước”, “nhà nước”, “nhà nước”, “nhà nước từ” giúp ta hình dung được toàn bộ quá trình hình thành và sự phát triển của quê hương trong một chặng đường lịch sử lâu dài, in đậm trong tâm trí các thế hệ người Việt Nam. Nguyễn khoa Điểm lặng lẽ quan sát đất nước trong tất cả các khía cạnh của cuộc sống hàng ngày và trong các mối quan hệ thân thiết và quen thuộc của nó. Quê hương là những gì bình dị, gần gũi và thân thuộc nhất trong cuộc sống hàng ngày của mỗi người Việt Nam: câu chuyện cổ tích bà kể, miếng trầu bà ăn, gừng cay, muối, hạt gạo…

Mô hình 2

Nông thôn là một đề tài phong phú của thơ ca, ở mỗi giai đoạn lịch sử nó lại thể hiện những diện mạo khác nhau. Bạn đọc đừng quên những tình cảm chân thành của nhà thơ Nguyễn Quốc Điềm, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, chúng ta phải tự hào là những người con của đất Việt anh hùng.

“Trường ca hoài bão trên đường” do Ruan Guoyan sáng tác tại Chiến khu Zhitian năm 1971, in lần đầu năm 1974. Khi đó miền nam bị tạm chiếm, đế quốc Mỹ và tay sai ra sức xuyên tạc đảng cộng sản để dụ dỗ mua chuộc thanh niên Đi làm cách mạng mà quên đi trách nhiệm với đất nước. Bản anh hùng ca ra đời đã đánh thức tinh thần trách nhiệm, làm cho một thế hệ càng nhận thức rõ hơn về vai trò, trách nhiệm của mình đối với đất nước.

Khác với các nhà thơ đương thời viết về nông thôn, nhà thơ Nguyễn Cao Ngôn đã tìm hiểu và viết nên bài thơ “Đất nước” từ nhiều khía cạnh. Đầu tiên, nói về cội nguồn quê hương, ông sử dụng những hình ảnh, chi tiết bình dị, thân thuộc và gần gũi nhất với con người.

“Lớn lên rồi sẽ có tổ quốc, như lời mẹ đã nói rồi sẽ có tổ quốc”

Tác giả thể hiện niềm khao khát đất nước với giọng truyền cảm như một câu chuyện cổ tích. Đất nước được đưa về quá khứ của những câu chuyện cổ tích được kể bởi các bà mẹ. Cha ông đội đá, vá trời, dựng núi sông, để đời sau hưởng phúc. Ai trong chúng ta cũng không biết Đất nước có từ bao giờ, chỉ biết Đất nước có từ khi bà ăn trầu, đồng bào trồng tre đánh giặc.

Xem Thêm : Soạn bài Những yêu cầu về sử dụng tiếng Việt

Nguyễn khoa điểm không dùng sử liệu, triều đại để nói về cội nguồn đất nước mà chọn lối kể dân gian, giản dị và gần gũi, như những gì tồn tại quanh ta, như gia đình, cha mẹ, ông bà, như phong tục cổ xưa .

“Đất nước bắt đầu từ miếng trầu, nay bà ăn trầu. Đất nước bắt đầu từ khi dân biết trồng tre đánh giặc”

Hình ảnh thơ gợi cho ta sự tích miếng trầu trong cuộc đời của một vị vua anh hùng với tình anh em sâu nặng, nặng tình nghĩa vợ chồng. Tác giả đưa ta trở về thời kỳ thiêng liêng lũy ​​tre chống giặc ngoại xâm, cho ta tự hào về truyền thống yêu nước của dân tộc ta được đúc kết trong thời đại dựng nước bằng sức mạnh ngàn xưa .

Quốc gia lớn lên theo phong tục:

“Tóc mẹ búi ra sau, cha mẹ thương gừng cay muối”

Tác giả nhìn thấy lịch sử lâu đời của đất nước này từ chiều sâu văn hóa và văn hóa dân gian. Đây là cách quen thuộc của phụ nữ Việt Nam để buộc tóc thành những lọn tóc xoăn gọn gàng. Đó là tình vợ chồng trọn vẹn trong ca dao:

“Một chén muối một dĩa gừng xin đừng quên nhau”

Cách các nước đặt tên con để cầu may mắn hay chóng lớn từ những ứng dụng hàng ngày.

“Những chiếc kèo chứa đầy hạt gạo phải được phơi nắng hai lần, sàng sảy”

Nhà nước có thơ, nhà nước có khởi đầu, nhà nước có lời nói… Ta hãy tưởng tượng, trong mắt trẻ thơ, trong suốt quá trình sinh thành, trưởng thành đó là biết bao thế hệ người Việt Nam. , và sự trưởng thành ở đất nước này trong thời gian dài? Đất nước gắn liền với nền văn hóa trồng lúa nước, được khắc họa trên gương mặt của sự cần cù.

Có thể nói, Nguyễn khoa Điểm đã sử dụng ca dao và chất liệu dân ca một cách tài tình và hiệu quả. Nhà thơ không nói đến một bài thơ cụ thể, cũng không trích nguyên văn một câu thơ mà chỉ gợi một số từ ngữ, chi tiết, hình ảnh tiêu biểu. Những điều này đủ để nhà thơ đạt được mục đích thể hiện một đất nước bình dị, gần gũi, đời thường đồng thời khơi gợi trong tâm trí người đọc chiều sâu của nền văn hiến hàng nghìn năm của dân tộc. .Khác với Nguyễn Đình tự hào về đất nước rộng lớn vô biên.

“Trời xanh là của ta, núi là của ta, ruộng thơm, đường rộng, sông phù sa”.

Đất nước là một phạm trù chính trị xã hội Viết về đất nước, bàn về đất nước, tìm về cội nguồn, định nghĩa đất nước là những vấn đề chính trị khô khan, xưa cũ nhưng những vần thơ của tác giả được thể hiện bằng ngòi bút trữ tình, bằng tâm hồn trầm tư. và Tình cảm nồng nàn, tha thiết thể hiện ở tình yêu văn hóa, văn hóa dân gian, đất nước. Tài năng của Nguyễn Khoa Điềm đi từ cũ đến mới, vừa quen vừa lạ, khiến người đọc không khỏi gần gũi và bất ngờ.

Tình yêu quê hương đất nước, yêu văn hóa dân gian, là hình tượng quốc gia của Nguyễn khoa Điểm, bài thơ ngắn này đã chạm đến ký ức tuổi thơ của mỗi người Việt Nam, niềm tự hào về dòng tộc, dòng máu và quê hương. Trong bất kỳ hoàn cảnh lịch sử nào, đoá là bài học quý giá cho các thế hệ.

9 câu đầu đất nước

Nguyễn khoa Điểm là một nhà thơ lớn lên trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước. Ông nguyên là Bộ trưởng Bộ Văn hóa Thông tin, nay đã nghỉ hưu. Tác phẩm tiêu biểu: Đất ngoại ô, Bài thơ dài bên vỉa hè. Giang sơn là bài thơ được chọn từ chương 5 của bản hùng ca “Mặt đường khát vọng” hoàn thành trên mặt trận bình đẳng năm 1971. Bài kể về sự thức tỉnh của thanh niên miền Nam xuống đường chung sống hòa nhịp với cuộc kháng chiến của dân tộc. Sức cản. Đặc biệt là 9 câu thơ đầu.

Khác với các nhà thơ đương thời – ông thường cất tiếng ca ngợi đất nước từ xa, giàu ý nghĩa, hào hùng, tượng trưng. Nguyễn khoa Điểm đã chọn một góc nhìn cận cảnh để miêu tả một đất nước chân chất, bình dị nhưng cũng không kém phần thần tiên. Hình ảnh đất nước trong câu thơ đầu tiên hiện lên đầy màu sắc và sống động, đọng lại trong tâm trí ta qua vẻ đẹp của các phong tục, tập quán, nét văn hóa và truyền thống của dân tộc Việt Nam.

Với Nguyễn khoa Điểm, đất nước ở trong cuộc sống của mỗi gia đình chúng ta, từ câu chuyện của người mẹ, miếng trầu của bà, phong tục quen (mẹ vén tóc) đến lòng hiếu nghĩa của cha mẹ, của miếng ăn. hàng ngày Hạt gạo, cây kèo, cái đòn gánh trong nhà… tất cả những điều đó làm cho đồng quê trở thành một thứ gần gũi, thân thiết và bình dị trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Mọi người.

<3Ruan Gaoyan giải thích: "Đất nước là một giá trị không thay đổi. Đất nước được tạo ra, xây dựng và truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác qua nhiều thế hệ. Vì vậy, "khi chúng ta lớn lên, đất nước đã tồn tại!" " (Nguyễn khoa Điểm – tác giả, tác phẩm). Câu nói "Tổ quốc đã đến rồi" thể hiện niềm tự hào mãnh liệt về bề dày lịch sử hàng nghìn năm của đất nước. Tổ quốc như đất trời. Khi ta sinh ra, Người đất ở dưới chân, trời ở trên, cũng không biết đất nước này có từ bao giờ, nhưng khi lớn lên mới thấy đất nước ở quanh ta, với những điều ta yêu quý nhất.

Xem Thêm: Kể chuyện: Nhà vô địch trang 139 SGK Tiếng Việt 5 tập 2

Hai câu thơ tiếp theo miêu tả vẻ đẹp của đất nước này về văn hóa và phong tục tập quán. Những từ như quốc gia “vào”, quốc gia “bắt đầu” diễn tả rất nhẹ nhàng sự ra đời của dân tộc:

<3

Tác giả mượn chất liệu từ văn học dân gian để miêu tả đất nước. Đối với trẻ em, đất nước thân yêu, và qua những câu chuyện “ngày xửa ngày xưa” của mẹ chúng… có nghĩa là đất nước đã có từ lâu đời. Các quốc gia tồn tại trước khi truyện cổ tích ra đời, khi truyện cổ tích xuất hiện trong đời sống tinh thần của chúng ta, chúng ta thấy các quốc gia trong truyện cổ tích. Đây là một quốc gia có nền văn hóa dân gian độc đáo về truyện cổ tích, thần thoại và truyền thuyết. Chuyện xưa, lời ru trong nôi là nguồn sữa ngọt nuôi ta đôi chân xinh, khi lớn lên ta biết yêu đất nước, yêu đồng bào. Về ý nghĩa của truyện cổ với đời sống tinh thần con người, nhà thơ Lin Shimeida xúc động viết:

<3

(Truyện cổ tích quê tôi)

nguyễn khoa điểm không chỉ là “ngày xưa” mà nhận diện những ngày đầu đó qua cuộc sống bình dị mà phong phú của những người mẹ, người bà Việt Nam. Đó là tục ăn trầu: “thuở sơ khai ăn trầu, ngày nay ăn trầu”. Tại sao có một đất nước vĩ đại và tuyệt vời trong một miếng trầu nhỏ? Phong cách thơ phi lý, nhưng logic, bởi vì những điều lớn đến từ những điều nhỏ bé. Làm sao có sông mà không có suối, làm sao có biển mà không có sông. Vì thế, khi nói đến “miếng trầu” thì phải có ý tứ. Bài thơ gợi nhớ đến truyện cổ tích “Chuyện Sự Tích Miếng trầu”, được coi là truyện cổ lâu đời nhất. Tục ăn trầu cũng bắt nguồn từ câu chuyện này. Vì vậy, đi sâu tìm hiểu đơn giản miếng trầu là một phong tục có từ 4000 năm nay, và người dân nước ta đã giữ tục ăn trầu từ 4000 năm nay. Trầu cau là biểu tượng của tình yêu, là bằng chứng cho sự lứa đôi, là biểu tượng tâm linh của người Việt Nam. Từ tục ăn trầu, tục nhuộm răng cũng ra đời. Huang Jin cũng đề cập đến đặc điểm này trong bài thơ “Guoyanghe” của mình:

Cô gái có hàm răng đen cười như mùa thu tỏa nắng

Một đất nước không thể tồn tại mà không có truyền thống Một trong những truyền thống quý báu của dân tộc ta đó là truyền thống giết giặc giữ nước: “Nước lớn đến mấy cũng biết kẻ tre đánh giặc”.

Nhà thơ nghĩ về sự lớn mạnh của đất nước qua câu thơ song hành “Đất nước lớn lên…”. Từ “lớn lên” chỉ sự trưởng thành của đất nước. Câu này làm chúng ta nhớ đến truyền thuyết về thánh Joan, lên ba tuổi đã biết đánh trận. Đứa trẻ vươn vai hóa thân thành chàng trai Dong Tianwang đi hái tre ở Làng Ngà để đánh giặc. Từ đó, vị thánh trở thành một biểu tượng lành mạnh về lòng kiên trung của tuổi trẻ Việt Nam trong cuộc đấu tranh chống ngoại xâm. Trong đầu còn có bài thơ:

Chúng ta như thần Soochow xưa lớn lên đánh giặc Sức người như ngựa sắt.

(có thể)

Truyền thống vẻ vang ấy có từ lâu đời trong lịch sử dân tộc, cho đến hôm nay, trong thời kỳ chống Mỹ, cứu nước, nhiều tấm gương thanh niên đã anh dũng chiến đấu bảo vệ nòi giống. Chính vẻ đẹp của những chị em ấy đã tạc nên hình ảnh những anh hùng bất khuất, hào hoa trong lịch sử Việt Nam: võ thị sáu, trần văn bật, nguyễn văn đổi…

Vẻ đẹp ấy không thể tách rời khỏi hình ảnh cây tre Việt Nam. Làng nào cũng có lũy tre hiền hòa. Nó như sự cộng hưởng của những phẩm chất trong tính cách con người Việt Nam: thật thà, giản dị, nhân hậu, trung nghĩa, yêu chuộng hòa bình nhưng cũng kiên cường, bất khuất trong đấu tranh. Tre hiên ngang, bất khuất tiến lên, chung thuyền giúp nước “Một chiêng cũng đánh giặc Mỹ”, tác giả:

<3

Xuất phát từ truyền thống đánh giặc ngoại xâm, Nguyễn khoa Điểm tiếp tục đào sâu thêm những yếu tố phong tục thuần Việt:

<3

Đây là nét đẹp giản dị của người phụ nữ Việt Nam, không thua gì các bà các mẹ có tục “búi tóc ra sau đầu”. Vẻ đẹp ấy gợi nhớ ca dao:

<3

Nguyễn khoa Điểm tiếp tục nghĩ đến những con người đã sống, làm việc và chiến đấu hàng nghìn năm trên đất Việt để giữ gìn và làm đẹp cho mảnh đất thân yêu này. Ở đó, nguyên tắc ân nghĩa, thủy chung đã trở thành truyền thống ngàn đời ở đất nước này: “Cha mẹ thương nhau bằng muối bỏ gừng”. Chất thơ được thể hiện trong những câu ca dao rất hay:

“Một đĩa muối, một chén gừng mặn xin đừng quên nhau”

Cỏ khô:

“Ba năm muối muối còn mặn gừng chín tháng gừng còn cay Tình ta nhiều nghĩa dẫu ba vạn ngày không xa”

Thành ngữ “gừng muối” được vận dụng một cách đặc biệt trong câu thơ dịu dàng đầy duyên dáng. Nó gợi lên sự chung thủy trong cuộc sống. Quy luật tự nhiên là gừng càng già càng cay, gừng càng già càng mặn. Quy luật của mối quan hệ con người là con người sống càng lâu thì yêu thương càng đong đầy. Có lẽ vì thế mà đất nước còn để lại dấu ấn của cha, mẹ với trống mái, đồi vọng phu… theo năm tháng. Cha mẹ yêu nhau thì mang “cái tên trụ cột”.

Câu thơ này khiến người đọc liên tưởng đến phong tục dựng nhà của người Việt. Là tục dựng nhà bằng kèo, cột chống gió mưa, thú dữ. Đó còn là mái ấm, nơi hàng ngàn gia đình đoàn tụ, vất vả tích lũy trong cuộc sống. Từ đó, tục đặt tên giàn con, cột kèo cũng ra đời.

Bên cạnh những cảnh đẹp trên, người dân nước ta còn có truyền thống lao động cần cù chịu thương chịu khó “cơm một nắng hai sương chắt chiu dần”. Một dòng gợi nhớ ca dao:

Xem Thêm : Văn mẫu lớp 9: Phân tích Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật Dàn ý & 24 bài văn mẫu lớp 9 hay nhất

Cày ruộng buổi trưa, mồ hôi nhễ nhại, cày ruộng bưng bát cơm thơm, hạt cơm đắng.

“Một nắng hai sương” khiến người ta nhớ lại những tháng ngày ông cha vất vả một thời trong cuộc sống nông nghiệp lạc hậu. Đây là truyền thống lao động cần cù, chăm chỉ. Để làm ra gạo mà chúng ta ăn hàng ngày, người nông dân phải trải qua rất nhiều công việc nặng nhọc như gieo trồng, xay xát, sàng sảy. Hạt gạo bé nhỏ ấy thấm đẫm mồ hôi mặn chát của biết bao thế hệ nông dân.

Đoạn cuối tự hào kết thúc bằng lời khẳng định: Đất nước có từ ngày ấy. “Ngày đó” là ngày nào chúng ta không biết, nhưng chắc chắn ngày đó là ngày chúng ta có truyền thống, phong tục và văn hóa, mà có văn hóa tức là có đất nước. Như ông đã nói trước khi ra đi “Yêu nước thì phải yêu dân ca”. Dân ca, dân ca là nét văn hóa đặc trưng của Việt Nam, muốn yêu đất nước này thì trước hết phải yêu và tôn trọng văn hóa của đất nước này. Vì văn hóa là đất nước. Thật đáng yêu và đáng quý, thật hãnh diện với biết bao bài thơ giản dị mà ngọt ngào của Nguyễn khoa Điềm.

Thành công của bài thơ này là nhờ sử dụng tài tình các chất liệu văn học dân gian như tục ăn trầu, tục buộc tóc, truyền thống đánh giặc, truyền thống làm ruộng. Nhà thơ đã sáng tạo nên những thành ngữ, ca dao, tục ngữ, thành ngữ… tất cả tạo thành một bài thơ giàu không gian văn hóa Việt Nam. Ngôn ngữ mộc mạc chân phương, ca từ nhẹ nhàng, giọng điệu lay động lòng người nhưng không mất đi chất triết lý, thi vị.

Tóm lại, bằng cảm giác rất gần gũi. Nguyễn khoa Điểm mang đến cho chúng ta một hình ảnh quê hương đất nước bình dị nhưng không kém phần tươi đẹp. Đọc riêng và rộng bài thơ này ta như thấy mạch nguồn quê hương, mạch nguồn văn hiến thấm vào từng dòng máu tâm hồn ta. Điều này càng khiến chúng tôi thêm yêu quê hương đất nước.

Phân tích 9 câu đầu của Đất nước

“Đất nước gầy mẹ đau”

(Tổ quốc tôi – ta hữu yên)

Tổ quốc, mẹ là vật thiêng liêng của Bố Nguyên, từ lâu đã trở thành nguồn cảm hứng sáng tác của văn học yêu nước. Ở mỗi tác giả ta bắt gặp những cảm hứng khác nhau nên hình ảnh đất nước không bao giờ được soi lại qua lăng kính cá nhân của người nghệ sĩ. Hãy đến với nguyễn khoa điểm và cảm nhận hình ảnh đất nước một cách mới lạ, độc đáo qua một phong cách thơ giàu chất trữ tình, chất thơ suy tư và nhiều triết lí. Nhà thơ trí thức này đã dùng trọn chương 5 – bài thơ dài Đất Nước để giải thích sự ra đời của Đất Nước, đồng thời khẳng định Đất Nước là Đất Nước của nhân dân qua lịch sử, địa lý, văn hóa dân gian và nhiều khía cạnh khác. Theo dòng tư tưởng này, nguồn gốc của trạng thái xuất hiện trong chín câu thơ đầu tiên.

“Đất nước ở đó khi tôi lớn lên…đất nước ngày ấy bắt đầu…”

Đầu những năm 1970, khi đế quốc Mỹ đang đẩy mạnh cuộc chiến tranh ở miền Nam đến cao trào và dồn hết sức bắn phá miền Bắc, trong hoàn cảnh khó khăn đó, nó rất cần thiết. Những con người đầy nhiệt huyết, sẵn sàng xông vào tuyến lửa, sẵn sàng đi đầu, xuống đường đấu tranh cho hòa bình. Nguyễn Khoa Điềm say sưa sáng tác bài ca mở đường đầy cảm hứng này với mong muốn thức tỉnh và thúc giục thế hệ trẻ hãy tham gia cuộc đấu tranh quần chúng khốc liệt. Với trái tim yêu quê hương, với những cảm xúc dạt dào trong bài viết không ngại gian khổ, Nguyễn Khắc An không sợ tiếng bom rơi ngoài hầm, tiếng gầm rú của động cơ phản lực. mạch sống của một bài thơ.

Trong đoạn trích, nước được viết hoa, đây cũng là chủ đề xuyên suốt của chương. Đất nước, tiếng gọi thiêng liêng gợi cảm xúc sâu lắng. Đất nước này cũng nói về tình yêu của mọi người đối với những điều đơn giản và hàng ngày. Đất nước còn gợi một khoảng cách từ quá khứ đến hiện tại và tiếp diễn vào tương lai. Nguyễn Khoa Điềm đã khám phá ra vẻ đẹp mang tên “đất nước” qua cuộc đối thoại chân tình giữa hai nhân vật “anh” và “bọn họ”, bằng sự cảm nhận trí tuệ và sự cảm hóa trái tim. Đây là sự nhập thân của cảm xúc thơ và thiên nhiên của tác giả, làm cho đất nước hiện lên trong mọi mặt đời sống của con người từ tình cảm “anh”, “em”.

Xem Thêm: A. Nội dung tác phẩm Đấu tranh cho một thế giới hoà bình

Để minh họa cội nguồn của đất nước này, nhà thơ khôi phục lại hình ảnh đẹp đẽ của quá khứ trong tầm nhìn hiện tại.

“Ta lớn lên Tổ quốc đã có”

Cái hay của nhà thơ không chỉ ở chỗ nói những điều mới lạ, mà ở chỗ biến những điều quen thuộc thành những liên tưởng thú vị nhờ chất trí tuệ của một nhà thơ nhiều tư tưởng. Đất nước này đã có từ lâu đời, chúng ta không thể phủ nhận điều đó. Tuy nhiên, cảm nhận về đất nước không chỉ là mình, mà còn là “ta”, trong đó có tác giả và tất cả mọi người trên đất nước này. Thông thường, chúng ta sử dụng các cách diễn đạt quen thuộc để chỉ một khoảng thời gian dài, chẳng hạn như “khi tôi được sinh ra” hoặc “khi tôi lớn lên”. Về ý nghĩa, “khi tôi được sinh ra” sớm hơn “khi tôi lớn lên”. Tuy nhiên, nhà thơ dùng từ “lớn lên”. Điều nhà thơ muốn nói là chỉ khi chúng ta “lớn lên”, tức là khi chúng ta hình thành ý thức, hoàn thiện tâm hồn và trí tuệ, thì đất nước mới thực sự hiện ra toàn vẹn và trọn vẹn. Có như vậy chúng ta mới biết xúc động, biết yêu, biết tự hào về Tổ quốc.

Đất nước sinh ra từ những câu chuyện xưa, đặc trưng của văn hóa dân gian là ai cũng thấm thía câu “ngày xửa ngày xưa”

“Quê hương… mẹ tôi thường nói”

Như cánh cò trong lời ru đi vào tiềm thức mỗi đứa trẻ, câu chuyện xưa bắt đầu “ngày xửa ngày xưa”, và tuổi thơ hồn nhiên, mộng mơ cũng bắt đầu từ đó. Giọng hát trầm ấm của người mẹ khi biến thành tiên nữ làm say lòng người bởi hương trầu như hương thơm ngào ngạt. Mỗi câu chuyện là một hình ảnh của một dân tộc, một lời răn dạy, một lời cảnh báo, qua cái “đã từng”, để thế hệ mai sau không quên cội nguồn.

“Chỉ có truyện cổ tích mới khiến con nhận ra mặt bố”

(Truyện cổ nước ta – Lin’s Meida)

Đất nước hiện lên từ truyền thống văn hóa và trở thành nét đẹp trong phong tục qua cuộc sống đời thường.

“Đất Nước thuở ăn trầu, nay ăn trầu”

Miếng trầu cũng có trong truyện cổ tích, và từ xa xưa nó luôn trông giống mẹ. Mối liên hệ giữa văn hóa và thói quen cũng được hình thành từ đó. Lâu dần, những thói quen như ăn trầu dần trở thành thói quen. Nét đẹp của phong tục, thành tựu của văn hóa. Văn hóa trở thành máu thịt của chúng ta. Sự tích trầu cau trở nên sống động, bắt đầu từ câu chuyện kết nghĩa anh em, kết nghĩa của các cặp trai gái đã trở thành lễ vật không thể thiếu trong đám cưới của người Việt. Miếng trầu còn nhắc nhở con cháu về tính chân thật, thật thà, hiếu khách, lễ phép của người dân xứ mình. “Miếng trầu là đầu câu chuyện”. Nguyễn khoa Điểm mượn chất liệu dân gian, vẫn tinh tế đan xen cách nói ẩn ý. “Miếng trầu bà ăn bây giờ” không phải là “miếng trầu bà ăn ngày xưa”. Đó là ý định tái tạo hoàn toàn quá khứ trong hiện tại. Miếng trầu không chỉ tồn tại trong quá khứ, trong tâm thức, mà còn hiện hữu trong khoảnh khắc “bây giờ”. Miếng trầu là biểu tượng của văn hóa, có lịch sử bốn nghìn năm, cũng như nét đẹp văn hóa dân gian. Đó là vẻ đẹp có linh hồn và sự sống vĩnh cửu. Bài thơ này như muốn khẳng định một cách chắc nịch rằng trong hiện tại còn có quá khứ, trong cuộc sống hôm nay có bóng dáng của ngày hôm qua.

Ở câu tiếp theo, nhà thơ tóm tắt quá trình phát triển của đất nước qua hình ảnh hàng cây quen thuộc.

“Dân ta biết tre trồng tre, nước biết giặc”

Không cần mượn chuyện xa xôi, không cần tìm kiếm những bức tranh hoành tráng, Nguyễn Khắc An sử dụng những chất liệu giản dị và giàu ý tứ dưới hình thức thơ cổ. Cây tre đã gắn bó mật thiết với cuộc sống của biết bao thế hệ người nông dân Việt Nam. “Làng Chu Lưu, nước Lưu, tranh gai, ruộng chín” (Xingang). Cây tre lao động, cây tre anh hùng, cây tre trong ký ức tuổi thơ, không gì thay thế được. Anh và Zhuzi xuất hiện trong câu chuyện về chiến binh thánh chiến chống lại kẻ thù trong truyền thuyết về Tứ đại bất tử. Về vấn đề này, nhà thơ khẳng định, quá trình đi lên của đất nước là quá trình nhân dân ta đấu tranh bảo vệ từng tấc đất, vũ khí bắt đầu từ cây tre.

Những câu chuyện về quê hương không chỉ giới hạn trong văn học dân gian, truyền thống yêu nước chống giặc ngoại xâm mà quê hương còn được viết nên trong cuộc sống hàng ngày, một thói quen hình thành trong lao động. di chuyển.

“Tóc mẹ vấn vương trên mái đầu cha mẹ yêu gừng cay muối mặn, những bó đòng làm nên tên tuổi của hạt gạo phải được xay, giã, ép, sàng”

Cắt tóc là một hình thức làm đẹp trong các nền văn hóa cổ đại. Ngoài việc phụ nữ nhổ tóc là biểu hiện của người đã có gia đình, thì việc búi tóc sau đầu còn xuất phát từ đặc điểm công việc đồng áng và khí hậu nóng bức của nước ta. Người phụ nữ với mái tóc dài buộc sau gáy đã trở thành một kiểu đẹp giản dị và tự nhiên, không cầu kỳ nhưng lại toát lên vẻ thanh tao bẩm sinh. Xanadu không tên là nhịp cầu nối đôi bờ yêu thương, để tình nghĩa vợ chồng ăn sâu vào lòng người qua hình ảnh “gừng muối tiêu mặn”. Cái tài tình của Nguyễn khoa Điểm là rút ra được từ câu thành ngữ dân gian rằng bản chất của quan hệ hôn nhân là lòng trung thành.

“Một chén muối, một đĩa gừng muối, xin đừng quên nhau”

(tiếng lóng)

Tâm như sắt, thủy chung như vợ chồng trong tình yêu, trải qua bao năm tháng gian khổ, họ càng yêu nhau say đắm, lâu bền. Cũng chính thái độ biết ơn ấy đã trở thành động lực để ông bà, cha con vượt khó, vượt khó, xây dựng gia đình hạnh phúc. Từ đó, thế hệ sau ra đời trong niềm vui giản dị. “Kèo, Cột tên”. Bài thơ này gợi nhớ đến tục đặt tên con cháu ngày xưa. Đừng cầu kỳ đánh bóng, đừng vay mượn đâu xa, hãy lấy những thứ xung quanh mình, những thứ đơn giản như “kèo, cọc” trong cuộc sống. Kể từ đó, sự nổi tiếng đã gắn liền với cuộc sống của mọi người. Nghe cái tên này, tôi thấy tiếc vì những thiếu thốn vật chất của cuộc sống đời thường không thể khỏa lấp được tình cảm gắn bó trong từng lao động, từng hình ảnh mà cuộc sống bày ra.

Nói đến lao động, nói đến cuộc sống vất vả của người nông dân là phải nói đến công việc vớt vát ruộng lúa và công đoạn chế biến lúa gạo. Đối với người nông dân Việt Nam, trồng lúa là đặc ân của đất mẹ, là thành quả lao động cần cù của biết bao thế hệ. Ngày lúa trổ bông là ngày ước mơ về một cuộc sống hạnh phúc ngày càng gần với chúng ta. Ở góc độ văn hóa, cây lúa là biểu tượng của người nông dân Việt Nam. Nhà thơ gợi nhắc đến cây lúa và tái hiện phong tục trồng lúa nước của nhân dân ta từ bao đời nay.

“Gạo phải xay, giã, sàng, sàng”

Không gian làm việc xuất hiện trong danh sách Xay, Nghiền, Xay, Rây. Mọi công đoạn làm cơm từ hạt thô đều không hề đơn giản. Chưa kể những ngày cày, cuốc, cào, cắm dưới ruộng sâu để “bán mặt cho trời”. Không kể những giọt mồ hôi từ mạ xanh đến lúa vàng. Sau khi những hạt lúa sau khi thu hoạch được phơi khô trước sân nhà, để biến chúng thành gạo trắng là cả một câu chuyện dài. “Này, bát cơm đầy đây

Cơm dẻo là hạt mướp đắng”

(tiếng lóng)

Vì vậy, khi liệt kê quá trình, nhà thơ dường như cố gắng tạo khoảng trống và sức nặng trên từng câu chữ để gửi gắm sức nặng của cả một quá trình gian khổ mà người nông dân phải trải qua. Có chiếc cối xay trong tay, đêm nào tôi cũng dùng chày giã gạo, Khi hạt gạo hôm nay là giấc mơ ngày mai, tôi vẫn thấy nặng trĩu. “Nhất dương hai sương” chỉ thời tiết xấu được đặt trước quá trình làm ra gạo, nhấn mạnh thành quả nào cũng có giá của nó. Bao nhiêu vất vả nhọc nhằn đổi lấy niềm vui lúa thơm. Khi nhắc đến lao động, nhà thơ gợi lên một cách tinh tế tình cảm của con người được hình thành trong gian khổ. Nhờ sự gắn kết, chia sẻ và yêu thương mà công việc dù khó khăn đến đâu chúng tôi cũng có thể cùng nhau hoàn thành.

Cuối cùng, để khẳng định sự ra đời của dân tộc, Nguyễn khoa Điểm dùng dòng thời gian vô hình để nói lên điều hữu hình trong mỗi chúng ta.

“Đất nước từ ngày ấy”. “Ngày ấy” thay mốc thời gian đã nói ở phần trước. Ngày câu chuyện cũ bắt đầu, tồn tại trong miếng trầu, ngày mẹ vén tóc con, ngày cha mẹ thương nhau ngọt bùi đắng cay, ngày con cháu chào đời. “Ngày ấy” không định nghĩa rõ ràng, nhưng trong tâm thức của mọi người Việt Nam, ngày ấy là ngày chúng ta biết thương nhau, biết trân trọng cuộc sống, biết sống vì nhau.

Câu chuyện lịch sử của một dân tộc và sự hình thành của một dân tộc có cơ sở khoa học riêng của nó, nhưng câu chuyện cội nguồn của quê hương cần phải vang vọng trong lòng mọi người qua những vần thơ, bài hát. Dưới góc độ này, chín câu thơ đầu của đoạn trích Đất nước mang đến một cái nhìn thú vị về những yếu tố tạo nên đất nước. Với số dòng bằng nhau, Nguyễn khoa Điểm vẽ nên hình ảnh đất nước có chiều sâu tư tưởng với sự kết hợp độc đáo giữa chất trữ tình và chất chính luận. Đồng thời, sự tồn tại của chất liệu văn học dân gian khiến cho khái niệm trở nên thơ mộng, thân thiện và giản dị, giống như cuộc sống hàng ngày của người dân lao động.

Bài viết này cho chúng ta một cái nhìn khái quát về cội nguồn hình thành dân tộc dựa trên những suy ngẫm về lòng dân của nhà thơ Nguyễn khoa Điểm. Để thế hệ trẻ chúng ta nhận thức được rằng đất nước tồn tại trong tâm hồn mỗi người, trong đời sống văn hóa, phong tục tập quán của mỗi người. Đất nước cũng là hiện thân của đấu tranh và cuộc sống lao động. Không những thế, Tổ quốc sẽ là bài ca đầu tiên ca ngợi lối sống yêu thương, đoàn kết của dân tộc Việt Nam.

………………………………………….. .

Mời các bạn tải file để xem thêm các bài văn mẫu phân tích 9 câu đầu của Đất Nước

Nguồn: https://anhvufood.vn
Danh mục: Giáo Dục

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *