Phân tích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ – Đoàn Thị Điểm

Phân tích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ – Đoàn Thị Điểm

Phân tích tình cảnh lẻ loi của người

Video Phân tích tình cảnh lẻ loi của người

“Khi người lên ngựa chia vào rừng phong thu nhuộm đỏ quyền lực.”

Bạn Đang Xem: Phân tích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ – Đoàn Thị Điểm

Văn học Việt Nam đã chứng kiến ​​quá nhiều cuộc chia ly đầy lưu luyến. Và ở thế kỷ 18, dang trần côn vẽ về chủ đề chia ly thời chiến, Ngâm kẻ chinh phục, cho chúng ta thấy một cuộc chia tay xúc động với nỗi đau đằng sau nó. Phụ nữ đã kết hôn ra trận. Đoạn trích “Nỗi cô đơn của người chinh phụ” đã làm nổi bật nỗi cô đơn và khao khát của kẻ chinh phụ, thậm chí là khao khát hạnh phúc.

Nhà văn Đỗ Hoài từng khẳng định: “Mỗi trang văn phản ánh thời đại mà nó ra đời”. Thời đại Đặng Chuẩn Khôn là thời kỳ các xí nghiệp phong kiến ​​chìm trong khói lửa chiến tranh, khởi nghĩa nông dân nổ ra khắp nơi, nhà nhà loạn lạc, pháo hoa khắp nơi, tiếng than, tang tóc. Khi thời cuộc trao cho ông đề tài quen thuộc “thực trạng chiến tranh”, Đặng Trần Côn đã dùng cảm hứng nhân văn của mình để viết về nỗi đau của người phụ nữ trong chiến tranh và lên tiếng. Tiếng nói của con người thời đại, tiếng nói căm thù chiến tranh phi nghĩa, tiếng đòi quyền sống, quyền hạnh phúc qua bản tình ca thiên nhiên dài “Kẻ chinh phụ”. Xuyên suốt tác phẩm, tác giả khiến người đọc cảm nhận được nỗi đau chiến tranh của cả hai bên chiến trường và những người sống sót qua cảm xúc của người chinh phụ có chồng tham gia chiến tranh. Nếu nói trên chiến trường, kẻ chinh phạt đang từng ngày đối mặt với cái chết, thì kẻ chinh phạt ở quê nhà cũng đang chờ đợi trong vô vọng, đắm chìm trong đau thương. Đoạn trích từ ba đến sáu câu thơ trong “Cảnh độc của người chinh phụ” là sự tích tụ những nỗi đau, nỗi nhớ nhung và khao khát hạnh phúc sâu sắc nhất trong tác phẩm.

Mở đầu đoạn trích, tác giả miêu tả tâm trạng của người chinh phụ ngày qua ngày chờ đợi tin chồng trong hoàn cảnh hiu quạnh:

“Đứng trong gian vắng vẻ, từng bước ngồi trên bức màn, cầu ánh sáng ngoài màn, không phải trong màn?”

Trong không gian im lìm của “trống vắng” và “trống vắng”, kẻ chinh phụ hiện ra như hiện thân của sự cô đơn. Bước đi ngược xuôi, bước chân cô không phải là bước chân “xăm xăm” khi nghe tiếng gọi của tình yêu và hạnh phúc từ kiều nữ, mà là bước chân gieo từng bước, như gieo tiếng cô đơn vào lòng người đọc. Nàng khép rèm lại, lại mở ra, hướng bên ngoài nhìn về phía biên cảnh xa xa, chờ đợi tin tức của thị thiếp, nhưng không có tín hiệu trả lời. Nhịp thơ chậm rãi, dài như cô đọng thời gian và không gian. Dường như bà đang lặp đi lặp lại hành động này trong vô thức, bởi tâm trí bà lúc này đang hướng về người chồng nơi chiến trường nguy hiểm. Những thủ pháp trữ tình đó đã lột tả được tâm trạng trĩu nặng, khắc khoải của kẻ chinh phục. Trong nỗi bất an ấy, cô mong mỏi một người để trút bầu tâm sự, nhưng chỉ có một ngọn đèn mờ:

<3

Ngọn đèn này vừa chứng kiến ​​vừa soi sáng nỗi cô đơn của người phụ nữ xa chồng. Khi đối diện với ngọn đèn, người phụ nữ đáng thương đang đối diện với chính mình, và dưới ánh sáng của ngọn đèn, cô ấy phơi bày nỗi đau của mình. Rồi những suy nghĩ ấy lại biến thành lời than thân trách phận “Chiếc đèn lồng ấy có bóng người thương”. Cô cảm thấy mình giống như một bông hoa và một ngọn đèn, một cuộc đời mong manh và dang dở mà cái kết đang ở trước mắt. Ngọn đèn không bao giờ tắt Thắp lên nỗi nhớ với người phụ nữ trong ca dao:

“Đèn nghĩ đến người, đèn không bao giờ tắt” và chiếc đèn ngủ của Thúy Kiều, đã trở thành chứng nhân cho nỗi đau của người phụ nữ tài sắc: “Nửa đêm thắp một mình.”

Vậy thì hình ảnh ẩn dụ ngọn đèn của người chiến thắng sáng trong đêm là sự hiện hữu của sự lẻ loi, lẻ loi và trống vắng. Hình ảnh hoa và bóng người như phản chiếu lẫn nhau, diễn tả nỗi cô đơn từ héo mòn thân xác. Dường như nỗi niềm trong lòng kẻ chinh phụ đã trở nên êm dịu, ngột ngạt, nặng trĩu và trở thành một nỗi “nỗi buồn” khôn tả thành nỗi sầu, thành “bi kịch” ngậm ngùi. Chân dung người phụ nữ ấy nổi bật không chỉ qua bước đi, động tác, cử chỉ, nét mặt buồn bã, dáng ngồi bất động trước ngọn đèn khuya mà trong bối cảnh thời gian và không gian. :

Xem Thêm: Sinh 10 Kết nối tri thức Bài 5: Các phân tử sinh học

“Năm dậu sương gà gáy bóng chiều bồng bềnh”

Hình ảnh “bóng chiều chập chờn” suốt ngày và sự chuyển động, tĩnh lặng của tiếng “eo gà” suốt đêm dường như càng làm nổi bật nỗi cô đơn, vĩnh hằng của nhân vật trữ tình. “óc óc” là tiếng thưa thớt trong không gian rộng lớn hiu quạnh, mang cảm giác tang tóc, bộc lộ sâu sắc nỗi buồn chán của chủ thể trong đêm tối. Suốt năm tiếng đồng hồ, cô không chợp mắt, nghe thấy nỗi buồn đó, nỗi đau vô hình từ tận đáy lòng. Từ “câu” diễn tả một cách tinh tế tư thế hiên ngang của người đi chinh phạt và tâm trạng qua từng hình ảnh nhỏ bé của người vợ chờ chồng. Cảm xúc của nhân vật trữ tình dường như lan tỏa, thấm đượm theo thời gian. Trong hai bài thơ, tác giả sử dụng bút pháp ước lệ và nghệ thuật so sánh để biến thời gian thành thời gian tâm lý, không gian thành không gian tình cảm:

Xem Thêm : Các phương thức biểu đạt và Dấu hiệu nhận biết Chuẩn Xác

Bài thơ “Năm tháng như biển, năm tháng sầu thảm” phỏng theo nguyên tác của Đặng Trần Côn: “Nỗi buồn như biển cả, năm tháng khắc ghi”

Chỉ thêm hai từ “kéo dài”, “lâu dài” thôi cũng khiến cho nỗi thất vọng, mệt mỏi vô vọng kéo dài của kẻ chinh phục trở nên thật cụ thể, hữu hình và sâu sắc. Từ khi người thiếp ra đi, ngày qua ngày như năm tháng, nỗi buồn đau dường như đã đặc quánh, chất chồng, đè nặng lên lòng người đàn bà tội nghiệp. Hàng ngày, hàng giờ, hàng phút, Kẻ Chinh Phục vẫn đang vật lộn với nỗi cô đơn, đấu tranh để thoát khỏi cuộc sống tẻ nhạt của chính mình:

“Hương đốt hồn, nhập hồn vào gương, muốn thấy lại nước mắt, cầm dây sắt, muốn gảy ngón tay đàn tỳ bà, bẻ dây, vặn phím”

Từ “sức mạnh” được lặp lại ba lần trong bốn câu thơ tiếp theo thể hiện nỗ lực vượt thoát của kẻ chinh phục. Cô cố gắng thắp hương cầu bình an nhưng lại rơi vào trạng thái xuất thần sâu hơn. Cô gượng soi gương để cải thiện nhan sắc nhưng chỉ thấy những giọt nước mắt buồn. Cô cố gắng tìm âm nhạc để giải tỏa nỗi lo lắng về sắt, và Feng Ai lại xuất hiện. Dường như cô đang mang trong mình quá nhiều sợ hãi và lo lắng nên Chinh Phục không những không thể giải tỏa được cảm xúc mà còn rơi vào tình trạng đau buồn sâu sắc hơn. Nỗi cô đơn, lẻ loi của kẻ chinh phụ được miêu tả bằng nhiều bút pháp trữ tình khiến người đọc có thể cảm nhận được tâm trạng của nhân vật trữ tình dù là bình minh hay đêm xuống. , trong và ngoài phòng, và xung quanh không gian xung quanh. Thứ cô đơn ấy làm gầy xác, khô héo con tim và kẻ chinh phục, như chết trong vỏ bọc cô độc ấy.

Sống giữa không gian hiu quạnh ấy, nàng chỉ biết nhớ về người chồng nơi biên cương xa xôi với tấm lòng thủy chung:

“Tấm lòng này gửi gió đông ngàn vàng Xin gửi về Youshan, dù chưa tới quê hương nghĩ về bạn, con đường thiên lý”

Người chinh phạt dồn hết tình yêu, sự đồng cảm và lòng trung thành vào ngọn gió đông, cảm ơn ngọn gió xuân ấm áp đã gửi vào núi thẳm những tâm tư thầm kín. Những hình ảnh tượng trưng truyền thống như “đông phong”, “yên bình”, “không gian sâu thẳm” không chỉ gợi không gian bao la, vô biên, nói lên khoảng cách xa vời vợi giữa người chinh phục và người bị chinh phục, mà còn thể hiện tấm lòng chân thành với người vợ quê hương, vô cùng. Hoài cổ. Phải chăng ngọn gió đông đánh thức tâm hồn kẻ chinh phục, và cũng chính ngọn gió xuân đánh thức giấc mộng ái ân trong tác phẩm “Bốn mùa xuân” của nhà thơ Liebach:

“Cỏ xanh nơi vắng vẻ, cành dâu ngà một bên đất, lòng ta đau lắm, gió xuân nhớ nhà, ai biết vì sao màn rơi”

Xem Thêm: Vẽ hoa phượng rơi đơn giản và đẹp nhất năm 2022

Chỉ là hoài niệm của kẻ chinh phục, và cũng thấy được dư vị đau thương, tủi hờn:

“Trời thăm thẳm, xa vời vợi, anh nhớ em da diết”

Các từ “sâu”, “đau” trực tiếp bộc lộ sắc thái mà người chinh phụ mong muốn. Nếu từ “thắm” gợi nỗi nhớ da diết kéo dài trong không gian thì chiều sâu của nỗi nhớ được thể hiện qua từ “đau”. Hình ảnh con đường dẫn về phía trời tối mịt cũng giống như bi kịch nhớ nhung, không biết bờ bên kia, không biết bao giờ chồng trở về để chấm dứt bi kịch này.

“Tiếng cành sương rơi, cảnh bi thương động lòng người”

Cảnh vật xung quanh chính là tâm trạng bởi nó đẫm nước mắt và nhuốm màu tâm trạng của chủ thể trữ tình. Thơ đúc kết quy luật của cảm xúc, gặp thơ Nguyễn Du trong “Hải ngoại truyện” nổi tiếng:

“Cảnh không buồn, người buồn không vui”

Xem Thêm : Ảnh buồn – Tổng hợp 100 hình ảnh buồn, cô đơn cực đẹp

Câu thơ này như một bản lề, khép lại nỗi nhớ da diết và dẫn người đọc đến với nỗi sầu của kẻ chinh phụ ở câu thơ tiếp theo. Trong bức tranh mùa đông được đề xuất, tác giả đã sử dụng những hình ảnh ẩn dụ bất ngờ để miêu tả sự u uất, lạnh lẽo trong lòng người phụ nữ:

Sương như búa bổ, chặt rễ tuyết liễu, chặt cành ngô héo”

Nỗi đau u uất ấy, nay nặng như búa, nay nặng như cưa, “cây liễu” là hình ảnh của cây ngô đồng, là hiện thân của người phụ nữ đợi chồng. Khuôn mặt và tâm hồn cô ấy dường như bị vùi dập không chỉ bởi sương giá mà còn bởi khung cảnh lạnh lẽo, cô đơn xung quanh. Mùa đông của thiên nhiên giờ đã trở thành mùa đông của cuộc đời kẻ chinh phục.

“Giọt sương che bụi trần, chim Trâu hót tiếng chuông chùa sâu trong vách”

Xem Thêm: Kể chuyện: Ông Nguyễn Khoa Đăng trang 40 SGK Tiếng Việt 5 tập 2

Tiếng chim ngân trong sương, tiếng côn trùng gặm nhấm trong sương đêm, phải chăng nhà thơ muốn nói lên nỗi lòng lạnh tê của kẻ chinh phụ? Phải chăng đó là tiếng “đập chuông” của bức tường bên cạnh, tiếng “đập” từ xa của tiếng chuông tu viện, những đợt sóng mạnh mẽ, háo hức, nhức nhối đang khuấy động trái tim người phụ nữ? Tất cả những tiếng nói ấy như đi sâu vào tâm hồn, ăn mòn tâm trí người phụ nữ. Với thành công của bút pháp miêu tả ngụ ngôn quen thuộc trong thơ cổ điển, nhà thơ không chỉ làm nổi bật ấn tượng lạnh lẽo của cảnh mùa đông mà còn phơi bày thế giới nội tâm băng giá của kẻ chinh phục. Nếu không nhờ ngòi bút miêu tả tâm lý sắc sảo thì chắc chắn không thể nào diễn tả tâm trạng của người chinh phụ một cách sâu sắc và tinh tế đến thế.

Người chinh phụ tưởng như đắm chìm mãi trong nỗi u sầu ấy, nhưng chỉ trong chớp mắt trong bức tranh trăng sáng, chàng đã đến với niềm khao khát hạnh phúc lứa đôi:

“Còn mấy tiếng nữa trăng dế soi ốc, ngoài hành lang có hàng tiêu, rèm lay động, gió thoảng qua, bóng hoa trước rèm theo bóng người. trăng. Trước hoa, hoa rơi.” Trăng ở đâu trong tim”

Bức tranh trăng hoa lộng lẫy được nhà thơ miêu tả theo lối trùng điệp, mạch lạc, các hình ảnh đan cài, hài hòa. Hoa đẹp dưới ánh trăng vàng, trăng sáng phản chiếu bóng hoa trên mặt đất. Hoa và sắc tỏa sáng dưới ánh trăng, cuối cùng cô đọng lại thành một hình ảnh đẹp nhất, một biểu tượng ý nghĩa nhất: trăng và hoa bổ sung cho nhau. Phải chăng sự hài hòa của thiên nhiên và vận may đã đánh thức niềm khao khát hạnh phúc lứa đôi của kẻ chinh phục? Nhưng phải chăng cũng vì thế mà nỗi đau cô đơn lại trở về trong cô, ngày càng sâu đậm? Ngay cả bản chất vô tri vô giác cũng có cảm giác hạnh phúc giữa vợ và chồng, và cô ấy, một mình, với trái tim chung thủy, đang đợi chồng mình trong căn phòng này, chờ đợi sự trở lại hạnh phúc của tình yêu. Cùng với hình ảnh, nhạc điệu tha thiết như ngọn thủy triều khát khao trào dâng trong lòng người chinh phụ. Cho đến nay, nghệ thuật miêu tả cảnh ngụ ngôn đã đạt đến trình độ điêu luyện. Nếu như đoạn trước tác giả gửi gắm tình cảm vào cảnh vật thì ở đoạn sau, tác giả đã biến cảnh tượng trở nên khiêu dâm. Hoa trăng đẹp và hình ảnh đẹp của hoa trăng thể hiện rất tinh tế khát khao thầm kín và mạnh mẽ của kẻ chinh phục – đó cũng chính là khát khao của trẻ em trên thế giới và trong thế giới.

Nữ dịch giả Hồng Ngài không chỉ vận dụng lối thơ mềm mại, thoát tục của tác giả mà còn có khả năng diễn tả tâm lý trôi chảy nhiều nét, đồng thời vận dụng thành công từng tiếng Việt một, tinh tế và tao nhã. Chính sự kết hợp giữa ngôn ngữ giàu chất “xác thịt” của Nguyễn Gia Thiều và tâm hồn ngôn ngữ của Đoàn Thiến đã làm cho ngôn ngữ của bài thơ này chuyển tải được tất cả những xúc cảm tinh tế nhất trong những biến động cảm xúc của kẻ chinh phụ. Tác phẩm cất lên tiếng nói đấu tranh, tố cáo chiến tranh phong kiến, chia rẽ hạnh phúc vợ chồng, đồng thời khẳng định quyền sống, quyền hạnh phúc cao cả nhất của con người. Đây cũng chính là giá trị nhân văn, nhân đạo sâu sắc nhất của tác phẩm này.

Bài thơ kết thúc nhưng nỗi đau của kẻ chiến thắng vẫn còn đó. Khát vọng hạnh phúc từ đó trở thành khát vọng của cả thời đại, thôi thúc con người phải hành động để có được hạnh phúc mà mình đáng được hưởng.

_bài viết của le duc_

Xem thêm:

Các bài ví dụ cơ bản trong chuyên mục tham khảo: https://thichvanhoc.com.vn/van-mau/co-ban/

Xem bài viết mới nhất trên fanpage fb: thích văn

Nguồn: https://anhvufood.vn
Danh mục: Giáo Dục