Phân tích đoạn thơ: &quotTa về, mình có nhớ ta. Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung&quot trong bài Việt Bắc

Phân tích ta về mình có nhớ ta

Phân tích ta về mình có nhớ ta

Video Phân tích ta về mình có nhớ ta

Văn mẫu: Phân tích thơ: “Em Về Em Có Nhớ Anh Không…Em Nhớ Anh Một Bài Ca Nghĩa Tình Trung Thành” Trong Ca dao Việt BắcTuyển Tập Toàn Tập Tác Giả vndoc. com Đây là Tuyển tập những bài văn mẫu hay lớp 12 dành cho các em học sinh tham khảo và củng cố các kỹ năng cần thiết cho bài thi viết Tiếng Anh lớp 12 sắp tới đây của mình. Mời các em tham khảo.

Bạn Đang Xem: Phân tích đoạn thơ: &quotTa về, mình có nhớ ta. Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung&quot trong bài Việt Bắc

Phân tích dàn ý bài thơ “Em về có nhớ anh không… Nhớ câu ca dao một người”

1. Lễ khai trương

Giới thiệu thơ lục bát Việt Nam về tác giả và giới thiệu bài thơ.

2. Nội dung bài đăng

“Anh về em có nhớ anh/ Anh nhớ hoa em không”: Người ra đi hỏi người ở lại có nhớ không và khẳng định sẽ nhớ mãi thiên nhiên, con người Việt Nam.

>

“Rừng xanh hoa chuối đỏ/Rừng xanh hoa chuối đỏ/Dao thắt lưng nắng Gaotong”: Vào mùa đông, những bông hoa chuối đỏ rực điểm xuyết giữa rừng xanh, xen lẫn với nắng vàng, tạo thành một bức tranh cuộn mùa đông của miền Bắc Việt Nam và thêm sự hài hòa về màu sắc. Hình ảnh xuống núi với con dao bên hông đi làm thật bình dị, đơn sơ nhưng cao đẹp vô cùng.

“Mộng rừng trắng mùa xuân/Hồi tưởng người đan nón dệt từng sợi chỉ”: Mùa xuân “Mộng rừng trắng” Mùa xuân nước Việt, trăng trắng tinh khôi rừng mai. Trong một vần thơ và đẹp như tranh vẽ, ước mơ đó là một sự chăm chỉ Hình ảnh một con người thật thà, tỉ mỉ và tài tình.

“Tiếng ve hót trong rừng đổ vàng/Nhớ em tôi hái măng một mình”: Mùa hè tiếng ve hót trong rừng đổ vàng” Giọng ca quen thuộc mùa hè trong rừng hổ phách vàng gợi tiếng ve như một bát sơn, sóng vàng đổ xuống Trên rừng cây xanh tươi, vạn vật hóa một màu vàng ấm áp.

“Rừng thu và trăng thu ở Thái Bình / Nhớ lại bài tình ca trung thành của ai đó”: Cảnh Qiulin và Qiuyue ở Taiping là tiếng hát của tình yêu và lòng trung thành của mọi người.

→ Sự chung sống hài hòa của thiên nhiên và con người tạo nên một bức tranh Việt Nam tươi đẹp khó quên.

3. Kết thúc

Tóm tắt nội dung, ý nghĩa của bài thơ và tóm tắt bài thơ một cách cụ thể.

Phân tích bài văn mẫu Tứ thơ Việt Nam

Văn học Việt Nam có nhiều tác giả có đóng góp quan trọng. Mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau đều có những mốc son văn học khác nhau. Trong số đó phải kể đến tác giả Đỗ Bạn, một nhà thơ xuất sắc của văn học Việt Nam, với hình ảnh người lính anh hùng và tình cảm sâu nặng với đồng bào Việt Bắc, ông mang đến cho bạn đọc một góc nhìn quân sự rất trữ tình khác. Qua bài thơ “Việt Bắc” trong thời chiến. Nổi bật trong bài thơ này là nỗi nhớ của người đã khuất về những thắng cảnh của miền Bắc Việt Nam:

Anh về rồi, em có nhớ anh không? Tôi nhớ hoa và người, rừng xanh, chuối đỏ tươi, đèo cao, nắng, con dao trên thắt lưng. Mùa xuân, hoa mơ nở trắng khắp rừng, nhớ ai đan nón, chuốt sợi. Cô gái hái măng một mình trong rừng thu, trăng soi bình yên, nhớ ai da diết khúc tình ca. “

Mười câu thơ là hình ảnh thiên nhiên hòa quyện với con người Việt Nam trong tâm thức người đã khuất. Thuở ban đầu, người ra đi khẳng định tình cảm với người ở lại:

Em về, nhớ anh về em, nhớ hoa cùng em

Phần đầu là câu hỏi tu từ “anh có nhớ em không”, và phần thứ hai là câu hỏi và câu trả lời. Cùng với Du You, những người cán bộ ra đi không chỉ nhớ những năm tháng khó khăn “bát cơm nửa chăn” mà còn nhớ vẻ đẹp yêu kiều của hoa và người. Ở đây, hoa đại diện cho vẻ đẹp thiên nhiên của miền Bắc. Người dân Việt Nam, mặc áo chàm nghèo nhưng giàu. Hoa và người bổ sung cho nhau, yêu thương nhau một cách hài hòa tạo nên nét đặc sắc riêng của vùng đất này. Chính điều này đã tạo nên cấu tứ độc đáo cho bài thơ này.

Sau khi khẳng định nỗi nhớ thiên nhiên và con người Việt Nam, người quá cố đã nhân cách hóa nỗi nhớ này theo từng mùa trong năm, bắt đầu từ mùa đông:

Rừng xanh, hoa chuối đỏ tươi, Qualcomm trong nắng, thắt lưng

Điểm tô trên nền xanh rộng lớn của khu rừng là những bông hoa chuối đỏ tươi nở rộ dưới nắng. Nhìn từ xa, loài hoa này như một ngọn đuốc sáng rực, đường nét và màu sắc bổ sung cho nhau, tạo thành một bức tranh vừa đối lập vừa hài hòa, cổ điển và hiện đại. Màu “đỏ tươi” – màu rực lửa của hoa chuối nở giữa núi rừng bạt ngàn, làm cho thiên nhiên Việt Nam bừng sáng và ấm áp, như ẩn chứa một sức sống xua tan vẻ hoang vu. Núi và rừng. Cùng với những chiều tàn của hoa chuối, đồng bào chiến khu xuống rẫy. Trước sự bao la của thiên nhiên, con người dường như càng trở nên hùng vĩ và tráng lệ hơn. Giữa núi và nắng, giữa trời rộng và rừng xanh bạt ngàn. Người đó đã trở thành linh hồn của Bắc Kinh Đông Hoa.

Đông sang xuân, xuân tràn đầy:

Mùa xuân hoa trắng rừng nhớ người đan nón chuốt sợi

Trong khung cảnh mùa xuân, hoa mai nở rộ dịu dàng, trong veo và trắng muốt: “Mộng mơ hoa nở trắng rừng”. “forest white” được viết ngược, và “white” được dùng như một động từ để nhấn mạnh màu sắc, màu trắng dường như làm lu mờ tất cả màu xanh của lá, làm bừng sáng cả khu rừng. Màu trắng mơ màng, ủ rũ, dịu mát của hoa ngân hạnh. Hình ảnh con người hiện ra, cùng với hoạt động “vớt từng sợi sông” khiến mùa xuân càng thêm tươi tắn. Vẻ đẹp tự nhiên trong công việc hàng ngày. Từ “sáng” và hình ảnh thơ chỉ bàn tay của người dân lao động: cần cù, tỉ mỉ, thông minh, tài hoa, nhanh nhẹn, cẩn thận, đó cũng là đức tính cần cù của người Việt Nam. ..

Mùa hè đang đến gần với tiếng ve kêu, bức tranh Việt Nam sống động hơn bao giờ hết:

Gọi Lâm Đạo Tiến, nhớ em hái măng một mình

Khi tiếng ve hót cũng là lúc rừng hổ phách vàng rực. Động từ mạnh “đổ” mô tả màu vàng đồng thời của những bông hoa màu hổ phách vào đầu mùa hè. Màu hổ phách dát vàng xuống dòng suối, như biến nắng hè và tiếng ve kêu thành vàng. Chỉ trong một câu thơ trên, ta có thể thấy cả thời gian đang luân chuyển sống động: tiếng ve kêu báo hiệu mùa hè đến, cây hổ phách chuyển sang màu vàng rực rỡ. Trong mảnh thiên nhiên trù phú vàng son ấy, có hình ảnh một cô gái áo chàm cần mẫn hái măng để cung cấp cho các chiến sĩ chống Nhật: “Anh nhớ em gái hái măng một mình”. Hái măng một mình không giống hình bóng cô gái miền sơn cước trong thơ cổ, cô đơn lẻ loi mà ngược lại rất trữ tình, thơ mộng, nhân hậu, thân ái. Hình ảnh thơ còn gợi vẻ đẹp trong nỗi khổ đau của cô gái. Đằng sau điều này là rất nhiều sự cảm thông và kính trọng của tác giả.

Bức tranh cắm bốn chiếc lọ là một mùa thu yên ả và thanh bình:

Ánh trăng trong rừng thu lặng lẽ, ai trung thành khúc tình ca.

Không gian bao la tràn ngập ánh trăng, ánh trăng của tự do, ánh trăng của hoà bình, soi sáng niềm vui cho từng ngọn núi, từng cánh rừng, từng xóm làng Việt Nam. Bức tranh mùa thu Việt Nam hoàn thiện bức tranh núi rừng tươi đẹp và kết thúc bài thơ bằng bài “Lòng chung thuỷ” gợi tình yêu quê hương đất nước. nước.

Toàn bộ tuyển tập như một bản nhạc nhịp nhàng, tình cảm, ngân vang những bản tình ca, bản hùng ca về thời chống Pháp, chống Nhật anh dũng của nhân dân ta. Qua bài ca đẹp đẽ mà hào hùng, nhà thơ đã bày tỏ tình cảm chân thành của mình với núi rừng Bắc Bộ, ca ngợi tình đồng chí, tình đồng bào. Qua đó, tác giả cũng nhắc nhở người đọc đừng quên những trang sử hào hùng của dân tộc, những trang sử đẫm máu và nước mắt, những trang sử thắm đượm tình cách mạng và lòng yêu nước mãnh liệt.

Bài văn mẫu phân tích những câu thơ trong bài soạn Tiếng Việt văn mẫu 2

Nói đến những thành tựu nổi bật của văn học Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp xâm lược, có lẽ phải nói đến Tình bạn Việt Bắc. Đây là bài thơ mang đậm màu sắc dân tộc và là một phong cách thơ tiêu biểu. Qua đó thể hiện nỗi nhớ da diết, son sắt và kính yêu của nhân dân Việt Nam đối với cách mạng, với đảng, với Bác Hồ, đồng thời thể hiện tình cảm của cán bộ kháng Nhật đối với thiên nhiên, sông núi, con người miền Bắc. Việt Nam.

Đoạn thơ gồm năm câu lục bát, trong nỗi nhớ của người cán bộ cách mạng miền xuôi, gợi lại những cảnh đẹp thân thiết nhất của Việt Bắc và con người Việt Bắc, ở đây chính nhà thơ.

Anh về có nhớ em không

Em về nhớ hoa cùng anh.

Đây là hai dòng đầu của bài thơ nhưng lại mang đến cảm nhận chung cho cả đoạn văn. Cái “tôi” là người ra đi, là chính tác giả. Các câu thơ ở đây được xây dựng theo lối đối đáp thường thấy trong ca dao cổ truyền. Thế nên mới có chuyện kẻ ra đi nói với người ở lại, liên tưởng đến một thiếu nữ ở địa phương. Và câu hỏi tu từ này chính là cái cớ để chàng trai miền xuôi bày tỏ tình yêu với cô gái vùng cao.

“Hoa và người” là nỗi nhớ về thiên nhiên và con người Việt Bắc. Ở đây, thiên nhiên và con người chung sống hài hòa, bên cạnh mối quan hệ tương hỗ giữa con người với nhau còn có mối quan hệ tương hỗ. Việt Bắc sinh ra người, người sưởi ấm quê hương Việt Bắc.

Tiếp theo, tám dòng còn lại của lục bát như một sơ đồ tứ giác thể hiện sự thống nhất giữa con người và thiên nhiên ở đây. Nhà thơ dùng bốn dòng lục bát để tả cảnh núi non bốn mùa, mỗi mùa là một bức tranh thiên nhiên có vẻ đẹp riêng. Đến đây tôi mới thấy bài thơ này đượm màu sắc dân gian.

Đầu tiên là bức tranh tả cảnh gợi cho ta những cảm xúc sâu sắc về mùa đông Việt Bắc. Tại sao lại là mùa đông? Vì đây là kỉ niệm của tác giả lúc chia tay. Chúng ta còn nhớ vào một đêm mùa đông năm 1946, Hồ Chí Minh kêu gọi toàn dân kháng chiến. Đặc biệt ở Hà Nội, các chiến sĩ cảm tử vượt sông Hồng vào căn cứ địa cách mạng Việt Nam sau hai tháng giam cầm địch trong thành. Sự kiện này vẫn còn tồn tại đến ngày nay trong một bài hát quen thuộc:

Đêm dưới cầu lạnh quá

Anh ấy, anh ấy hứa ngày mai sẽ quay lại

Dòng sông ơi, dòng sông đỏ đôi bờ hát mãi

Thể hiện niềm tin vào Triumph.

Giảm cân mùa đông đã viết:

Mắt em buồn,

Hãy nhìn tôi và không nói gì.

Tình yêu của chúng ta thật tuyệt,

Quá nhiều điều để nói

Một mùa đông đã qua

Chưa bao giờ nói…

Thế mà giữa mảnh đất núi rừng sơn thủy hữu tình này bỗng bừng lên sắc đỏ tươi của những bông hoa chuối rừng như một ngọn đuốc. Khung cảnh mùa đông nên thơ và lộng lẫy khiến lòng người xao xuyến. Qua màn ảnh, ta có thể thấy dù mùa đông lạnh giá nhưng cuộc sống nơi núi rừng dường như vẫn chảy, mang lại cho con người ta cảm giác ấm áp trở lại.

Thiên nhiên thật đáng yêu, còn con người thì sao? Hãy xem xét bài hát này:

Con dao trong thắt lưng là Qualcomm dưới ánh mặt trời.

Thời gian được xác định bởi yếu tố “ngày xuân”. Chính ấn tượng về thời gian này đã tạo nên sự chuyển động và lan tỏa. Không gian nơi đây giống như trong truyện cổ tích. Một thời hoa chuối đỏ au xanh ngút ngàn, nay đã nở đầy rừng mai trắng thơm. Một màu trắng tinh khôi bao trùm cả khu rừng gợi lên trong lòng ta một cảm giác thơ mộng. Ngoài ra, màu trắng của hoa mai càng gợi lên sự tĩnh lặng và cảm giác yên tâm. Câu thơ khiến ta có cảm giác như màu xanh đã bị lấn át. Mùa xuân ở đây không tươi vui như mùa xuân diệu kỳ mà đến một cách lặng lẽ, âm thầm nhưng không kém phần tươi vui.

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi chỉ.

Mùa xuân được miêu tả trong bài thơ này là một mùa xuân rất đặc trưng của Việt Nam. sợi giang là sản phẩm của việt bắc. Do đó, người công nhân là người Bắc Việt, không phải người miền xuôi. Có thể nhìn rõ từng thớ thịt, tức là nhìn cận cảnh mọi người.

Rồi mùa xuân trôi qua, người người lại tiếp tục cuộc sống của mình.

Gọi rừng đổ vàng

Nhớ em hái măng một mình

Hình ảnh thu hút sự chú ý của người đọc cả về thị giác và thính giác. Trước hết, cái độc đáo ở đây là âm thanh, âm thanh của mùa hè, âm thanh của “cic”. Thơ tạo ra những hình tượng được nhân cách hóa. Ve sầu là một loài động vật, nhưng nó biết hót, biết hót và làm cho rừng hổ phách trở nên “vàng hoe”. Chúng ta nên dành một chút thời gian để tìm hiểu về khu rừng hổ phách kỳ lạ này. Gỗ ở rừng Việt Nam, nở hoa vàng vào đầu mùa hè.

Tiếng ve kêu râm ran, đã hết hè. Lá bắt đầu chuyển sang màu vàng, cả khu rừng được khoác lên mình bộ áo mới, những chiếc áo vàng rực rỡ dưới nắng. Khung cảnh thiên nhiên đẹp đẽ, lộng lẫy lại càng lãng mạn hơn, bởi giữa cánh rừng bạt ngàn có bóng dáng một cô gái sơn cước “hái măng một mình”. Đọc đến đây, người ta không khỏi liên tưởng đến hình ảnh tương tự trong thơ Nguyễn Bình, một nhà thơ nông thôn trong phong trào Thơ Mới.

Theo dõi khách hàng

Uống rượu nhìn đồi xanh

Không khí yên tĩnh và trong lành

Đốt vườn mai, nàng hái mơ.

Đây là khổ thơ đầu tiên của bài thơ cô nhặt được. Chúng tôi thấy một sự tương đồng rất ngẫu nhiên: cũng có khu rừng và cô gái đang làm việc. Chỉ có “hái mơ” chứ không có “hái măng”.

Dường như từ “nhặt” ở đây không thể thay thế bằng các động từ khác như ngắt, ngắt…, bởi chỉ nó mới phù hợp với sự dịu dàng, uyển chuyển, mềm mại của người con gái. Chỉ cần tưởng tượng một bức tranh mùa hè đẹp như thế nào! Một khung cảnh thiên nhiên tươi đẹp như vậy được khảm lên hình ảnh của một người phụ nữ chuyên nghiệp dịu dàng. Thực ra bức tranh vừa đẹp vừa có hồn. Rõ ràng, thiên nhiên và con người đã hòa quyện và bổ sung cho nhau.

Cuối cùng, bài thơ kết thúc với cùng một hình ảnh đẹp về mùa thu:

Xem Thêm: Tổng hợp các bài văn nghị luận về tác phẩm Chữ Người Tử Tù

Rừng thu trăng sáng bình yên

Bài hát về tình yêu trung thành

Câu thơ rành mạch, đây là mùa thu. Thiên nhiên mùa thu được miêu tả bằng ánh trăng. Sử dụng hình ảnh mặt trăng thực ra không có gì độc đáo, mới lạ. Tuy nhiên, trong hoàn cảnh miền Bắc Việt Nam lúc bấy giờ, chúng ta mới thấy được ước mơ hòa bình của cán bộ và toàn dân tộc Việt Nam. Tất cả đều nói rằng họ tin vào thắng lợi của cách mạng và thắng lợi của đất nước.

Câu thơ không cụ thể nên người ở đây cũng không cụ thể. Làm mờ chữ “ai” tạo nền cho cả đoạn văn, đồng thời trả lời cho câu hỏi đầu bài: “Lần về có nhớ em không?”. Tuy hỏi, nhưng trong lòng họ vẫn biết người này vẫn trung thành. Đây chính là sự âm vang trong lòng người ra đi và cả người ở lại.

Có thể thấy, bao trùm cả bài thơ là nỗi nhớ da diết tha thiết tiếp nối tiếng nói chung của nghệ thuật dân gian. Những câu thơ nhịp nhàng, uyển chuyển, những suy tư, lời dặn dò cứ thế tuôn trào trong tâm trí kẻ ra đi và kẻ ở lại. Đặc biệt bằng cách gọi “tôi” là “tôi”. Từ “nhớ” ở đây được dùng để nhấn mạnh cảm hứng chủ đạo là nỗi nhớ. Thêm vào đó, âm điệu mềm mại, du dương mang đến cho toàn bài thơ một âm hưởng da diết, da diết, như một khúc hát ru – khúc hát ru của kỉ niệm. Có lẽ lời ru này không của riêng ai ngoài “tôi” và người nhận “tôi”. Cả “ta” và “ta” đều có chung một nỗi nhớ, cùng một “khúc hát trao duyên”, tình cảm còn vương vấn trong tâm hồn chung thủy.

Có thể nói đây là bài thơ hay nhất, giá trị nhất trong các bài Việt Bắc. Cảnh sắc thiên nhiên và cách miêu tả nhân văn trong bài thơ thật tuyệt vời, duyên dáng và tràn đầy sức sống. Cùng với giọng thơ ngọt ngào, tình cảm khiến bài thơ này như một bản tình ca ngợi ca lòng thủy chung son sắt của người cách mạng đối với dân tộc Việt Nam, với Tổ quốc.

Phân tích câu thơ trong bài ca Việt Bắc: “Anh về có nhớ em không… nhớ ai câu ca dao thắm thiết”, có thể cho thấy tình cảm nhân văn rất đậm nét khi lên đường ra Việt Bắc. Nghệ thuật thơ hay vay mượn và tái hiện vẻ đẹp của những cuộc hành quân, mỗi nhà thơ có cách khám phá và thể hiện riêng. Đọc thuộc lòng các câu thơ Tây Thiên Nhạc Bộ để củng cố kiến ​​thức.

Phân tích thơ trong sáng tác tiếng Việt Ví dụ 3

Việt Bắc là một trong những bài thơ hay nhất của Du Du. Ca từ của bài thơ như một bản tình ca chân thành về Việt Bắc, quê hương của cách mạng Việt Nam thời chống Pháp. Ở đó, ngoài những bức tranh sử thi tráng lệ, còn có cuộc sống đời thường gần gũi được bao quanh bởi thiên nhiên tươi đẹp tuyệt vời:

Anh về rồi em có nhớ anh không

Em về nhớ hoa cùng anh.

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Con dao trong thắt lưng là Qualcomm dưới ánh mặt trời.

Mùa xuân hoa nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi chỉ.

Gọi rừng đổ vàng

Nhớ em hái măng một mình

Xem Thêm: Tổng hợp các bài văn nghị luận về tác phẩm Chữ Người Tử Tù

Rừng thu trăng sáng bình yên

Nhớ câu hát chung tình.

Đây là một bức tranh được dệt nên bằng những ngôn từ nghệ thuật hoàn hảo, cảnh sắc hòa quyện, giữa hiện thực cuộc sống và tấm lòng của nhà thơ cách mạng.

Mười câu trên nằm trong 62 bài thơ, nói lên tâm tư, tình cảm của người cán bộ sắp rời Việt Nam này, anh đã gắn bó 15 năm trời, máu thịt rất nhiều. Bài thơ bắt đầu bằng một câu hỏi:

Anh về rồi, anh nhớ em

Nhưng thực ra, hỏi là hỏi, mà hỏi là để kiếm thêm cớ để bộc lộ cảm xúc của mình:

Em về nhớ hoa cùng anh.

Xem Thêm : SINH HOẠT VỀ CHỦ ĐỀ: TÌNH YÊU TUỔI HỌC TRÒ

Do cách tạo đối thanh và thanh ở câu b (6/8) giống như một khúc hát ru nên nhịp điệu của câu thơ này mượt mà, và câu thơ này không chỉ thể hiện tâm trạng tha thiết của người trữ tình. Đó cũng là lời ca ngợi thiên nhiên và con người Việt Nam. Trong tiếng Việt, hoa còn mang ý nghĩa tượng trưng về thiên nhiên, vẻ đẹp. Đặt hoa quanh người là sự tôn vinh thiên nhiên và con người Việt Nam.

Cộng với hoa và người hòa quyện và nương tựa vào nhau. Không thể nói đến thiên nhiên mà không nói đến con người, và ngược lại, những con người đó chính là vẻ đẹp và sự nhân hậu của thiên nhiên.

Bốn câu thơ lục bát còn lại là bức tranh liên hoàn về con người và thiên nhiên Việt Bắc. Nhiều người gọi đây là tứ (Xuân, Hạ, Thu, Đông). Nhà thơ đã kế thừa nghệ thuật hội họa truyền thống của dân tộc khi miêu tả thiên nhiên. Mỗi câu thơ có thể phối hợp thành một bức tranh cụ thể, nhưng cũng có thể hợp thành một tập hợp liên hoàn.

Hình ảnh đầu tiên:

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Con dao trong thắt lưng là Qualcomm dưới ánh mặt trời.

Câu thơ này mở ra rất nhiều không gian. Trên nền của rừng cây xanh bạt ngàn, hình ảnh những bông hoa chuối đỏ tươi đặc biệt bắt mắt. Nghệ thuật tu từ trong thơ cổ (Cỏ lạnh trời – Vài bông trên cành lê trắng – Nguyễn Du) tỏ ra rất hiệu quả. Giữa bạt ngàn màu xanh của núi rừng Việt Nam, sắc đỏ của hoa chuối ngay lập tức gợi lên sự ấm áp và có tính lan tỏa cao. Vì thế, khí thế hùng vĩ không có gì đáng ngạc nhiên, trái lại còn gần gũi với con người:

Con dao trong thắt lưng là Qualcomm dưới ánh mặt trời.

cũng là một cách để chỉ ra hình ảnh dấu phẩy động rõ ràng hơn cảnh. Và cách chấm cũng rất độc đáo: chọn chấm càng nhỏ thì sức gợi càng lớn. Như vậy, bài thơ có những hình ảnh và cảnh vật chập chờn (nắng), vắng lặng, thậm chí cô tịch bỗng sống động – thơ là nghệ thuật của thời gian. Với những nghệ sĩ tài hoa này, sự sáng tạo của những lớp thời gian và không gian chồng chéo không phải là bất biến, mà được đưa vào cuộc sống thông qua sự tái tạo của các lớp ngôn từ. Rừng xanh ngọc bích, hoa chuối đỏ tươi, dưới nắng cao, là một bài thơ như thế.

Hình ảnh thứ hai:

Mùa xuân hoa nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi chỉ.

Các hình ảnh khác nhau. Khổ thơ thứ nhất và khổ thơ thứ hai bắt đầu bằng sự định vị thời gian (ngày xuân). Nhưng chính thời gian đó lại mở ra không gian:

Rừng nở trắng mùa xuân.

Phép điệp từ (mộng/nở; trắng/rừng) kết hợp với hình ảnh hoa mai (trắng) tạo nên một không gian vừa khoáng đạt, vừa tràn ngập sự hối hả, náo nhiệt của thiên nhiên. Nếu như ở bức tranh thơ đầu, đan xen giữa nghệ thuật miêu tả của tác giả là đi tìm những hình ảnh giàu sức gợi và những gam màu tươi sáng (hoa đỏ, ánh nắng để miêu tả sự chuyển động của cảnh vật) thì ở đây, nhà thơ hướng đến cái phổ quát và đi tìm cái kích thích (tiềm ẩn) của thiên nhiên.

Trên nền không gian bao la và náo nhiệt ấy, nhà thơ hướng tầm nhìn của mình vào một hoạt động tưởng chừng rất tỉ mỉ:

Người đan nón chuốt từng sợi.

Trong cuộc “lao động thầm lặng” ở miền Bắc Việt Nam, nhiều người đã thốt lên những vần thơ ca ngợi “những con người cần cù, cẩn thận và tài hoa”. Ai đó đã nói: “Dưới ánh mai xuân, hình ảnh người con gái Việt Nam trông mảnh mai, dịu dàng”. Bài thơ này có hình ảnh như vậy. Người Việt Bắc là thế này trong nỗi nhớ của Dou You. Nhưng đó là hình thật. Trong chuỗi hoài niệm của tác giả, một hình ảnh khác chỉ là gợi nhớ. Bài thơ gợi cảm xúc và là góc nhìn của tác giả hơn là miêu tả hiện thực. Đây là một hình ảnh điển hình của cuộc sống hàng ngày ở Việt Nam. Đối với nhiều người, nó có thể quá nhỏ để đáng nhớ. Có những nhà thơ thân tình như những người bạn, và đó là một hình ảnh khó quên.

Bức tranh thứ ba:

Gọi rừng đổ vàng

Nhớ em hái măng một mình

Bài thơ bắt đầu bằng tiếng (tiếng ve) và được định vị bằng thời gian (mùa hạ). Những dòng thơ vừa mang âm hưởng rộn ràng, vừa mang màu sắc riêng của núi rừng phương Bắc. Những âm thanh và màu sắc ấy tạo nên một khung cảnh thiên nhiên tưng bừng. Nếu thiên nhiên cũng có sự sống của nó thì đây quả thực là một bữa tiệc phong cảnh. Vì vậy, trong “ngày hội” này, hình ảnh người chị hái măng không đơn độc mà tạo thành một bức tranh thơ trọn vẹn:

Gọi rừng đổ vàng

Nhớ em hái măng một mình

Như tôi đã nói, hoa trong thơ Bắc Việt và tiếng Việt bổ sung cho nhau đẹp đẽ. Trong nỗi nhớ này, tác giả dùng ngòi bút ca ngợi sự đồng điệu. Chính sự hài hòa này đã tạo nên chất thơ. Vì vậy, không nên suy diễn nó từ những hoạt động và lao động của đời sống thực tế, giàu tính chất như quả trứng.

Bức tranh thứ tư:

Xem Thêm: Tổng hợp các bài văn nghị luận về tác phẩm Chữ Người Tử Tù

Rừng thu trăng sáng bình yên

Nhớ câu hát chung tình.

Câu thơ mở đầu bằng một địa điểm trong không gian và thời gian (rừng thu). Đến đây, chúng ta nên chú ý đến phương thức định vị trong kinh sách trên:

Rừng xanh => Không gian.

Ngày xuân => thời gian

tiếng hét => âm thanh(thời gian)

Mỗi câu thơ và địa điểm trên tương ứng với một mùa tự nhiên (đông, xuân, hạ). Đoạn thơ này cũng là bức tranh thiên nhiên giao mùa (mùa thu). Nhưng có lẽ vì là bức ảnh cuối cùng của bộ tứ và là bài hát cuối cùng của chuỗi hoài niệm nên hình ảnh trở nên tượng trưng và cộng hưởng nhiều hơn:

Xem Thêm: Tổng hợp các bài văn nghị luận về tác phẩm Chữ Người Tử Tù

Rừng thu trăng sáng bình yên

Bài hát về tình yêu trung thành

Thế giới bao la như cảnh sắc mùa thu trong mộng thơ mới:

Giày cao gót lẫn vào điểm mù

Tôi đã trở lại Myriad Autumn Forest.

(Cấp dưới)

Hoàng hôn nhuộm đỏ bầu trời

Gió thu bay xa.

Trăng thu soi bóng làng,

Hỏi Người Lữ Hành Người nằm mơ đi về đâu?

(hằng số)

Cảnh thu rừng thu Việt Bắc trong bài thơ bạt ngàn mà không lạnh. “Trăng sáng soi tỏ hòa bình” không chỉ hàm ý ánh trăng của sự sống chan chứa yêu thương mà còn bao hàm ý nghĩa của cuộc sống được soi sáng bởi hơi ấm của niềm tin và tự do. Và, trong cuộc sống ấm áp ấy, có biết bao tình sâu nghĩa nặng.

Xem Thêm: Phân tích người đàn bà hàng chài siêu hay (18 Mẫu)

thơ của bạn là bài ca tự do và thanh cao cách mạng. Bản thân tình yêu cuộc sống ấy luôn là khúc ca trìu mến của các thi nhân. Vì vậy, nhà thơ không chỉ cảm nhận cuộc đời, suy nghĩ về cuộc đời mà còn cất tiếng ca ngợi cuộc đời. Bài Lòng Trung Thành trong thơ Việt Bắc là một trong những bài như vậy.

Bài thơ tứ tuyệt về người Cảnh Nguyệt được dệt nên trong nỗi nhớ da diết. Thông thường, người ta chỉ nhớ những gì ấn tượng nhất trong quá khứ, và thời gian càng cũ, ấn tượng này càng trở nên đẹp đẽ và kỳ ảo. Một loạt từ ám chỉ (5 chữ) nhớ trong bài thơ, như nối dài thêm vô tận nỗi nhớ.

Việt Bắc là một bài thơ hay của Tố Hữu. Ở đó, các nhà thơ đã thể hiện tài năng của mình về nhiều mặt trong nghệ thuật sáng tạo thơ ca. Sự tinh tế này được thể hiện qua những giai điệu thơ mộng và có hồn. Đoạn thơ trên là một trong những đoạn thơ hay nhất Việt Bắc, cô đọng một nghệ thuật thơ vừa dân tộc vừa hiện đại trong một giai điệu tâm hồn thiết tha.

Phân tích các câu thơ trong bài soạn Tiếng Việt ví dụ 4

Về thơ ca cách mạng, Thái Hậu là nhà thơ thứ hai sau Hồ Chí Minh. Nhà thơ còn đang loay hoay đi tìm lý do để yêu đời, khát khao được sống có ích nay đã giác ngộ cách mạng và trở thành nhà thơ chiến sĩ xuất sắc, dù ở lĩnh vực thơ ca hay lĩnh vực chiến tranh, chiến trường. để chiến đấu. .Thơ Việt Bắc được viết để nói về chiến thắng Điện Biên Phủ của nhân dân ta. Những người lính quân đội phải tạm biệt đồng bào Việt Bắc trở về Hà Nội. Sống chung nhiều năm như vậy, quân dân đoàn kết, khó có thể tách rời. Đặc biệt, câu thơ “Em có còn nhớ đến anh/…/ Nhớ em bằng câu ca dao thắm thiết” là một câu thơ không chỉ tả cảnh mà còn ca ngợi vẻ đẹp của con người Việt Nam. Đây là bức tranh thiên nhiên bốn mùa thân thương của Việt Nam.

Bức tranh thiên nhiên ấy bắt đầu từ mùa đông. Không phải tự nhiên mà nhà thơ lại chọn thời điểm bắt đầu mùa đông cho bức tranh ấy, thường là xuân, hạ, thu rồi đông. Nhưng nhà thơ lại chọn mùa đông ở đây trước, vì đây là thời điểm các nhà cách mạng đến Việt Nam:

Anh về có nhớ em không

Tôi nhớ hoa của bạn khi tôi trở lại

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Qualcomm dưới ánh mặt trời với một con dao thắt lưng

Nhà cách mạng tự hỏi liệu người Việt Nam có nhớ mình khi trở về không. Cách xưng hô được các nhà thơ kế thừa từ ca dao để biểu thị sự thân mật, gần gũi. Những người cách mạng trở về đồng bằng sẽ nhớ cả cảnh đó và miền Bắc Việt Nam. Hình ảnh thiên nhiên mùa đông được điểm xuyết bằng hình ảnh hoa chuối rừng. Trên những vạt rừng xanh tươi, những bông hoa chuối đỏ tươi nở rộ như nở rộ cả một khu rừng. Nhắc đến mùa đông, người ta thường nghĩ đến khung cảnh ma quái với những chiếc lá rụng từ gốc cây, nhưng ở Việt Nam cổ kính này, màu sắc lại đẹp đến nao lòng. Trên cái nền tươi sáng ấy, con người hiện lên với dáng vẻ lao động. Gần cao, nắng chiếu vào con dao đeo ở thắt lưng của người Việt Bắc làm con dao sáng lấp lánh. Trạm kiểm soát cao và người thực sự ít, nhưng người vẫn cao hơn trạm kiểm soát. Ở đây ta có thể thấy sự chi phối của thiên nhiên ở miền Bắc Việt Nam.

Tiếp theo là bức tranh về mùa xuân, đất nước Việt Nam thân yêu của nhà thơ, khung cảnh mùa xuân được thể hiện như hoa mai trắng và người đội nón đan:

Mùa xuân hoa nở trắng rừng

Còn nhớ ai đan nón chuốt từng sợi không?

Mùa xuân, hoa mai nở trắng khắp rừng, tô thêm cảnh đẹp dịu dàng cho thiên nhiên. Những cánh hoa mai trắng muốt e ấp trong nắng xuân dịu dàng làm sao. Người chiến sĩ cách mạng đứng trước vẻ đẹp như tranh vẽ gợi nhớ đến hình ảnh những người con người Việt Bắc cần cù, bền bỉ chuốt từng đường kim mũi chỉ của những chiếc nón lá. Ở đây, ta thấy được vẻ đẹp của con người Việt Nam cần cù, kiên trì, bền bỉ.

Mùa xuân qua đi và mùa hè lại về, hoa ngân hạnh nhường chỗ cho rừng màu hổ phách và màu trắng sang vàng – sắc màu tinh túy của mùa hè. Đặc biệt trong khung cảnh mùa hè ấy không thể thiếu bản hòa ca của mùa hè: tiếng ve kêu:

Gọi rừng đổ vàng

Muốn chị hái măng một mình”

Nhà thơ dùng từ “tưới” rất đắt, dùng rất nhuần nhuyễn, mượn ý thơ rằng xuân hạ như đổ vàng thay rừng mai trắng. Cánh rừng ấy đang chào đón mùa hè bằng những màu sắc khác, rực rỡ hơn. Lính nhớ cô gái Bắc Việt tự tay hái măng. Từ “một mình” cho ta thấy được những hiểm nguy luôn đeo bám người con gái nhưng đồng thời cũng thể hiện bản lĩnh, lòng dũng cảm của người con gái Việt Nam.

Cuối cùng là bức tranh mùa thu, với hình ảnh ánh trăng và tiếng hát của các tín đồ:

Xem Thêm: Tổng hợp các bài văn nghị luận về tác phẩm Chữ Người Tử Tù

Rừng thu trăng sáng bình yên

Bài hát về tình yêu trung thành

Mùa thu là mùa của ánh trăng, nếu Hồ Chí Minh viết:

Trăng lồng cũ, bóng lồng hoa.

<3

Lo cho đất nước không bao giờ ngủ.

Rồi giờ đây yếu tố đã được “rừng thu soi sáng bình yên”. Trước ánh trăng cao đẹp, vị lãnh tụ dân tộc Hồ Chí Minh vẫn quan tâm đến Tổ quốc, thì nay ánh trăng ở Việt Nam là ánh trăng hòa bình. Ánh trăng ấy mang ánh sáng của niềm tin yêu cuộc sống, hòa bình và thịnh vượng. Đồng bào Bắc Việt xuất hiện hát những bài tri ân. Bộ đội và người Việt Bắc có thể phải tạm thời xa cách, nhưng trong lòng hai bên sẽ luôn nhớ về nhau và để lại những kỷ niệm đẹp.

Có thể nói, nhà thơ Du Bạn đã miêu tả bức tranh thiên nhiên bốn mùa trên đèo cao Việt Nam rất thành công. Những hình ảnh thiên nhiên ấy gắn liền với hai chữ Việt Bắc, nơi con người hiện lên với vẻ đẹp của tấm lòng và đức tính cần cù, kiên trì, chí tiến thủ, dũng cảm và tình nghĩa. Những đức tính ấy cũng góp phần làm nên chiến thắng của dân tộc hôm nay.

Phân tích các bài thơ trong Ví dụ 5 bài thơ Việt Nam

Đỗ Hữu luôn viết về lí tưởng, lẽ sống, lòng trung thành với cách mạng, là một trong những nhà thơ lớn, tiêu biểu nhất của nền thơ ca hiện đại Việt Nam. Ông là người yêu nhân dân, yêu nước nên các tác phẩm của ông rất gần gũi với nhân dân. Thơ Việt Bắc là một bức tranh trữ tình mà bất tử, bao trùm cả không gian Thơ Việt Bắc là một bài thơ dài, không phải đoạn nào cũng viết giống nhau. Nhưng quả thật có những đoạn đặc biệt, người đọc mới thấy được cái hay của ngòi bút.

Cảnh thiên nhiên đẹp nhất trong cả bài thơ. Tác giả chỉ dùng 10 câu để tập trung vào một chủ đề nhưng đã đạt đến độ hoàn mỹ. Có thể chia bài thơ thành hai phần: phần đầu gồm hai câu đầu và các câu còn lại. Phần đầu của nó giống như dòng mở đầu trong một bản tình ca. Trong số đó, người con trai (người về) không chỉ chiếm được cảm tình của người ở lại mà còn khẳng định được tình cảm trong trái tim mình. Phần sau gồm 8 câu bố cục thành 4 cặp lục bát.

Tác giả có sự kết hợp giữa hoa và người trong từng câu văn. Đây là bộ tranh tứ bình miêu tả cảnh sắc bốn mùa của Việt Nam, mang những nét đặc trưng nhất của vùng miền. Có thể nói, tuy cả bài thơ miêu tả rải rác cảnh sắc thiên nhiên Việt Nam, nhưng nó dường như được kết tinh ở đoạn văn này một cách cô đọng nhất.

Mỗi câu nói như một lời đối đáp thân mật của đôi lứa, ngọt ngào mà nghiêm túc, ăn sâu vào lòng người:

“Khi anh về em nhớ anh”

Lời đối đáp nghe rất thân mật, gắn bó đôi lứa, nhưng dùng cách xưng hô ta-ta, ta-ta khiến cho mối quan hệ giữa hai người trở nên giản dị, vô tư. Nhờ cách xưng hô này mà cặp đôi có sự thoải mái để bày tỏ tình cảm. Tôi vẫn không biết em có nhớ tôi không, nhưng cho dù em không nhớ tôi thì em vẫn nhớ tôi. Nỗi nhớ thanh tao và tinh tế làm sao:

“Ngày về nhớ hoa cùng em”

Người hoài niệm Việt Nam không chỉ có cảnh đẹp mà còn biết ơn con người nơi đây. Trong nỗi nhớ của lữ khách, hai hình ảnh ấy cùng tồn tại và phản chiếu lẫn nhau. Hoa là thứ đẹp nhất trong tự nhiên, và con người là “hoa của đất”. Cho nên nghĩ đến người thì thấy bóng hoa, nghĩ đến hoa thì thấy bóng người. Hoa và người không thể tách rời. Nói “hoa và người” với một cô gái, đó không phải là một đánh giá thận trọng sao?

Hình ảnh cái đẹp mà tác giả nói đến là một hình ảnh rất đỗi bình dị diễn ra trên khắp Việt Bắc:

“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Qualcomm dưới ánh mặt trời với một con dao thắt lưng”

Sắc xanh man mác, biểu tượng của cuộc sống tốt đẹp, rực rỡ bao trùm không gian đất trời Việt Nam. Đây là màu xanh bạt ngàn, êm đềm của những cánh rừng già. Nó gợi hình ảnh một vùng quê thanh bình, yên ả, tĩnh lặng. Nhưng trên nền xanh ấy ta lại thấy hình ảnh bông chuối rừng, lập lòe như ngọn đuốc. Người biết hoa chuối nở sẽ thấy tuy tác giả viết từ “đỏ rực” nhưng cũng đủ gợi cho ta biết hoa chuối đã bừng sáng cả một góc rừng rồi. Vì vậy, những bông hoa chuối làm cho cảnh rừng trở nên sống động. Đồng thời, hình ảnh hoa chuối được điểm xuyết bằng ánh nắng ở câu thứ hai làm cho không khí vốn đã tĩnh mịch nơi đây trở nên bừng sáng, tràn đầy sức sống. Trên nền khung cảnh đó, một bức chân dung hiện ra:

”Sunshine Qualcomm có khóa’

Đây là hình ảnh của người dân lao động ở núi rừng Việt Nam. Họ đang đi bộ lên đèo với tinh thần làm việc hết mình, bất kể khó khăn như thế nào. Thiên nhiên cũng vậy, có thể chơi với người lao động. Một người đứng trên đèo cao, nắng chiếu vào lưỡi kiếm trên thắt lưng, chập chờn. Nó gợi đến tư thế vững vàng, tự tin của chủ nhân núi rừng. Các yếu tố thường mô tả những người trong những tư thế này. Trong bài lên Tây Bắc, tác giả viết:

“Ảnh của bạn dưới nắng chiều thật đẹp

Bóng dài trên dốc cao

Núi không ôm nổi vai

Những chiếc lá nguỵ trang reo trong gió.

Trong đoạn thơ trên, nhà thơ không tả bằng lòng mà chỉ vài dòng cũng đủ cho ta hiểu khá rõ về hình ảnh ấy. Bởi vậy, mỗi người mỗi cảnh, mỗi hoa, mỗi người đều toát lên khí chất xứ Bắc.

Mùa xuân ở Việt Nam đẹp say lòng người. Nhưng khi đi vào thơ ca, ta có thể hình dung vẻ đẹp đó trong cuộc sống đời thường nhưng không phải ai cũng nhận ra vẻ đẹp đó.

Xem Thêm : Phân tích bức tranh tứ bình trong Nhớ rừng (7 mẫu) – Văn 8

“Hoa trắng nở trong rừng vào mùa xuân

Người nhớ đan nón mài từng sợi chỉ”

Một mảnh mai trắng đã phủ khắp núi rừng Việt Nam. Từ “Rừng trắng” điều khiển cảnh rừng sáng lên. Phải nói đây là hình ảnh có sức ám ảnh lớn đối với tâm hồn nhà thơ. Trong hoài cổ Việt Nam, dường như không thể thiếu loại màu này. Sau đó, trong bài viết sau này, ông viết:

“Ôi, sáng xuân nay, Xuân 41

Hoa mai nở trắng bìa rừng

Bạn đã trở lại. im lặng. chim hót

St.Reed Shore chết lặng”

Giữa một không gian bao la đẹp đẽ ấy là hình ảnh những người lao động cần cù thật đáng quý. Hai nhân vật “cần gì lấy nấy” hàm ý thái độ cần mẫn, cẩn trọng và tài hoa. Người thợ nón kia đã gửi gắm vào từng sợi vải những gì, những tình cảm và ước mơ gì?

“Núi nổi tiếng Hồ Lâm đổ vàng”

Muốn chị hái măng một mình”

Tác giả nhắc đến bức tranh thiên nhiên, không chỉ nhìn thấy màu sắc, đường nét, ánh sáng mà còn nghe thấy cả âm thanh của rừng, đó là tiếng ve kêu. Âm nhạc thiết lập tâm trạng lên. Tôi phải nói rằng trong số những bức ảnh ở đây, mùa hè ở Việt Nam là đặc biệt nhất. Ở đoạn thơ này, ta thấy dường như có một phản ứng dây chuyền từ đầu đến cuối câu thơ này. Tiếng ve gọi hè về vàng rực rừng hổ phách. Ai đã từng đến miền Bắc đều dễ dàng bắt gặp cảnh tượng lạ lùng rừng hổ phách vẫn xanh tốt, nụ hoa vẫn ẩn hiện trong kẽ lá. Nhưng khi những chú ve kêu đầu tiên của mùa hè, tất cả đều nở hoa vàng. Chỉ trong vài ngày, khu rừng hổ phách tỏa ánh sáng vàng. Từ “đảo ngược” là một từ tinh tế. Nhấn mạnh các khía cạnh thay đổi nhanh chóng của màu sắc, mô tả một cơn mưa hoa vàng khi một cơn gió thổi qua. Rõ ràng, gam màu đã thay đổi hoàn toàn ở đây, với màu trắng nhường chỗ cho màu vàng. Âm thanh dường như đổi màu. Trong khung cảnh ấy hiện lên hình ảnh nhẫn nại của người con gái Việt Nam: “Em nhớ chị em hái măng một mình”. Hình ảnh này toát lên tư thế chịu thương, chịu khó, làm hay làm, đầy đức hi sinh. Tóm lại bức tranh này, ta như thấy được sự đồng cảm thầm kín của tác giả.

Việt Nam ban ngày thật đẹp, đêm trăng non thật tĩnh lặng nên thơ. Bức ảnh chụp ánh trăng xuyên qua tán cây tạo nên một khung cảnh huyền ảo:

“Trăng soi rừng thu thanh bình”.

Tác giả tái hiện cảnh đêm trăng ở núi rừng Bắc Bộ, màn đêm yên tĩnh, không bóng quân thù, cho dân làng cuộc sống thanh bình. Đây là cảnh tượng quyến rũ của một bản tình ca. Đây cũng là cảnh cuối cùng:

“Nhớ Một Người Bản Tình Ca”

Từ “ai” là từ ám chỉ, ám chỉ người hát cùng mình, khiến từ này thêm lãng mạn. Qua bài ca dao này ta thấy được lòng yêu nước, thủy chung của người Việt Nam.

Bài thơ da diết tái hiện những gì đặc trưng nhất của quê hương cách mạng bằng những ngôn từ rất giản dị. Đây là tình cảm của tác giả đối với căn cứ địa cách mạng. Chính nơi nên thơ, đẹp như tranh vẽ này đã nuôi dưỡng, hun đúc những người con cách mạng, hun đúc cho các em lý tưởng cách mạng, tình cảm yêu nước, trở thành động lực để các em tiếp tục chiến đấu chống lại làn đạn của kẻ thù. . .

Phân tích các câu thơ trong bài soạn Tiếng Việt ví dụ 6

“Việt Bắc” – thể thơ lục bát với thể thơ hùng tráng gồm 150 khổ, dạt dào cảm xúc. Bài thơ này ra đời vào tháng 10 năm 1054, ngày thủ đô Hà Nội được giải phóng. Người bạn bày tỏ tình yêu Việt Nam, Cách mạng và Kháng chiến qua thơ ca.

Mười câu thơ sau, từ câu thứ 43 đến câu thứ 52 của bài thơ “Nhạc Bắc”, cho thấy nỗi nhớ Nhạc Bắc da diết như thế nào:

Anh về rồi em có nhớ không Anh nhớ hoa người nhớ rừng xanh hoa chuối đỏ tươi Đèo cao dưới nắng ánh dao thắt lưng. Mùa xuân hoa mơ nở trắng, nhớ người đan nón thêu từng đường chỉ. Rừng thu một mình hái măng, trăng soi bình yên, ai nhớ khúc tình thủy chung.

Hai câu đầu là câu hỏi và câu trả lời của “tôi”, là một cán bộ kháng Nhật trở về Trung Quốc, tôi đã tự hỏi mình “Bạn có nhớ tôi không”. Dù ngược xuôi, xa nhau nhưng lòng ta vẫn khắc khoải về Việt Bắc: “Anh về nhớ hoa cùng em”. Các ký tự “He” và “Ji” được phiên âm để thể hiện lòng trung thành. Nỗi nhớ “hoa và người”, nỗi nhớ thiên nhiên núi rừng Việt Nam, con người Việt Nam:

Xem Thêm: Nghị luận xã hội về vai trò của lời khen

“Anh về nhớ em, anh về nhớ hoa cùng em”.

Từ “ta ta” xuất hiện thường xuyên trong bài thơ, ở hai câu thơ này đã thể hiện một cách cao đẹp tình nghĩa vợ chồng Việt Bắc, đồng thời làm cho giọng thơ gợi nhớ quá khứ như xưa. nồng nàn như bản tình ca của anh. Đây là giọng điệu trữ tình, đậm chất dân tộc trong thơ Đỗ Hữu.

Trong 8 câu tiếp theo, mỗi cặp lục bát thể hiện một nỗi nhớ cụ thể về một cảnh cụ thể, một con người cụ thể trong 4 mùa đông, xuân, hạ, thu.

Nhớ mùa đông, nhớ màu “xanh” của núi rừng Việt Nam, nhớ màu “đỏ tươi” của hoa chuối rừng xanh như đốm lửa. Nhớ những người ra đồng, những người đứng trên “Nắng…” của đèo cao với tư thế hiên ngang, oai hùng “đeo gươm” mà ra đồng. Shimoda cán dao “tỏa nắng” cực sexy:

“Rừng xanh hoa chuối đỏ, Đai dao ánh nắng Cao Quan”.

Màu “xanh” của rừng, màu “đỏ tươi” của hoa chuối, “ánh nắng” lấp lánh dưới lưỡi dao, những màu sắc này phối hợp với nhau làm nổi bật sức sống tiềm tàng, mạnh mẽ của thiên nhiên. Việt Nam, cũng như sự làm chủ thiên nhiên trong cuộc kháng chiến và sinh hoạt của con người Việt Nam.

Touyou đã khám phá ra sức mạnh tinh thần của chế độ cai trị tập thể mà cuộc cách mạng và cuộc Kháng chiến mang lại cho nhân dân ta. Những người lao động sản xuất đứng anh dũng trên những “đỉnh cao” nơi nắng gió. Khi quần chúng đi vận động thì “bước chân nát, lửa bay”. Người lính ra trận mang sức mạnh vô địch của thời đại mới:

“Lá ngụy cuốn theo gió, núi không ngẩng đầu lên được.”

(“Hướng Tây Bắc”)

Nhớ xuân Việt Nam là nhớ hoa mai “mở rừng”. Từ “trắng” là tính từ chỉ màu sắc đã chuyển từ loại sang bổ ngữ “nở giữa rừng”, gợi liên tưởng đến thế giới hoa mai phủ khắp các cánh rừng Việt Nam với màu trắng tinh khôi và thanh khiết vô cùng. Ngôn từ hóm hỉnh của Tố Hữu gợi nhớ đến bài thơ tả cảnh xuân trinh của Nguyễn Du trong “Truyện Kiều”:

“Trời đầy cỏ xanh, cành lê trắng điểm xuyết hoa”.

Ta nhớ “mơ hoa nở trắng rừng”, nhớ người đan nón “nhòe rừng sợi sông”. “Cạo” có nghĩa là để tỏa sáng trên các sợi. Chỉ có sự thành thạo, kiên nhẫn, tỉ mỉ mới có thể đan “đường kim mũi chỉ” thành nón, phục vụ công cuộc kháng chiến, để người lính ra trận có “sao mũ súng”. Người chằm nón mà nhà thơ nhắc đến tiêu biểu cho vẻ đẹp tài hoa, sáng tạo của con người Việt Bắc. Mùa xuân ở Việt Nam thật khó quên :

“Xuân về núi nở hoa trắng nhớ người đan nón chuốt sợi”.

Nhớ về Việt Nam là nhớ mùa hè tiếng ve hót trong rừng, màu vàng của rừng hổ phách và cô gái “hái măng một mình” trong rừng cà, bách, trúc. :

“Tiếng ve hót rừng đổ vàng, nhớ cô em hái măng một mình”.

Sự “đổ” tài tình. Tiếng ve “đổ róc rách” làm mùa hè qua mau, nhuộm vàng cả khu rừng. Cũng có bài thơ của Huyền Đế dùng chữ “Thanh” để diễn tả cùng một cảm nghĩ: “Qua lá đổ trời xanh…” (Thơ Duyên – 1938). Câu thơ “Một mình hái măng” là một câu thơ độc đáo giàu vần điệu. Có vần lưng: “girl” vần với “pick”. Có sự ám chỉ qua phụ âm “m”: “mang – một – tôi”. Các bài thơ nên hòa vào âm nhạc, tạo ra một không gian nghệ thuật đẹp và thú vị, đầy âm thanh.

Người “chị hái măng một mình” vẫn không thấy lẻ loi, bởi chị vừa đi hát nhạc rừng, vừa hái măng để góp phần “nuôi chiến sĩ”, phục vụ kháng chiến. Cô gái hái măng chính là sự trẻ trung, yêu đời trong bài thơ.

<3

“Rừng thu trăng sáng lặng lẽ nhớ ai thiết tha.”

Lao Yue “Kim Bo Tian Qiu Shui”. Trăng Bắc Nguyệt trong thơ Bác là “vầng trăng cổ thụ in bóng lồng hoa”. Sau khi các cán bộ kháng Nhật trở về Trung Quốc, họ nghĩ đến vầng trăng sáng của miền Bắc Việt Nam trong khu rừng mùa thu, “tỏa sáng” giữa những chiếc lá rừng xanh màu ngọc bích, và vầng trăng trong lành mát mẻ mang một màu “yên bình” nên thơ. “ai” là đại từ nhân xưng mỏng manh, “nhớ ai” có nghĩa là nhớ tất cả, nhớ tất cả những người con Việt Nam đã hy sinh vì cách mạng và kháng chiến, họ đầy lòng thủy chung son sắt.

Bài thơ này chan chứa tình yêu. Nỗi nhớ mong bồi hồi dường như đã thấm sâu vào cảnh vật và lòng người, khi trở về người ta lại nghĩ đến ta và ta. Tình yêu ấy thật sâu đậm, thật nhiều chung thủy. Thời gian trôi đi, những bản tình ca da diết ấy sẽ mãi in sâu vào lòng người như một vết son đỏ.

Bài thơ mang vẻ đẹp tứ bình độc đáo, thấm đượm phong tục dân tộc. Mùa đông năm 1946, cuộc kháng chiến chống Pháp bắt đầu, mùa thu tháng 10 năm 1954, thủ đô Hà Nội được giải phóng, Tố Hề cũng bày tỏ nỗi nhớ Việt Nam qua bốn mùa đông xuân hè cái, theo dòng chảy của lịch sử. Mỗi mùa có một vẻ đẹp rực rỡ riêng: màu xanh của rừng, màu đỏ tươi của hoa chuối, màu trắng của hoa mai, màu vàng của rừng phách, màu trắng và xanh của hòa bình.

Thiên nhiên Việt Bắc trong thơ rất hữu tình và mang vẻ đẹp cổ điển. Người được nhắc đến không phải là người đánh cá, người ủi, người nấu canh hay con sâu bướm mà là người đi rẫy, người đan nón, người chị hái măng và người đàn ông hát về tình yêu chung thủy. Tất cả thể hiện những phẩm chất cao đẹp của con người Việt Nam: cần cù, làm chủ thiên nhiên và cuộc sống trong lao động, kiên nhẫn, thông minh, tài năng, lạc quan trẻ trung, yêu đời, nhân ái, trung thành với cách mạng và kháng chiến.

Giọng thơ ngọt ngào tha thiết đánh thức tâm hồn người đọc. “Việt Bắc” và nỗi nhớ được nhắc đến trong bài thơ này thể hiện một vẻ đẹp trong phong cách thơ: chất trữ tình thân dân và tính dân tộc, màu sắc cổ điển và hiện đại được kết hợp một cách nhuần nhuyễn. cách hài hòa.

Hình ảnh xinh đẹp, giàu có, gợi cảm. Một không gian nghệ thuật tràn đầy sức sống, đường nét, âm thanh, màu sắc, ánh sáng, kết cấu hài hòa đã để lại trong tâm hồn ta những ấn tượng sâu sắc, đúng như lời Bác đã viết: “Cảnh rừng đẹp quá…”

Thơ chân chính “là một hình ảnh, một hình ảnh con người… đánh thức từ hình ảnh hữu hình cái vô hình vĩ đại” (Nguyễn Tuân). Bài thơ này đã khơi dậy trong lòng chúng ta tình yêu đất nước Việt Nam, niềm tự hào về đất nước và con người Việt Nam. Bài thơ “đập mãi một tin nhắn” này cho ta yêu, nhớ đến tình Việt Nam, tình Kháng Chiến.

Khái quát về thơ ca Việt Nam

1. Sáng tác tại Việt Nam

Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ (7-5-1954), Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết, hòa bình lập lại, lịch sử đất nước sang trang mới, cách mạng bước sang một giai đoạn mới. .Tháng 10 năm 1954, các cơ quan Trung ương Đảng và Chính phủ sau khi rời Chiến khu Việt Bắc, nơi đã che chở, nuôi dưỡng cách mạng trong suốt những năm dài chống thực dân Pháp trở về Hà Nội.

Cuộc sống thay đổi với những bước ngoặt: từ chiến tranh đến hòa bình, từ núi rừng đến thành phố. Nơi ta đã từng sẻ chia vui buồn, người đã từng “cùng nhau chia vui sẻ buồn”, bao nhiêu yêu thương đã gắn bó với nhau. Người chết không khỏi thương tiếc, người ở lại không khỏi khắc khoải, trống vắng, xót xa…

Tháng 10 năm 1954, Đỗ Hữu, một cán bộ đảng viên, nhà thơ cách mạng lớn, đã viết bài thơ “Việt Bắc” trong sự kiện có ý nghĩa lịch sử mang tính thời đại ấy, vinh dự được tác giả đặt tên là tác phẩm “Việt Bắc” toàn tập. tên thường gọi.Đỉnh cao của thơ Tố Hữu cũng là một tác phẩm xuất sắc của nền thơ ca Việt Nam chống thực dân Pháp.

2. Nội dung và nghệ thuật thơ ca Việt Nam

A. nội dung

Việt Bắc là khúc ca hùng tráng, đồng thời cũng là khúc tình ca về cách mạng, về cuộc kháng chiến và về những người kháng chiến. Thể hiện tình cảm sâu nặng với đồng bào, đất nước với niềm tự hào dân tộc…

Việt Bắc là khúc hát ân tình của người cách mạng, của những người kháng chiến và của cả dân tộc qua giọng hát của nhà thơ. Hơn nữa, bài thơ mang âm hưởng sử thi vang dội, đưa ta trở về một thời kỳ lịch sử hào hùng và trọng đại.

Nghệ thuật

– Nghệ thuật thể hiện chất thơ đầy tính dân tộc:

Kế thừa nhiều ưu điểm của thể thơ lục bát truyền thống: tứ tuyệt trong bài thơ này là một thể thơ dân gian với hai nhân vật trữ tình là anh và em.

Nhịp điệu uyển chuyển, uyển chuyển, cân đối, hài hòa, dễ nhớ, ăn sâu vào lòng người.

Ngôn ngữ nói trong đời sống hàng ngày mộc mạc, giản dị, giàu hình ảnh.

Sử dụng khéo léo phép lặp văn học dân gian: Anh về em có nhớ không, có nhớ không…

– Thể hiện chất trữ tình chính trị sâu sắc tiêu biểu cho phong cách thơ chính luận.

Chính trị: đề tài kháng chiến chống Nhật, vận mệnh đất nước,…

Lyric: Là hình ảnh ẩn dụ cho tình cảm của cán bộ và quần chúng như cái tình, tự gọi mình là ta, một từ tình cảm.

Một số tác phẩm về tiếng Việt

1. Tình trạng sinh

Chiến thắng Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi, Hiệp định Giơ-ne-vơ về Đông Dương được ký kết vào tháng 7 năm 1954. Hòa bình lập lại, miền Bắc nước ta được giải phóng, sự nghiệp xây dựng cuộc sống mới bắt đầu. Lịch sử đất nước đã sang trang mới.

Tháng 10 năm 1954, các chiến sĩ kháng Nhật từ căn cứ miền núi trở về miền xuôi, Trung ương Đảng và chính phủ rời Chiến khu Việt Nam trở về thủ đô. Nhân sự kiện lịch sử đó, Toàn đã sáng tác bài thơ về Việt Bắc.

Bài thơ chia làm hai phần: phần một diễn tả những kỉ niệm cách mạng và kháng chiến chống Nhật cứu nước, phần hai gợi lại bộ mặt tươi sáng của đất nước và ca ngợi những thành tích của Đảng và Bác Hồ như một dân tộc.

2. Vị trí đoạn trích

Đoạn trích của tác phẩm, tái hiện ký ức về cách mạng và kháng chiến chống Nhật

3. Bố cục (2 phần)

Phần 1 (20 câu đầu): Lời nhắn nhủ của người ở lại với người ra đi

Phần Hai (Còn lại): Nhớ lời người ra đi

4. Giá trị nội dung

Việt Bắc là khúc ca hùng tráng, đồng thời cũng là khúc tình ca về cách mạng, về cuộc kháng chiến và về những người kháng chiến. Thể hiện tình cảm sâu nặng với đồng bào, đất nước với niềm tự hào dân tộc…

Việt Bắc là khúc hát ân tình của người cách mạng, của những người kháng chiến và của cả dân tộc qua giọng hát của nhà thơ. Hơn nữa, bài thơ mang âm hưởng sử thi vang dội, đưa ta trở về một thời kỳ lịch sử hào hùng và trọng đại.

5. Giá trị nghệ thuật

Vận dụng sáng tạo đại từ đối đáp “ta với hắn” trong ca dao để thể hiện tình cảm cách mạng.

Thơ ca Việt Bắc thể hiện đậm đà tính dân tộc: thể thơ lục bát truyền thống, ngôn ngữ bình dị, thân thuộc, gần gũi, mang đậm sắc thái phong tục dân gian.

Sử dụng lối nói ám chỉ, liệt kê, ẩn dụ, tượng trưng… và nhiều thủ pháp nghệ thuật tài hoa khác

6. Phân tích đoạn mở đầu và kết thúc bài thơ Việt Bắc

Mở mẫu phân tích tiếng Việt 1

Văn học Việt Nam có nhiều tác giả có đóng góp quan trọng. Mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau đều có những mốc son văn học khác nhau. Trong số đó phải kể đến tác giả Đỗ Bạn, một nhà thơ xuất sắc của văn học Việt Nam, với hình ảnh người lính anh hùng và tình cảm sâu nặng với đồng bào Việt Bắc, ông mang đến cho bạn đọc một góc nhìn quân sự rất trữ tình khác. Qua bài thơ “việt bắc” trong thời chiến.

Mở bài Phân tích bài thơ mẫu tiếng Việt 2

Năm tháng trôi qua, nhiều thứ đã trôi qua nhưng những giá trị vẫn còn nguyên vẹn và gây ấn tượng với thế hệ sau. Có thể thời đó đã có rất nhiều áng văn tiêu biểu nhưng chúng ta vẫn ấn tượng và yêu mến nhà thơ và hình ảnh người chiến sĩ nặng tình với đồng bào. người Việt Nam trong chiến tranh.

Kết thúc phân tích mô hình 1 ở miền Bắc Việt Nam

Làm người, trong lòng không có mảnh đất nào đáng nhớ thương. Bởi “lúc ta ở chỉ là chỗ ở – khi ta ra đi đất đã thành tâm hồn”. Có lẽ vì thế mà quê hương cách mạng Việt Bắc đã không ngần ngại chắp cánh cho tâm hồn nhà thơ viết nên bài thơ cùng tên mà ông vẫn đang cầm trong tay như một viên ngọc trai.

Hoàn thành bài phân tích mẫu việt bắc 2

Vì vậy, tác giả đã tái hiện thành công một sự kiện lịch sử có ý nghĩa trọng đại của dân tộc bằng giọng thơ đầy tình cảm chính trị trữ tình và tình cảm chân thành. Từ đó, ta thấy được sự khắc họa chân thực, sinh động về mối quan hệ giữa người chiến sĩ cách mạng với quần chúng nhân dân trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Đó chính là cơ sở để hình thành tình cảm cách mạng kiên trung, thủy chung trong những năm tháng “đạn lửa, đạn bay”. Đồng thời, thể hiện một trong những yếu tố làm nên chiến thắng oanh liệt của trận Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” của toàn dân chống ngoại xâm, bảo vệ quê hương, đất nước.

Trên đây vndoc đã tổng hợp các bài văn mẫu phân tích đoạn thơ trong bài ca dao Việt Bắc: “Em về có nhớ ta không…nhớ ai khúc ca thiết tha không nguôi” để các bạn tham khảo khi trả lời . Chắc qua bài viết bạn đọc đã nắm được ý chính của bài rồi phải không? Bài viết gửi tới bạn đọc dàn bài và bài văn mẫu. Hi vọng qua bài viết này bạn đọc có thêm tư liệu để học tốt hơn môn ngữ văn. Ngoài ra, các bạn có thể xem thêm phần Soạn văn 12 do vndoc soạn để học tốt ngữ văn lớp 12 hơn, biết cách soạn văn lớp 12, các bài học trong sách ngữ văn 1 và 2. Mời các em học sinh, quý thầy cô và các bậc phụ huynh cùng nghiên cứu.

Bài viết liên quan đến công việc:

  • Phân tích bài thơ Việt Nam của Tố Hữu
  • Chuẩn bị vào lớp 12: Tiếng Việt
  • Viết bài: việt bắc

Nguồn: https://anhvufood.vn
Danh mục: Giáo Dục

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *