Chữ viết và Văn học Ấn Độ cổ đại

Chữ viết và Văn học Ấn Độ cổ đại

Chữ viết ấn độ cổ đại

Chữ viết cổ Ấn Độ

Chữ khắc cổ nhất của Ấn Độ, được khắc trên một con dấu, được tìm thấy ở Lưu vực sông Ấn, có niên đại hơn 2000 năm trước Công nguyên. Từ này đã biến mất cùng với nền văn hóa Indus, không ai sử dụng nó nữa và không ai phát âm nó nữa.

Bạn Đang Xem: Chữ viết và Văn học Ấn Độ cổ đại

Các dân tộc bản địa và các bộ lạc Ấn-Âu có nguồn gốc từ giữa thiên niên kỷ thứ hai trước Công nguyên, không có chữ viết trong một thời gian dài.

Khoảng 800 năm trước Công nguyên, chữ khắc trên đồ vật bắt đầu xuất hiện. Sớm nhất là từ kharosthi, bắt nguồn từ các từ tiếng Aramaic Tây được nói ở Iran và tây bắc Ấn Độ. Ở Bán đảo Ấn Độ, brami được sử dụng rộng rãi hơn, có nguồn gốc Semitic nhưng cũng có nguồn gốc Tây Á.

Không lâu sau, vào khoảng thế kỷ thứ 7 trước Công nguyên, người ta đã chuyển đổi từ những chữ viết này sang bảng chữ cái tiếng Phạn để ghi lại các ngôn ngữ Ấn-Âu: Sanskrit, (Sanskrit)) ra đời.

Cá nhân

Xem Thêm: Soạn bài Tuyên bố thế giới về sự sống còn, quyền được bảo vệ và phát triển của trẻ em

Cá nhân

Từ sử thi Ramayana ghi bằng tiếng Phạn, được nhà văn Tulsidas (thế kỷ 16) chuyển thể sang tiếng Hindi với nhan đề ramcaritmanas (Thánh thần của các hành động của Rama), được trích dẫn ở trên từ đó.

Xem Thêm : Từ chỉ đặc điểm là gì? Ví dụ về từ chỉ đặc điểm

Tuy nhiên, ở miền bắc Ấn Độ, đặc biệt là Magadha, người dân ngày càng quen với việc nói một ngôn ngữ Ấn-Âu đã được sửa đổi và biến đổi thành một phương ngữ (prâkrita: phương ngữ). Khi Đức Phật thuyết pháp, Ngài dùng tự tánh này để nói cho mọi người hiểu, rồi người ta sửa đổi và tạo ra một hệ thống chữ cái để ghi lại tự tánh này. Đây là pali.

So với tiếng Phạn, tiếng Pali có âm tiết, biến tố, cú pháp và cách viết đơn giản hơn. Chẳng hạn như kostha (skr): kottha (pali): nhà kho; Suvarna (skr): vàng Suvarna (pali);dharma (skr): dhamma (pali): Pháp. Tiếng Pali được dùng để viết kinh Phật, nhưng cũng vì thế mà nó có ít chữ viết hơn, kém cải tiến hơn và kém phát triển hơn tiếng Phạn.

Kharosthi và brami đã được sử dụng trong nhiều thế kỷ, đặc biệt là trong bối cảnh giao tiếp và thương mại. Ashoka dựng nhiều cột đá ghi lại chiến tích của mình, rải rác trên hầu hết bán đảo Ấn Độ. Các trụ cột được khắc bằng chữ viết thường được sử dụng trong vùng: ở phía tây bắc, kharosthi, và trên khắp Hindu Kush cũng được khắc bằng tiếng Hy Lạp, nhưng ở miền bắc và miền nam Ấn Độ, brami. Nhiều con dấu và đồ trang sức có khắc chữ brami đã được tìm thấy ở Ấn Độ và nước ngoài. Việc giải mã chữ viết brami của j.prinsep (1837) đã giúp đọc được cột asoca và nhiều chữ khắc riêng lẻ được đề cập ở trên. Tuy nhiên, chữ viết kharosthi và brami không có cơ hội phát triển vì chúng không phải là ngôn ngữ và chữ viết bản địa của Ấn Độ.

Như vậy, từ thế kỷ thứ 5 trước Công nguyên đến khoảng thế kỷ thứ 10 sau Công nguyên, tiếng Phạn còn lại và tiếng Phạn đã trở thành ngôn ngữ chung chính thức của Ấn Độ và sau đó đóng vai trò là cầu nối giữa tiếng Phạn và các ngôn ngữ khác. Các quốc gia hiện đại (tiếng Hindi, tiếng Bengal, tiếng Marathi, tiếng Punjabi…).

Văn học Ấn Độ cổ đại

Xem Thêm: Soạn bài Câu ghép (tiếp theo) | Soạn văn 8 hay nhất – VietJack.com

Tài liệu sớm nhất được ghi lại là rig veda, gồm 108 bài thánh ca, vào khoảng thế kỷ thứ 7 trước Công nguyên, tiếp theo là các bộ Veda khác (samaveda, yajurveda, arthasaveda). upanishad (“ngồi dưới chân”) Triết học Bà la môn, 108 đoạn, viết vào thế kỷ trước Công nguyên.

Học giả Panini đã viết asthadhyayi (8 chương) vào thế kỷ thứ 5 trước Công nguyên. Chính công việc chỉnh lý ngữ pháp và Phạn ngữ đã hoàn thiện và mở đường cho Phạn ngữ phát triển. .

Kautalya đã viết arthasastra (diễn ngôn về nghĩa vụ hoặc chính trị) vào thế kỷ thứ 4 trước Công nguyên. Đây cũng có thể là thời điểm mà các purana (âm thanh) sastra (lời nói), kinh (quy tắc) xuất hiện.

Như đã trình bày ở bài viết trước, nguồn gốc và sự kiện được thuật lại trong sử thi Mahabharata và Ramayana diễn ra vào đầu thiên niên kỷ thứ nhất trước Công nguyên. Bắt đầu được ghi chép muộn.

Xem Thêm : Giải bài 1,2,3, 4,5,6 ,7 trang 101 Hóa học 9: Sơ lược về bảng tuần

Vài thế kỷ sau Công nguyên là thời kỳ phát triển vượt bậc của văn học tiếng Phạn. bhagavad-gite (Thần khúc) xuất hiện vào lúc này. Manufa có nguồn gốc từ thế kỷ thứ 2 trước Công nguyên nhưng được hoàn thành vào thế kỷ thứ 2 sau Công nguyên, pháp narada ra đời vào thế kỷ thứ 3 sau Công nguyên, brihaspati ra đời vào thế kỷ thứ 4 trước Công nguyên, v.v…

Xem Thêm: 13 danh lam thắng cảnh nổi tiếng ở Hà Nội

Văn học Phạn ngữ được trau chuốt, mài dũa, sử dụng rộng rãi trong các văn bản, tài liệu chính thức ở Thung lũng sông Hằng, và bắt đầu truyền bá sang các quốc gia phía Tây và phía Nam của bán đảo. Ấn Độ.

Điều này cho thấy các thế kỷ kế tiếp sau Công nguyên không phải là thời kỳ sụp đổ và sụp đổ, mà là thời kỳ thịnh vượng về văn hóa và phát triển sâu rộng của toàn bộ bán đảo.

p>

Với sự phát triển rộng rãi của arthasastra trong những thế kỷ trước trước Công nguyên, sự phổ biến của luật manu và narada vào đầu Công nguyên, và sự phổ biến rộng rãi của tiếng Phạn trong văn học Bắc và Nam Ấn Độ, nó đã thống trị đời sống văn hóa và xã hội.

Mối quan hệ và ảnh hưởng của Ấn Độ với thế giới bên ngoài, đặc biệt là với Đông Nam Á, có thể bắt nguồn từ thế kỷ thứ nhất sau Công nguyên, bắt nguồn từ miền bắc Ấn Độ. Phía bắc có một quá trình phát triển lâu dài và đầy sóng gió nên có thể có những nhóm người (champa, kamboja, kalinga…) đã sớm ra đi tìm vùng đất mới để sinh sống.

Với sự tiếp thu và phát triển của văn hóa Ấn Độ giáo, sự hình thành tộc người ở Nam Bộ chậm hơn so với thế kỷ II – III. Nhưng chính miền Nam, với sự trù phú ban đầu và điều kiện tự nhiên thuận lợi, đã tạo điều kiện thuận lợi cho quan hệ với thế giới bên ngoài. Như vậy, quan hệ giữa Đông Nam Á và miền nam Ấn Độ đã bắt đầu từ thế kỷ thứ ba và thứ tư, nhưng đã thường xuyên hơn. Phần lớn dấu vết của văn hóa Ấn Độ ở các nước Đông Nam Á đều bắt nguồn từ miền nam Ấn Độ, có thể nói là từ thế kỷ thứ 4 sau Công nguyên.

Lịch sử thế giới cổ đại – Nhà xuất bản giáo dục,

Nguồn: https://anhvufood.vn
Danh mục: Giáo Dục