Kinh đô Phú Xuân | Cổ vật Việt Nam

Kinh đô Phú Xuân | Cổ vật Việt Nam

Phú xuân ở đâu

ln_100

Bạn Đang Xem: Kinh đô Phú Xuân | Cổ vật Việt Nam

Triệu phú

Kinh đô Phú Xuân được thành lập ngay sau khi vua Gia Long đánh bại nhà Tây Sơn khỏi Phú Xuân, thống nhất sơn hà và lên ngôi.

Trước khi xưng đế, vua Gia Long đã cho khởi công xây dựng kinh thành vào tháng 4 năm Nhâm Dần (1802). Hai năm sau, trong khi hoàng thành đang được xây dựng, nhà vua đã ra lệnh xây dựng cung điện (tức là Tử Cấm Thành). Tròn một năm sau (1804), nhà vua cho khởi công xây dựng lâu đài (còn gọi là dinh thự hay dinh thự).

Bất kể những gì được xây dựng trong mỗi thành phố, nếu bạn so sánh ba thành phố (Lâu đài, Thành phố Hoàng gia và Thành phố Hoàng gia) với nhau, mọi người sẽ thấy ngay rằng thành phố thứ ba đáng giá. chú ý.

Thật ra, công trình kiến ​​trúc vĩ đại nhất của vua Gia Long và của cả triều Nguyễn chính là kinh đô Phú Xuân. Có thể nói đây là truyện cổ tích lớn nhất Việt Nam hiện đại.

*** Kinh đô kiến ​​trúc Vauban. Nếu tính cả pháo đài phụ tên là Thị trấn Pingdai (sau này gọi là Thành phố Jier), thì thủ đô Fuchun có bán kính gần 11 km. Tường thành cao 6,60 mét và dày trung bình 21 mét. Chính vì quy mô và sự kiên cố của nó mà Kinh thành Huế vẫn tồn tại cho đến ngày nay.

Sự vĩ đại và ổn định của công trình này đòi hỏi rất nhiều nguồn lực của nhà nước đương thời, cả công và tài sản. Bản thân Hoàng đế Gia Long cũng đã thẳng thắn tuyên bố vào đầu lệnh cấm tháng 3 năm Kỷ Mão (1819): “Việc xây thành là việc trọng đại, cần nhiều công lao”.

Phần lớn nhân lực và năng lực xây dựng của nước ta lúc bấy giờ đều được sử dụng cho công trình này. Trước khi vua Jialong xây dựng thành phố mới, có một thành phố cổ ở Fuchun do Lãnh chúa cũ để lại, và sau đó thành phố Tây Sơn được xây dựng. Nhưng thấy thành phố cũ quá nhỏ, nhà vua đã nghiên cứu khu vực này để mở rộng phạm vi của các tòa nhà mới.

Năm 1916, Wu Lian đã sử dụng Danan Shilu Zhengping làm cơ sở trong “Du Shun He Jing”, Chen Xingwang đã kiểm tra nhiều nơi từ làng Jinlong đến Qinghe (nay là Baorong) và đích thân đặt ra các tiêu chuẩn và kích thước cần thiết cho việc xây dựng bức tường thành phố.

Vua Gia Long đã chặn hoặc lấp một phần đường của hai nhánh sông Kim Long và sông Dung Giang, nhà vua cũng sử dụng một phần đường của hai nhánh này để đào một con kênh bên ngoài thành phố, lần lượt đi vào. .Cả hai con sông đều được đào ở kinh đô Phù Thuần (1805), nhưng sau khi Minh Mạng mất, vua đặt cho hai con tên đẹp và đúng là ngữ hà và hộ thanh hà.

Thành lập năm 1805, kinh phủ phú xuân chiếm địa phận của 8 làng: phú xuân, văn xuân, điện phả, an văn, hòa bình, an mỹ, then, an bửu. Làng Phú Xuân mất đất nhiều nhất nên vua ban bạc đền bù, cộng thêm đất quanh Huế, cả Quảng Trị, Quảng Bình. Vào tháng 3 năm 1804, nhà vua đã kiểm tra địa hình từ làng Jinlong đến Qinghe, xây dựng một tòa nhà giống như lâu đài, sau đó cử binh lính từ thủ đô và người dân từ các tỉnh khác đến làm việc. Ngoài những vật phẩm thu thập được tại và gần công trường, cần phải vận chuyển một số lượng lớn đá từ Thanh Hóa.

Trung tá ardant du picq, với bài viết “les công sự thành trì hué” trong bản tin des amis du vieux hue (bavh) số xi năm 1924, đã đặt câu hỏi ai đã thiết kế biểu đồ? Có lẽ Đại tá Olivier de Puymanel, một trong những cộng sự châu Âu của Vua Giaron. Tuy nhiên, vị quan này qua đời vào năm 1799, và việc xây dựng kinh đô Fuxuan mãi đến năm 1805 mới bắt đầu. Vì vậy, việc xây dựng có thể được thực hiện theo bản vẽ trước đây của Olivier, mà vua Jialong đã rút ngắn để phù hợp với địa hình.

Cosserat đã viết trong bài báo “la Citadelle de hue: cartographie” đăng trên bavh no.xx năm 1933: “…đây là công trình xây dựng kinh đô Phú Xuân, và nhiều thành phố khác của đất nước sau đó, có không còn nghi ngờ gì nữa. Không còn nghi ngờ gì nữa, tất cả đều do người Annan chuẩn bị, và nói chung, tất cả đều được thực hiện dưới sự kiểm soát, giám sát và hướng dẫn của chính họ.”

Xem Thêm: Bí ẩn hõm Venus quyến rũ chứng tỏ khả năng phòng the-nữ có thì

*** Vua Gia Long không chọn xa Phú Xuân để đóng đô, từ năm 1687 các chúa Nguyễn đã cho đóng dinh ở đây. Vị trí này thực ra hoàn toàn phù hợp với các điều kiện an ninh cần thiết để xây dựng kinh đô, bởi vì phải có nơi ẩn náu trong trường hợp nguy hiểm gần núi, và nó phải cách xa bờ biển để tránh bị cướp biển quấy rối và hành động của tàu chiến nước ngoài. Mặt khác, tàu biển có thể tiếp cận Phú Xuân nên về mặt thương mại, Phú Xuân có mọi lợi thế của một cảng sông, không gặp trở ngại quân sự hay chính trị.

Mặt chính của kinh đô Fuxuan phải hướng về phía nam, đó là hướng truyền thống và trục của cung điện phải theo hướng thuận lợi cho khu vực địa lý. Trục hướng Tây Bắc – Đông Nam, là hướng đắc địa nhất, vì là hướng núi Ngự Binh cao 104m, cách sông Hương 3km về phía Nam, làm cho cổng chính được che chở như một tấm bình phong khỏi mọi tác hại và vô hình. quyền hạn. Bấy giờ, trên các đảo thượng và hạ lưu sông Hương, cồn hến và xương hoang được tôn trí trước kinh đô Phù Tuyên là “Long, Quyền, Bạch Hổ”, vua ngồi trên ngai nhìn về hướng Nam, vì thế vị trí rất thuận tiện.

Theo ghi chép của Danan Shilu Zhengbian, việc xây dựng Kinh đô Fuchun bắt đầu vào ngày 18 tháng 5 năm 1805. …quý ngày dựng đô…đem hải quân đi làm giữa quân dân thủ đô Thạnh Ngãi, Bắc Cầu, Quảng Đức, Quảng Trị, Quảng Bình, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bính Đinh Thìn . “

Theo nội dung của tờ truyền đơn trong Danh mục triều Nguyễn ghi rõ số người xin về Bắc Kinh làm quan và số cấm quân. Quảng Đức (thừa thiên) và các dinh khác: 4.421 lính; cai quản: 4.151; trung bình sau công nguyên: 2.388; Quảng Nam: 7.495; Bình Định: 2.225; và thị trấn Qui Nhơn: 2.436. Tổng số: 23.116. Ngoài ra, có bảy tờ rơi yêu cầu các “quan chức” của cung điện, lính canh, biệt đội và dinh quân sự “ở lại thủ đô cho đến ngày 20 tháng 4 và tham gia bắt đầu công việc”, một số có thể thay đổi từ năm đến năm. đến bảy ngàn người. Do đó, số lượng công dân trong thành phố vượt quá 30.000 người, chưa kể thợ mộc, thợ mộc, thợ đúc, chạm khắc và các chuyên gia khác làm việc trong lâu đài.Dự án này đã được tiến hành trong ba năm. Vài năm trước (1802) và Tử Cấm Thành (1804).

Tuy nhiên, số lượng công dân thay đổi theo thời kỳ. Năm 1818, thương gia người Pháp Anguste Borel có dịp đến thăm Huế đã ghi lại cho chúng ta trong cuốn “Việt Nam cận đại” rằng số công dân lao động lúc bấy giờ lên tới 80.000 người, ông viết: “Khi chúng tôi đến Huế lúc lúc đó, 80.000 người đang bận rộn xây một bức tường gạch đồ sộ.”

Xem Thêm : Vận chuyển hàng lẻ Xiamen (Hạ Môn) – Việt Nam – Thamico

Trong lần xây dựng đầu tiên vào mùa hè năm 1805, quân dân được huy động để chặn sông, đào hào, bước đầu xây dựng đồn đất.

***

Trong quá trình xây dựng kinh đô, hoàng thành, cung điện, đền chùa, miếu mạo, cung điện, ngoại đường, lăng tẩm và các công trình kiến ​​trúc khác, nhân dân và binh lính đã phải lao động vất vả. Về vấn đề này có hai giả thuyết, một là chính sử nhà Nguyễn, hai là những người phương Tây có dịp sang nước ta thời bấy giờ.

Theo ghi chép của Danan Shilu Zhengbian, triều đình ghi lại rằng triều đình đã ban thưởng hậu hĩnh cho người dân. Khi mới thành lập kinh đô Phục Tuyên, sau khi binh lính và dân thường trong cung tập trung về kinh đô, nhà vua ban cho mọi người “tiền gạo ưu tiên”. Vì vậy, “nhà vua thấy công việc vất vả, muốn giảm bớt sự mệt nhọc cho dân chúng, bèn hạ lệnh ngày nào cũng làm việc từ sáng đến trưa, phải nghỉ ngơi. Đến chiều gà về, người bệnh nên nghỉ ngơi. thuốc chữa bệnh.”

Lâu đài lúc đầu chỉ là đất đắp nên từ tháng 4 đến tháng 8 thì hoàn thành. Năm 1807, ông tiếp tục làm quan cho đến cuối triều Gia Long. Sau 4 tháng đầu, vua Gia Long “bắt binh làm việc, về quê nghỉ ngơi, cấp lương ngày đi đường…”

Nhìn chung, có thể thấy các thành viên trong gia đình quyền quý rất quan tâm đến đời sống của thị dân từ giờ giấc làm việc đến ăn uống. Tuy nhiên, ở một góc độ khác, theo quan điểm của người nước ngoài, vấn đề dường như có phần đảo ngược.

Năm 1818, Auguste Borel, thuyền trưởng thương thuyền la paix, sống ở Huế 4 tháng và có dịp chứng kiến ​​mọi hoạt động ở đây, đặc biệt là những tòa nhà gạch bên ngoài kinh thành Phú Xuân, ông cho biết:

“Nông nghiệp bị lãng quên, phần vì khí hậu oi bức khiến con người lười biếng, nhưng chủ yếu là do nhà vua dùng gần hết sức dân để xây tường thành và các công trình khác (dĩ nhiên là miễn phí). Khi chúng tôi đến Huế, 80.000 Mọi người đang bận rộn xây một bức tường gạch khổng lồ.

“Nhiều công nhân đang luyện kim để đốt pháo. Nhà vua cho rằng cực khổ có thể giữ được dân và thích hợp với sự chuyên chế. Chính nhờ sự chuyên chế này mà nhà vua mới có thể ngồi trên ngai vàng. Vì vậy, nhà vua bòn rút tất cả những gì lẽ ra có thể được sử dụng để tạo ra các nguồn lực cho sự thịnh vượng của đất nước và ngăn cản bất kỳ tiến bộ nào thông qua nông nghiệp.Khi Chaigneau và Vannier khuyến khích Chiaron phát triển thương mại để mang lại sự giàu có cho đất nước, nhà vua trả lời: “Nếu người dân giàu có, họ sẽ trở nên khó vâng lời. “”

Xem Thêm: Những điều ít biết về Tân Cương, vùng đất giàu tài nguyên và lắm

Paul Leinart, một chính trị gia đã sống lâu năm ở đất nước tôi, nhận xét về con người của xã hội Việt Nam thế kỷ 19 trong bức thư gửi Thống đốc Nam Kỳ người Pháp:

“Người Việt đối với triều đình như bầy súc vật. Triều đình là chủ, triều đình tùy ý sử dụng. Triều đình không cần xét đến gia súc thịnh vượng hay không, là đủ để biết là phục tùng… Đối với dân, triều đình chỉ có quyền, nghĩa vụ, còn dân chỉ có nghĩa vụ.”

Một nhân chứng khác, Giám mục Eyot, trong một lá thư viết hồi tháng 7, đã xúc động khi tận mắt chứng kiến ​​sự bóc lột sức lao động quá mức của triều đình nhà Nguyễn khi họ bắt dân chúng phải chịu biết bao gian khổ để xây dựng công trình được xây dựng từ năm 1804 trong cùng năm là Thành phố Đế quốc, Giám mục Eyotte đã viết:

“Thuế cao. Nhà vua muốn xây dựng rất nhiều cho thành phố mới, vì vậy người dân phải khổ sở vì dịch bệnh…lâu đài hoàng gia hiện đang được xây dựng…vì dân số rất đông và không ai có thể rời khỏi văn phòng, vì vậy mùi không thể chịu nổi, nhiều người phải ngâm mình trong nước và bùn, không ai có thể chịu đựng được lâu, những người khác phải thay phiên nhau, công dân cũng bị đánh bằng gậy, vì vậy đôi khi phải thuê người khác làm, dân kêu mà chính quyền không thèm nghe.”

Mặc dù lương tháng của mỗi công dân là 1 franc và 5 nhân dân tệ, nhưng có người dám bỏ ra 1 franc để thuê người làm việc cho mình trong một ngày. Kinh đô sau khi thành lập đã là như vậy, càng không nói đến việc thành lập kinh đô ở Phúc Huyền, đây là một công trình khổng lồ, đã khởi động cả trăm lần.

***

Năm 1818, hai mặt phía nam và phía tây của thành mới được xây bằng gạch, phía bắc do các quan hoàng lý, trưởng phúc đăng, nguyễn đức dực phụ trách, đến năm sau thì hoàn thành. Năm 1820, mưa lớn đã cuốn trôi 1200 mét và phải sửa chữa. Năm 1821, công việc tiếp tục và việc lát gạch được thực hiện ở phía đông.

Năm 1822 lại gặp mưa làm hư hỏng 8.228m phải giao cho Trần Văn Năng và Nguyễn Văn Vân sửa chữa. Hoàn thành một lần nữa sau năm 1824.

***

Kinh đô phú xuân được xây dựng trong 27 năm (1805-1832) dưới hai đời vua Gia Long và vua Minh. Thành có chu vi 9949 thước, cao hơn 6 thước, dày 20 thước, giữa bằng đất, trong ngoài bằng gạch. Ngoại vi có hào rộng 22,8m, sâu 4m. Giữa hào và tường thành có một con hào rộng 10m. Cách hào này khoảng 250m còn có một hệ thống kênh gọi là hà thanh hà, thông với sông Hương, phân bố theo ba mặt tây, bắc và đông, dài 7 km, rộng 35 m. như bề mặt bên ngoài của vòng bảo vệ. hết thủ đô.

Xem Thêm : Chợ Bắc Hà thuộc tỉnh nào?

Nhô ra ở góc đông bắc của thủ đô, một tiểu thành gọi là thái binh đài được xây dựng. Năm 1836, nó được đổi tên thành Thị trấn Pindai, và sau đó được gọi là Thị trấn Jill. Chu vi của pháo đài là 986 mét, và con hào bên ngoài được kết nối với con hào thủ đô. Thành binh đại được xây dựng để bảo vệ an toàn cho bảo vinh, một thị trấn quan trọng lúc bấy giờ, thuyền bè ra vào tấp nập, đồng thời bảo vệ hai nhánh của hạ lưu sông Hương.

Kinh đô Fuchun có 10 cổng chính, mỗi cổng có 3 tầng và cao khoảng 16 mét. Tất cả được xây dựng vào năm 1809. Thập cổng bao gồm: cổng phía bắc hay cổng sau, phía tây gọi là mirador i; cổng phía tây bắc hay cổng hòa bình gọi là mirador ii; phía tây là cổng chính; cổng phía tây nam là cổng bên phải; cổng (Khi kinh đô thất thủ lúc 7 giờ 30 phút ngày 23 tháng 5 năm Đinh Dậu, vua ham nghi và hai vị đại thần chạy ra khỏi cổng này, đi dọc bờ sông vào điện tế rồi hò reo chữa bệnh) còn gọi Cửa này là cửa sập, đã bị lũ phá hủy nay được xây dựng lại, cửa nhân nghĩa là trạm kiểm soát (nhà vua thường đi qua cửa này trên đường từ kinh thành ra sông Hương, có hai bên có tường cao để chắn); cửa đông nam còn gọi là tứ môn thượng; cửa đông hay đông tam quan, lấy tên làng phía trước; cửa đông bắc còn gọi là cửa trai, còn gọi là cửa trai. như cổng mirador x.

Năm 1824, các gian hàng chủ yếu được xây dựng ở Cổng Đông và Cổng Đông Bắc, và vào năm 1829 ở Cổng Tây, Cổng Tây Nam, Cổng Nam, Cổng Quảng Đức và Cổng Đông Nam. Năm 1831 cửa vọng lâu được xây dựng trên hai cái còn lại. Bắc và Tây Bắc.

Ngoài 10 cổng thành dẫn ra ngoại thành còn có một cổng thành nối liền với trấn Bình Đại gọi là trấn Bình Môn, cổng thành này không có đình chỉ cao khoảng 5m. Phía nam trấn binh đại có một cửa thông ra ngoài, gọi là cửa dinh trường, còn gọi là cửa kiệt, không có đình, không cao quá.

Xem Thêm: Cách kiểm tra Sổ đỏ thật giả tránh tiền mất, tật mang – LuatVietnam

Có một cột cờ ở phía nam của trung tâm thủ đô, được gọi là cột cờ, được xây dựng bằng gạch vào năm 1809. Tháp có 3 tầng, tầng dưới cao 5,6m, tầng giữa cao 5,8m, tầng trên cao 6m. Tầng trên và tầng giữa có cột cờ cao 29,52m, chia làm 2 tầng. Trụ cột nhiều lần bị gãy đổ do mưa gió, chiến tranh, đến năm 1947 được xây dựng lại bằng bê tông cốt thép, có 3 tầng, cao 37m. Có 8 phòng súng và 2 tiền đồn trên đài. Ngày xưa mỗi lần duyệt binh đều treo cờ ở đây. Thông thường, một số quan chức coi việc leo núi và quan sát biển bằng ống thiên thể.

Có 24 pháo đài được xây dựng xung quanh thủ đô, với các khẩu súng thần công để phòng thủ, chúng được xây dựng vào năm 1818 và được đặt tên bởi Jialong với các chữ cái đầu của phương vị. Ở phía nam là ga Nanming, ga Nanyingxiong, ga Nantang, ga Nanzhu, ga Nangu và ga Nankang. Ở phía đông là Tongtai, Tongchang, Tongjia, Tongfu, Tongrong và Tongping. Tây có tay thanh, tay tu, tay tinh, tay đức, tay an, tay trinh. Phía bắc có Bắc Đình, Bắc Hà, Bắc Khánh, Bắc Trung, Bắc Thuận, Bắc Yên.

Tại mỗi nhà ga có một hầm chứa bột, được xây dựng trên phần nhô ra của tường thành và được bảo vệ bằng đất. Ngoại trừ hai trạm ở phía đông, tây và bắc của cửa chính Quan Thành, mỗi trạm có hai nhà kho. Có nhiều lỗ xung quanh các bức tường nơi có thể đặt đại bác. Ba cho hai bên sườn và năm cho mỗi bên của mỗi pháo đài hoặc đài quan sát. Bên ngoài thành có lính canh, mỗi vệ có 10 tiểu đội, mỗi tiểu đội có 50 binh sĩ.

Ngoài ra, một số công trình có quan hệ mật thiết và liên quan đến kinh đô Fuchun được xây dựng liên tiếp trong và ngoài thành phố như: Tòa nhà Fuwen (1819), Guoshoujian (1821), 1908, quoc su quan (1821), lầu tự thọ (1825), lục bộ (1827), tôn nhan phủ (1832), quan tư đại (1836), mật viện tam tòa (1832), nghênh lương dinh và thương viện bạc (1875), bảo tàng (1923) )…

***

Vào thời nhà Minh, nội thành không có cư dân, giữa kinh thành và các hộ thành, thậm chí là ngoại thành. Đến thời vua Đế, những ngôi nhà mới mọc lên dần dần, lúc đầu là nhà ở của các quan trong triều, sau đó là nhà ở của họ hàng, người quen, đồng hương… rồi trở thành làng nhỏ, chợ búa chứ không còn hệ thống làng xã vào thế kỷ 19. giữa thế kỷ.

Trung tá ardant du picq mô tả nội thành như sau: “Lâu đài nằm ở thủ đô, được bao quanh bởi hào và tường cao. Bao quanh là một thành phố bản địa thực sự, với sáu phòng ban, nơi ở của các quan lại triều đình, thương nhân địa phương hoặc các cửa hàng công nghệ nhỏ . Nhà cửa, trường học, vườn tược, chùa chiền…”

John Crawfurd, một du khách người Anh được phép đến thăm thủ đô Fuchun vào năm 1822, mô tả: “Có nhiều con đường rộng và đều đặn trong thành phố, giao nhau ở các góc vuông… điều đầu tiên gây ra Nội thành mà chúng ta quan tâm là những kho thóc của hoàng gia. Chúng tạo thành một dãy nhà lớn đều đặn chứa đầy gạo, mà chúng ta được biết có thể nuôi sống toàn bộ thủ đô trong nhiều năm. Việc tích trữ ngũ cốc này có tác dụng duy trì chính sách chuyên chế của triều đình. triều đình… …các đấu trường quân sự ở đây là lựa chọn tốt nhất. Về mặt trật tự và sạch sẽ, những đơn vị đồn trú này tỏ ra không kém gì những đội quân được tổ chức tốt nhất ở châu Âu. Chúng trải rộng và bao phủ toàn bộ vùng ngoại ô của thủ đô. Nó nghe nói quân đội thường trực của doanh trại kinh thành Thường có từ 12.000 đến 13.000 người.”

Khi thuyền trưởng Henry Le Rey, người đến Huế năm 1819, phê bình kiến ​​trúc của kinh đô Phú Xuân, ông nói: “Kinh đô Phú Xuân chắc chắn là lâu đài đẹp nhất và được tổ chức tốt nhất ở Đông Dương. Cả hai kinh thành đều do anh ấy xây dựng. Anh trai của William là William tại Calcutta và tại St George’s, Madras.”

Du khách người Anh John Crawfurd, người được phép vào kinh đô Phú Xuân năm 1822, đã về nước và viết sách ca ngợi công lao của nó, kết luận: “Không cần phải nói, một đồn như thế này thì người châu Á cũng không thể địch nổi. Đừng làm bất cứ điều gì để đánh bại nó. Hạn chế lớn nhất của nó là nó rất lớn. Tôi nghĩ rằng ít nhất sẽ cần một đội quân 50.000 người để bảo vệ.”

Thật không may, thành trì này đã thất thủ ít nhất hai lần và trong thời gian nhanh nhất. Lần thứ nhất vào ngày 5-7-1887, ngày này được nhân dân Huế gọi là ngày Kinh đô thất thủ, hàng trăm người dân vô tội bị chết oan, nay nhân dân Huế tổ chức tế lễ hàng năm rất long trọng tại ngã tư am cô hồn. , Bên trong cổng Dongba. Lần thứ hai, trong kỳ nghỉ Tết Nguyên Đán năm 1968, thành phố chết trong một buổi sáng. Đó là một dấu hỏi lớn về chiến thuật và chiến lược của nó.

Sau khi định đô Phú Xuân năm 1805, diện mạo Huế có nhiều thay đổi. Một số làng bị xóa sổ, chỉ còn tên trong sử sách. Xưa có một số con sông chảy qua Huế, nay chỉ còn lại rất ít. Ngày nay nghĩ lại, không ai có thể hình dung một sự thay đổi lớn lao như vậy ở Huế, ít ai nghĩ đến việc lấp sông, đào mương, rạch mà hầu hết đều được xây dựng trên đất hiện hữu.

Chỉ riêng Phúc Tuyên ở kinh thành thôi cũng đủ khiến người ta khâm phục tài kiến ​​trúc của tiền nhân. Công trình kiến ​​trúc kỳ công này không chỉ của một vị vua, một dòng họ hay một triều đại mà còn của hàng vạn người dân Việt Nam thời bấy giờ. Mồ hôi nước mắt của mọi tầng lớp xã hội trong một thời đại, đôi khi là cả những hy sinh xương máu đã làm nên những kỳ tích, kỳ tích cho đất nước.

Tài liệu tham khảo:

– Bulletin des amis du vieux hue, bản tiếng Pháp và tiếng Việt, nhà xuất bản Thun Hoa. – Huế, cố đô của Thái sư Phạm Kiên. – Niên Giám Việt Nam Học, 1973. – Đời sống văn hóa cung đình – Lê Nguyên Lưu. – huế đẹp thơ mộng – thi long. – Kiến Trúc Cố Đô Huế – phan thuận an.

Nguồn: https://nghiencuulichsu.com/2015/09/26/cong-cuoc-xay-dung-king-thanh-hue/

Nguồn: https://anhvufood.vn
Danh mục: Giải Đáp Cuộc Sống