Văn mẫu lớp 9: Phân tích hình ảnh người bà trong bài thơ Bếp lửa

Văn mẫu lớp 9: Phân tích hình ảnh người bà trong bài thơ Bếp lửa

Hình ảnh người bà

14 bài văn phân tích hình tượng người bà trong bài thơ Bếp lửa siêu ngoan có dàn ý chi tiết. Nhằm giúp các em học sinh lớp 9 cảm nhận sâu sắc sự vất vả của cô và tình yêu thương vô hạn dành cho các em.

Bạn Đang Xem: Văn mẫu lớp 9: Phân tích hình ảnh người bà trong bài thơ Bếp lửa

Hình ảnh người bà gợi cho ta tình mẫu tử thiêng liêng và vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam. Bằng cách này, chúng ta nên trân trọng tình cảm gia đình hơn nữa. Kính mời các em chú ý theo dõi bài viết và học tập tốt hơn trong Văn 9:

Phân tích hình ảnh người bà trong bài thơ Bếp lửa

Dàn ý phân tích hình ảnh người bà trong bài thơ Bếp lửa

I. Lễ khai trương

  • Giới thiệu tác giả Việt Nam và thơ bên bếp lửa
  • Tóm tắt giới thiệu nội dung và nghệ thuật của tác phẩm: Đoạn thơ gợi những kỉ niệm sâu sắc về tuổi thơ, về tình mẫu tử thiêng liêng, cảm động
  • Hình ảnh người bà nhân hậu, nhân hậu, hy sinh hiện lên thật giản dị, nhân hậu và ấm áp
  • Hai. Nội dung bài đăng

    – Hình ảnh bếp lửa nơi xứ lạ gợi lên trong cô nỗi nhớ da diết, nỗi nhớ quê hương

    – Tôi nhớ ngoại, nhớ tuổi thơ những dòng thơ được lấy cảm hứng từ hình ảnh thân thương – bếp lửa

    + Ngọn lửa lớn “chờ sương sớm” “cuốn hơi ấm” rót vào tâm trí những đứa cháu Hình ảnh người bà nhân hậu, tấm lòng của đàn con nhỏ

    – Ngọn lửa thực của thiên nhiên khi xa nhà đánh thức một suy nghĩ, một nỗi nhớ luôn chờ đợi trong lòng người cháu Về bà: Cháu yêu bà thầm lặng, âm thầm

    – Bài thơ gợi lại những kỉ niệm tuổi thơ êm đềm ấm áp bên bà ngoại

    • Tuổi thơ của cháu là những chuỗi ngày thiếu thốn, khổ cực, “đói lạnh” dường như luôn ám ảnh lòng ông mỗi khi nghĩ đến cháu.
    • Nhưng với bà, cuộc sống của tôi luôn tràn ngập yêu thương và ấm áp
    • – Bên bếp lửa, tiếng tu hú gợi hình ảnh ông bà chung sống 8 năm

      – Trong quá trình chăm sóc cháu, bà luôn khéo léo phân vai: sử dụng phương pháp “bà kể, bà chăm, bà dạy”, thể hiện tình cảm, sự yêu thương, quan tâm sâu sắc. Chăm sóc cháu của bạn

      <3

      – Giữa chiến trường khốc liệt, mẹ vẫn vững vàng, bình tĩnh xây dựng niềm tin cho con

      +Hình ảnh bếp lửa, ngọn lửa ấm áp của tình yêu thương, sự hy sinh của cô đối lập hoàn toàn với ngọn lửa hủy diệt sự sống của quân thù (hồi đó giặc đốt làng, thiêu rụi)

      p>

      → Dòng cảm xúc đan xen trong lời kể, những hình ảnh thơ dung dị hiện lên rõ nét đã để lại ấn tượng sâu sắc trong người bà, cách nhìn nhận của bà về cuộc đời và hình ảnh bếp lửa

      – Đứa cháu nhớ bà và nghĩ về cuộc đời

      • Hình ảnh của chị luôn gắn liền với hình ảnh lò sưởi thân thuộc, ấm áp
      • Trong trái tim chị luôn có một “ngọn lửa” “ấp nở”, đó là ngọn lửa của niềm tin, ý chí, sức sống và khát khao sống
      • Thông điệp ‘A fire’ nêu bật tình yêu thương và lòng tốt của bà dành cho cháu trai
      • Ngọn lửa ấy đã thắp lên niềm tin, tình yêu và ý chí sống tự tin vào ngày mai cho thế hệ cháu con
      • – Hình ảnh người bà thức khuya nhóm lửa truyền cho thế hệ con

        • Mặc dù có những “ngày mưa” trong cuộc đời nhưng bà vẫn luôn lạc quan, tin tưởng và dành những điều tốt đẹp cho con cháu
        • Động từ “nhóm” được lặp lại nhằm khẳng định cô là người khơi dậy những giá trị sống tốt đẹp trong cuộc đời mỗi người. Cô đã truyền hơi ấm của tình người, khơi dậy trong tim tôi tình yêu nhục cảm, sự cảm thông sẻ chia
        • Từ đó nhà thơ khám phá ra điều kỳ diệu của cuộc đời mục đồng “Ôi lò lửa thánh thiêng lạ lùng
        • – Đoạn cuối là tâm sự của đứa cháu khi lớn lên

          + Dù xa quê hương và bà nội nhưng người cháu luôn nhớ bà và nhìn bà với tình yêu thương, biết ơn vô hạn

          Ba. Kết luận:

          • Tác giả đã sáng tạo thành công hình ảnh bếp lửa, làm nổi bật phẩm chất đáng quý của chị. Qua đó thể hiện tình yêu thương, kính trọng đối với những người cháu, người bà tuy xa quê hương nhưng luôn nhớ và biết ơn sự hy sinh, chăm sóc, dạy dỗ của bà.
          • Phân tích hình ảnh người bà trong bếp lửa – ví dụ 1

            Ai cũng có một quá khứ với người thân và gia đình, một tuổi thơ bình dị hạnh phúc, hay một tuổi thơ căng thẳng, đau thương… Nhưng sâu thẳm trong tim mỗi người, những kỷ niệm, những ký ức tuổi thơ luôn là những gì sâu đậm nhất và lớn lao nhất trong cuộc đời Chúng ta sẽ không bao giờ quên nỗi ám ảnh của bạn.

            Nó sẽ cùng ta đi qua những thăng trầm của cuộc đời, ăn sâu bám rễ, và sẽ luôn ghi nhớ trong tim… Tuổi thơ dù ngọt ngào hay cay đắng, luôn có một hay nhiều người ủng hộ, đưa ta đi quan tâm đến chúng ta,… khi thời gian trôi qua Thời gian trôi đi, để lại một kỷ niệm mãi mãi….

            Các nhà thơ Việt Nam cũng đã có một tuổi thơ như thế… Đói rét, cô đơn nhưng ấm no, hạnh phúc vô cùng! Trọn vẹn, đầy ắp tình thương của bà, trong những ngày xa cha mẹ, được bà quan tâm, chăm sóc, che chở ấm áp, hạnh phúc… khi có bà!

            Ông viết bài thơ “Bếp lửa” khi đang học ở Liên Xô, vào một ngày đông giá rét vắng bà ngoại, theo dòng hồi tưởng, ông thấy tuổi thơ mình có bà bên cạnh. Thời gian qua đi thắp lên ngọn lửa yêu thương ấm áp, cùng nhịp đập của trái tim khát khao…

            “Lò sưởi” không chỉ sưởi ấm tình cảm ông bà, mà còn sưởi ấm một đời người… “Lò sưởi” vẫn là người bà đang ở bên em, hình ảnh bà trở về lung linh trong ánh lửa “chờ đợi” , “waiting” ” “Phải không, thưa cô…? Bà nấu ăn ở hàng đầu tiên của tôi…

            “Đoàn lửa đung đưa trong sương mai, lửa trại ấm áp, chan chứa tình thương, biết bao nhiêu nắng mưa”

            Ngay ở ba dòng đầu của bài thơ, hình ảnh liên tưởng đến “bếp lửa” đã gợi lên một cảm giác ấm áp, chan chứa yêu thương. Ngay câu thơ đầu tiên ta có thể cảm nhận được ngọn lửa cứ “chơi” sáng sớm sưởi ấm cả nhà, nhưng đến mùa đông khi hai người cùng chung sống, sương sớm rơi lạnh buốt. Khi nghĩ về quá khứ, điều đầu tiên xuất hiện trong đầu là lửa.

            Vì có hình bóng cô luôn bên ngọn lửa ấy “rồi sớm muộn” cô thắp lên hay ngọn lửa ấy ấm áp như tình yêu cô dành cho em, ấm áp như tình cảm gia đình, và hơi ấm của ngọn lửa ấy cũng là của cô . Bà đang sưởi ấm trái tim tôi, đang sưởi ấm cho căn phòng trống vắng lạnh lẽo chỉ có hai chúng tôi, đang an ủi nỗi cô đơn, buồn chán của hai chúng tôi, hay đang sưởi ấm mùa đông đầy “sương sớm”. .?

            《ham iu》- khơi gợi một cách tinh tế và ân cần một bàn tay thắp lên ngọn lửa mới được sưởi ấm, nên tuy ở hai phần đầu chị không trực tiếp xuất hiện nhưng ta thấy hình ảnh chị rất rõ, chị đang ngồi bên bếp lửa. , ngọn lửa “chờ đợi” và “ấp nở” tình thương cháu vô hạn được thắp lên.

            Rồi sang quý 2, trong lòng tôi không thể nào quên được người bà cần cù, chịu thương chịu khó, từng trải, tôi nói lời bùi ngùi “Con thương bà biết bao nhiêu nắng mưa”. trong tim tôi! Chỉ một chữ “tình” thôi cũng đủ thu trọn cả hương vị thi ca. Những vất vả trong cuộc sống, “chuẩn bị cho một ngày mưa”, những khó khăn và gian khổ, tôi biết và yêu bạn sâu sắc!

            Tôi hiểu và trân trọng sự hy sinh thầm lặng của cuộc đời bạn! Tình yêu là vị mặn của tình người và là chất keo gắn kết. Từ “tình” thường xuất hiện trong thơ trữ tình, nhất là trong những tác phẩm miêu tả tình người.

            Đối tượng của tình yêu là lòng trắc ẩn, cho nên chữ “yêu” có thể nói lên bao nhiêu cảm xúc trong lòng bạn, một loại khát khao, một loại đau đớn, một loại khát khao mãnh liệt, muốn quay lại tuổi thơ với em, ngồi xuống Hơi ấm bếp lửa bên em, “đầy ắp yêu thương”… Hình ảnh người em “biết bao nắng mưa” dần hiện rõ, dần lộ rõ ​​sự hy sinh thầm lặng, lặng lẽ. Dần dần những câu thơ của nhà thơ từ ký ức trở về, hiện ra trong ánh sáng chập chờn của ký ức, và chảy ngược về quá khứ…:

            “Lên bốn tuổi đã quen mùi khói Năm ấy đói kém cha đi đánh xe ngựa khô gầy Chỉ nhớ mùi khói Giờ nghĩ lại của nó, mắt tôi vẫn còn cay”

            Kỷ niệm 4 năm ám ảnh nhất là mùi khói và sự nghèo khó. Những năm tháng đói nghèo, đứa cháu cảm nhận được, ngửi thấy mùi khói từ năm bốn tuổi, đó là nạn đói lớn năm 1945, cái đói khủng khiếp, khủng khiếp, triền miên, “nửa đói rét”. Từ “mệt” được tách làm hai tiếng đau đớn, dường như ăn sâu vào tâm trí người cháu, với một ám ảnh khó quên-cái đói kéo dài khiến người ta mệt mỏi, mệt mỏi dần, như muốn giết chết ai đó!

            Điều bao trùm toàn xã hội lúc bấy giờ là nạn đói khủng khiếp, nạn đói đã cướp đi sinh mạng của hơn hai triệu người trong lịch sử dân tộc ta! Trong ký ức của tôi, nó vẫn dai dẳng như vậy, thật đáng sợ! Hơn hai mươi năm đã trôi qua, khói vẫn làm nhức mắt tác giả, như thể chỉ là “khói”! Kỷ niệm ùa về như thủy triều, lấp đầy tim óc, đọng lại nơi khóe mắt hương khói quá khứ cay đắng.

            Cay vì khói, vì đói, để giọt nước mắt của đứa trẻ ngây thơ châm chích cảm giác “đói khát” ăn sâu vào từng tế bào, dâng lên tận cổ họng, tưởng như đó là cơn đói của cả cơ thể cho miếng ăn, củ khoai, củ sắn, hay những giọt nước mắt của niềm vui, hạnh phúc, sung sướng tột độ, khi cô chuẩn bị ăn cho thỏa cơn thèm, phần nào bù đắp cơn đói triền miên, khi cô lặng lẽ nhóm lửa, nghĩa là phải kịp thời để ăn! Trong tâm hồn non nớt của một đứa trẻ bốn tuổi, dù thức ăn không ngon, nhưng đó là một “sơn thủy” có một không hai vào thời điểm đó, đó là một điều tuyệt vời!

            “…năm đói rong luộc, bông súng trắng ngần hương trầm” (do len-nguyen duy)

            Vâng! Bằng cách này, nó đã sưởi ấm trái tim tôi và trở thành một kỷ niệm khó quên trong cuộc đời tôi! Cái “cay cú” đó không chỉ là hai đứa cháu của tác giả, mà còn là nỗi khổ đói nghèo của nhiều người! Đến người còn không có của ăn chứ đừng nói đến “người gầy” thì “khô hạn” là đương nhiên. xe ô tô.phug chuyến (dân phường, hà tây) về hà nội.

            Đây cũng là một kỉ niệm, vẫn còn đọng lại trong tâm trí tôi và đã trở thành một trong những điều không thể nào quên trong cuộc đời tôi! Khổ thơ không nhắc đến cô nhưng sao cô đẹp và lặng lẽ đến thế! Bà che chở cho tôi và cả gia đình tôi, là cây cao chót vót những ngày đói rét mưa nắng…bà nhỏ bé mà cao cả, to lớn lắm…trong lòng tôi…!

            Ở đây, dòng cảm xúc và dòng tự sự của câu thơ bổ sung cho nhau, thấm đẫm chất trữ tình của giọng thơ nhà thơ, làm cho hình ảnh bà trong bài thơ thêm rõ và đẹp:

            p>

            “Tám năm rồi, con với ngoại vừa gọi con đã thắp lửa nơi cánh đồng xa, con còn nhớ những ngày ngoại nói về Huế da diết không?”

            “Tám năm” mới nghe thôi đã thấy dài vô tận, với biết bao gian nan, vất vả, có cả sợ hãi, yêu thương, nhớ nhung… ôm hai đứa cháu! Nhưng suốt 8 năm “bà và cháu thắp lửa” ấy vẫn thắp lên ngọn lửa sống và ngọn lửa yêu thương trong trái tim cậu bé tám tuổi ngây thơ.

            Chính hình ảnh bếp lửa quê hương, ngọn lửa tình bà cháu, lại gợi lên một liên tưởng, một kỉ niệm khác của nhà thơ khi còn trẻ. Đó là tiếng hú của loài chim. Giọng nói ấy sao mà đau đớn, khắc khoải, xót xa quá! Nó xuyên suốt cả đoạn, là âm hưởng của quá khứ dội về hiện tại, làm cho kí ức như sống dậy trong tâm hồn tôi. Ôi những kỷ niệm, cay đắng ngọt ngào, cô đơn và hạnh phúc! Điệp từ “em có sao không” được lặp lại ba lần làm cho giọng thơ thêm nồng nàn, rạo rực, khiến người đọc có cảm giác tiếng “em có sao” đang vang vọng trong tiềm thức của tác giả từ xa.

            Tiếng “bíp bíp bíp” có lúc yếu ớt, có lúc vang vọng từ cánh đồng xa, phảng phất trong lòng người Hoa kiều. Trong văn học nghệ thuật, con tu hú là biểu tượng của nỗi nhớ mong, khát khao bất lực. Trên thực tế, chim tu hú là một loài chim không may mắn không nở và xây tổ.

            Hạnh phúc tưởng chừng như vô nghĩa nhưng lại là điều thiêng liêng nhất, lớn lao nhất trong cuộc đời mỗi người, đó là hạnh phúc gia đình, là giây phút hạnh phúc tột cùng khi nhìn thấy con cái-dấu hiệu của yêu thương–kho báu vô giá mà cuộc đời cho bạn– Khóc và chào đời là khoảng thời gian mãn nguyện nhất, có một mái nhà, một tổ ấm—là nơi nương tựa vững chắc nhất những lúc bi quan, yếu đuối. Trái tim, sau mỗi vấp ngã trong cuộc đời – người ta tìm đến sự an ủi và sẻ chia chân thành!

            Nhưng loài chim biết hót không có niềm hạnh phúc lớn nhất, thiêng liêng nhất và đẹp đẽ nhất trong đời! Tiếng kêu của họ trở nên khắc khoải, mệt mỏi, khao khát, khao khát một điều gì đó… Có lần chúng tôi nghe tiếng kêu này trong bài “Vắng bạn tu hú” của một người bạn, sục sôi một niềm khao khát tự do mãnh liệt, trong sự cháy bỏng mãnh liệt của người tù cách mạng khiến anh phải thốt lên :

            “Tôi nghe hè dậy trong lòng mà chân muốn bể phòng, hè ơi! Chợt sao, vừa chết! Tiếng chim tu hú ngoài kia cứ gọi mãi”

            Tiếng kêu khát khao, khắc khoải cũng xuất hiện trong trái tim người con gái mới lớn đối với quê hương và người cha già cô đơn, côi cút – câu thơ của nữ thi sĩ “Con chim hót”:

            “Rồi tiếng chim hót vang suốt mùa hè mười năm tôi chưa về!”

            Chúng ta dễ dàng cảm nhận được điều đó trong “bếp lò”. Tiếng chim tru tréo lo âu làm cho ký ức của bà kéo dài ra, rộng ra và sâu lắng hơn trong không gian hoài cổ xa xăm… còn bà ơi, bà khóc có nghĩa lý gì đâu” Bà từng kể chuyện ở Huế”. Những câu chuyện tuy dài nhưng hay và thấm thía, được kể bằng giọng chậm rãi ấm áp của cô, chứa đầy cảm xúc và yêu thương.

            Có lẽ là chuỗi ngày hạnh phúc của gia đình chị ở Huế, chị cũng là người hoài cổ, sâu sắc, hay suy tư… từng nói “khi tôi ở Huế”! có thật không? rất nhiều! Trong kho tàng truyện ấy, có lẽ tuổi thơ tôi đã thấm đẫm hương vị ngọt ngào của những câu chuyện cổ tích! Tôi tự hào bước vào một thế giới của các bậc hiền triết, những người anh dũng, những người mẹ và con gái sát nhân, tàn bạo, mẹ và con gái, xảo quyệt, xảo quyệt, mưu mô, … thiện và ác.

            Quan trọng nhất là cái thiện luôn chiến thắng cái ác! Nhắc đến tuổi thơ, người ta luôn nghĩ đến những câu chuyện cổ tích mà bà, các mẹ thường kể cho con nghe, rồi dặn dò các bé phải rút kinh nghiệm, hay răn dạy những điều hay, lẽ phải từ những câu chuyện. ! Điều này cũng đúng với những câu chuyện cổ tích mà bà tôi kể cho tôi nghe! Đơn giản, dễ hiểu mà sâu lắng, chan chứa yêu thương…

            Mẹ đã vun đắp và vun đắp cho tôi một mầm non tươi tốt, tươi đẹp trong tư tưởng và tình cảm của tôi từ thuở ấu thơ.

            “Bố mẹ bận đi làm, con ở với mẹ, mẹ đòi nghe mẹ dạy làm, mẹ chăm con, bên bếp lửa đọc sách, nghĩ đến công lao của mẹ, con ơi, đừng lên đồng xa theo bà!”

            Câu tiếp theo tả ngôi nhà lẻ loi giữa cánh đồng, một già một trẻ. Con “ăn chưa no, lo chưa tới” thì bà ngoại ốm nặng. Bà phải cố gắng lo cho mình và các cháu. Nhưng cô cũng tá hỏa “đã bảo là làm, còn lo đọc sách”. Hình ảnh bếp lửa ở đây không còn cay đắng mà là của ngôi nhà ấm áp, có mái che nơi hai bà cháu ở.

            Tám năm ấy, đất nước có chiến tranh, hai anh em tôi phải bỏ làng đi lánh nạn, bố mẹ tôi phải đi công tác, suốt thời gian đó tôi phải ở bên cạnh cô ấy, nhưng Dường như với tôi, bạn là niềm hạnh phúc vô tận! Với bà tôi, tôi làm việc trong bếp mỗi ngày. Trong làn khói bếp chập chờn, mờ ảo đó, một bà tiên như trong truyện cổ tích của cháu tôi hiện ra.

            Nếu như với mỗi chúng ta, cha là cánh chim nâng ước mơ đến chân trời mới, mẹ là cành hoa tươi thắm nhất trong lồng ngực, thì với con, đó chỉ là bà của cha mẹ, và chú chim nhỏ, bông hoa của riêng tôi. Tình bà cháu là vô cùng thiêng liêng và quý giá đối với tôi. Trong những năm tháng chung sống với mẹ, mẹ không chỉ lo cho tôi từng miếng ăn, từng giấc ngủ mà còn là người thầy đầu tiên của tôi.

            Bà dạy tôi bảng chữ cái đầu tiên và cách đếm. Không chỉ vậy, cô còn dạy cho tôi những bài học quý giá về cách sống, cách làm người. Những bài học này sẽ là hành trang cho bạn đi suốt quãng đời còn lại. Người bà và tình yêu thương của bà dành cho đứa cháu thực sự là chỗ dựa vững chắc về vật chất và tinh thần cho đứa cháu nhỏ. Để rồi bây giờ nghĩ đến bà, nhà thơ càng thương bà hơn, bởi cháu ngoại mất rồi, bà sẽ ở với ai, cùng bà thắp lửa, cùng bà kể chuyện thời Huế…

            Nhà thơ chợt tự hỏi lòng mình: “Sao chàng không về bên nàng/ Khóc hoài cánh đồng xa!”. Một tiếng thở dài, bày tỏ đứa cháu xa xứ, nhớ lại những ngày đã qua, vô cùng luyến tiếc… xen lẫn niềm tự hào của người bà hồn nhiên trước mặt đứa con thơ vì có đứa cháu “gọi” cánh đồng xa”!

            Anh yêu em, anh cũng yêu em! Vì hai cháu chúng ta có hoàn cảnh giống nhau quá! Cô đơn, lẻ loi, bố mẹ “bận việc” đã về lâu rồi! “Thạch, về với bà đi, bà sẽ chăm sóc bà, giống như bà đã chăm sóc con, bà sẽ không cô đơn nữa!” Nếu con về với bà ngoại, con và Đồ sẽ ở bên nhau, sẽ không còn ai nữa. một mình! “

            Chỉ trong một đoạn, hai từ “bà ngoại” và “cháu” xuất hiện nhiều lần gợi nhớ hình ảnh hai bà cháu không thể tách rời. Tình bà dành cho cháu, tình bà dành cho cháu đã để lại trong lòng cháu một kỉ niệm không bao giờ phai, và nó sẽ tồn tại mãi mãi, bởi tiếng chim cu gáy luôn vang vọng trong lòng cháu, cũng như trái tim luôn thổn thức của cháu. khao khát em…

            Trong đám cháy lớn, tác giả đã tung ra hình ảnh này, để nỗi đau riêng của mình hòa với nỗi đau chung của nhân dân cả nước và của tình hình chung của đất nước:

            “Khi quân giặc đốt làng thành bình địa, hàng xóm tứ phương lầm lũi trở về. Bà giúp bà dựng lại túp lều tranh, bà vẫn kiên trì. Bà bảo cháu tin: “Bố đang trong chiến trận khu vực. Bạn không cần phải viết một lá thư từ cha của bạn. Hãy nói với tôi, giữ cho ngôi nhà của bạn an toàn! “

            Hoàn cảnh càng khó khăn, gian khổ, ý chí càng vững vàng, tấm lòng càng rộng mở. Qua đó ta thấy được một người bà cần cù, nhẫn nại và đức hi sinh. Căn nhà, túp lều tranh của hai cháu tuy đã bị thiêu rụi hoàn toàn, nhưng nơi nương tựa của hai cháu cũng không còn, của cải lớn nhất đời người cũng đã “cháy túi”-cháy sạch, chẳng còn bao nhiêu. còn lại, hay , Chẳng còn gì để đốt nữa, dù đau đớn đến đâu, bà cũng không dám nói ra, sợ làm đứa cháu nhỏ buồn lòng.

            Bà mạnh mẽ đưa cháu nội vượt qua mọi khó khăn, không muốn cậu con trai bận việc nhà phải lo việc nhà. Ta có thể thấy rõ điều này qua lời khuyên của chị: “Có viết thì đừng bảo này/bảo kia/chỉ nói nhà yên bề ngoài!”. Lời dặn của chị giản dị nhưng chứa đựng rất nhiều tình thương, tinh thần, ý chí và niềm tin mãnh liệt, và “xóm nào cũng sai” – cảm giác như có một thế lực, một thế lực vô hình nào đó khiến người ta phải cúi đầu vì đau, Không nói được lời nào!

            Xem Thêm: Văn mẫu lớp 9: Dàn ý Viếng lăng Bác (7 mẫu) Bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương

            Những gian khổ, thiếu thốn, những kỷ niệm của các em phải được ghi nhớ để an ủi những người ở tuyến đầu. Hình ảnh người bà không chỉ là người bà của riêng mình mà còn là biểu tượng sinh động của người phụ nữ Việt Nam đầy đức hy sinh, yêu thương con cháu, luôn tin tưởng vào sự nghiệp kháng chiến và cách mạng. Họ nói nhà yên bề gia thất để bố mẹ tôi yên tâm chiến trận. Ở cuối đoạn, trong tiếng Việt, hình ảnh bếp lò trở thành hình ảnh ngọn lửa, ngọn lửa:

            “Rồi chiều tối, đêm khuya chị nhóm lên ngọn lửa đã âm ỉ trong lòng, ngọn lửa chất chứa niềm tin bền bỉ…”.

            Cô ấy bắt đầu lại từ đầu, chữ “Zai” trong câu thơ có nghĩa là cứu rỗi, vượt qua gian khổ và bắt đầu lại! Cô vẫn “châm” lửa “sớm muộn” dù “châm” khó hơn “nhóm” rất nhiều! Trên nền đất cũ của ngôi nhà “cháy”, chị đã thắp lên một sức sống mới, mạnh mẽ và bền bỉ hơn, bởi trong lòng chị “đã ủ một ngọn lửa” và “ngọn lửa đang bùng cháy”, chất chứa niềm tin bền bỉ!

            Đó chính là ngọn lửa mà bạn đã truyền cho tôi, sức mạnh và niềm tin, để tôi vượt qua những khó khăn thử thách ban đầu một cách tự tin như bạn! Giặc Pháp có thể phá làng, đốt nhà nhưng không dập tắt được ngọn lửa, hơi ấm sẽ luôn cháy trong lòng bà! Ngọn lửa “chứa đựng niềm tin bền bỉ”, ngọn lửa chở tình bà, ngọn lửa ấm áp như tình bà cháu, ngọn lửa phồn vinh soi sáng con đường phía trước cho các em, ngọn lửa hy vọng về một tương lai tốt đẹp hơn. Sự sống cao quý, thiêng liêng của cả dân tộc!

            Hình ảnh ngọn lửa bập bùng trong đoạn thơ có sức truyền cảm mạnh mẽ. Bà luôn nhắc tôi rằng ở đâu có lửa là có bà và tôi sẽ luôn ở bên cạnh bà. Bà – một người nhỏ bé nhưng vĩ đại không gì so sánh được! Cô đốt lên ngọn lửa không thể tắt trong lòng tôi bằng ngọn lửa “trong tim tôi luôn có nó”, và cô sưởi ấm trái tim tôi bao năm bằng ngọn lửa yêu thương vô biên!

            <3 Tôi biết về cái đói khi tôi 8 tuổi, tôi biết về câu chuyện của cô ấy, sau đó tôi biết về chiến tranh, những đau khổ và khó khăn trên đất nước này, và bắt đầu có bạn thắp lên niềm tin của tôi…bây giờ, tôi cảm thấy tốt …:

            “Hàng chục năm gian nan thử thách, đến nay bà vẫn giữ thói quen dậy sớm”

            Nếu câu đầu chỉ là “Em thương anh biết bao nhiêu nắng mưa”, một danh sách dài những cảm xúc tuôn trào trong ký ức tuổi thơ, thì nay bài thơ kết thúc bằng suy ngẫm. Sâu sa: “Cả đời biết bao nhiêu nắng mưa”! Cả bài thơ tập trung vào chữ “truyền thống” – không được thì tiếp tục khao khát, miệt mài như thế suốt đời!

            Phải là một thời gian rất dài, một quá trình dài, để cảm nhận và hiểu sâu sắc, để lớn lên, để trưởng thành, để trải nghiệm, để thấu hiểu và thấu hiểu cuộc sống của chị đến thế. Mặc dù dòng này không biểu cảm như dòng trước, nhưng nó có ý nghĩa sâu sắc và sâu sắc hơn dòng đó! Chữ yêu như len lỏi vào tim, vào sâu trong tim, khắc sâu vào tận đáy lòng.

            Đây là một phản ánh rất “trưởng thành”, tôi nhìn bà từ góc độ của cuộc sống trưởng thành của tôi, về những thăng trầm, “nắng” và “rắc rối” của bà! Và cứ như thế, mẹ vẫn âm thầm hy sinh, nhưng “mấy chục năm/ mẹ vẫn giữ thói quen dậy sớm”. Một công việc khó khăn cũng đã trở thành một thói quen trong cuộc sống của người bà chăm chỉ đó! Cô vẫn im lặng, chỉ im lặng, rồi:

            “Nhóm bếp ấm, nhóm khoai sắn, nhóm nồi nếp mới, chung niềm vui đánh thức tình cảm tuổi thơ”.

            Một lần nữa ở cuối bài thơ, hình ảnh bếp lò “nhàm chán” và “giàu có” được lặp lại một lần nữa khẳng định tình cảm sâu đậm của hai bà cháu. Thắp lên ngọn lửa ấy, người bà đã truyền cho cháu tình yêu thương của người thân và nhắc cháu không bao giờ quên những năm tháng yêu thương, những năm tháng khó khăn mà hai người đã chung sống. , hai chúng tôi chia nhau sắn và củ sắn.

            “Nồi cơm mới” của ngoại là câu dạy tôi phải luôn mở lòng với mọi người xung quanh, gắn bó với xóm làng, không bao giờ có lối sống ích kỷ. Bà không chỉ chăm sóc chu đáo về vật chất cho tôi mà còn tô điểm cho tuổi thơ tôi một câu chuyện cổ tích hay hơn, kỳ diệu hơn, bà đã tô hồng lên trên tuổi thơ xám xịt của tôi “Nhóm người này còn đánh thức cả cảm giác tuổi thơ” !

            <3 Gốc rễ cho một sự hình thành tốt đẹp trong tương lai! Một người bà tốt như vậy, bà ấy rất giản dị nhưng có một sức mạnh kỳ diệu từ trái tim.

            Nàng biến ký ức năm tháng ấy thành bức mành tre mát rượi, theo tôi suốt cuộc đời, khiến tôi phải thở dài thổn thức: “Lò Chúa sao mà lạ lùng!” Lòng nhân ái bao la bao la luôn ấm áp và bền bỉ, mãi mãi tỏa sáng. Cả bài thơ, hình ảnh bếp lửa xuất hiện mười lần thì tác giả cũng mười lần nhắc đến bà. Giọng thơ nhanh, mạnh, hệt như những đợt sóng vỗ vào bãi biển xanh thẳm trong lòng ta trào dâng cảm xúc.

            Bà đã, đang và sẽ luôn là người quan trọng nhất của tôi cho dù bà có ở đâu trên thế giới này. Em biến thành ngọn lửa cháy sưởi ấm trái tim anh! Để rồi giờ đây, khi đã cách xa nàng nửa vòng trái đất, nhà thơ Việt Nam vẫn luôn hướng lòng về nàng, nỗi nhớ nhung, mong nhớ những kỉ niệm đẹp đẽ, ấm áp và hình ảnh của nàng. Mãi mãi trong lòng các cháu:

            “Anh đi đây. Trăm thuyền khói, trăm nhà cháy, trăm tiệc vui. Anh không quên nhắc em ngày mai nhóm bếp sao?”

            Kết thúc bài thơ bằng một câu hỏi tu từ. Đó là ký ức đau buồn của cô! Nhà phê bình văn học nhận xét: “Trong mọi trường hợp, người phụ nữ trong gia đình thường gắn liền với những gì thân thiết nhất, đời thường nhất. Sau những thăng trầm, biến cố, thành công và thất bại của cuộc đời, họ cho phép chúng ta quay về đúng vị trí của mình.

            Ẩn trong cái dáng vẻ bình dị, lặng lẽ và khiêm tốn ấy là một trái tim rộng lớn đầy nhân hậu và bao dung. Những câu thơ như những tia sáng từ ngọn lửa ấm áp, gợi cho người đọc và thấm vào lòng người đọc. “Rời vòng tay yêu thương của bà để đi đến một chân trời mới, giữa mùa đông nước Nga lạnh giá, chính tình yêu thương của hai bà cháu đã sưởi ấm trái tim tác giả.

            Đứa cháu ngoại năm xưa giờ đã lớn nhưng trong lòng bà vẫn nhớ góc bếp, nơi có những ngày nắng, những ngày mưa. Tôi sẽ không bao giờ quên, và không thể nào quên, bởi đó là cội nguồn, là nơi tôi đã lớn lên như một đứa trẻ, trong vòng tay yêu thương của ngoại, trong trái tim cháy bỏng. Bừng cháy với ngọn lửa đầy niềm tin, tình yêu cô dành cho anh…

            “Tôi trong suốt trong ảo ảnh giữa bà tôi và Bụt” (do len-nguyen duy)

            Nào, nhắm mắt lại, ta sẽ thấy bếp lửa hồng và dáng bà ngồi lặng lẽ bên bếp… “Bếp Bếp” Bài thơ này sẽ mãi ghi nhớ trong tim Bạn đọc biết ơn sức mạnh của trái tim, đó là sự nhạy cảm sâu sắc. Bài thơ này khơi dậy trong lòng chúng ta những tình cảm cao quý đối với gia đình, với những người đã tô vẽ nên tuổi thơ hồn nhiên của chúng ta. Những kí ức tuổi thơ gần gũi nhất luôn có sức mạnh soi sáng và nâng đỡ con người ta trên suốt chặng đường dài của cuộc đời!

            <3 Mãi mãi…

            Phân tích hình ảnh người bà bên bếp lửa – ví dụ 2

            Hình ảnh người cháu nhập ngũ trở về quê hương gợi nhớ đến hình ảnh người bà tần tảo trong bài thơ “Duo Lun” của Ruan Wei:

            “Nàng đi tam trại hái chè xanh, quán cháo lòng, Đồng gửi hàng chục đêm lạnh”

            Xem Thêm : Dao động tắt dần là gì, dao động cưỡng bức, dao động duy trì

            Gợi nhớ tình cảm ông bà trong bài thơ “Bếp lửa”. Nhà văn đã khắc họa hình ảnh người bà cần cù, xinh đẹp, đức hy sinh và niềm tin sắt đá, đồng thời bày tỏ lòng kính trọng sâu sắc đối với bà. Nhớ lại những kỉ niệm của đứa cháu khi nó lớn lên, gặp cảnh quen thuộc nó sẽ nghĩ đến bà nội:

            “Đoàn lửa đung đưa trong sương mai, lửa trại ấm áp, chan chứa tình thương, biết bao nhiêu nắng mưa”

            Bà ngoại trông rất đau khổ, bà làm việc không mệt mỏi để đốt lửa và chạy đến gặp cháu trai mỗi ngày. Mỗi sáng, đôi bàn tay cần cù của người bà lại nhóm những quả cầu lửa. Cuộc đời ghi dấu bằng những gian nan, vất vả và hình ảnh ẩn dụ “biết bao nhiêu nắng mưa” tượng trưng cho nỗi khổ cực đè nặng lên tấm thân già nua của bà. Hình ảnh ấy đã khơi dậy niềm thương cảm, xót xa của người cháu, làm cho ký ức về bà rõ ràng và chân thực hơn:

            “Cô ấy hay kể về những ngày còn ở Huế… Tôi ở bên cô ấy, cô ấy bắt tôi nghe cô ấy dạy làm việc, cô ấy lo cho tôi ăn học. Hoắc Tuấn thấy yêu cô ấy khó lắm. “

            Khi tôi lên bốn, lên tám là thời kỳ nguy hiểm nhất của chiến tranh: nạn đói hoành hành, giặc phá hậu phương. Bà chăm sóc đứa cháu ngoại 8 năm “ông bà thắp lửa”. Phải chăng cô luôn bền bỉ nhen nhóm những hơi ấm bền bỉ của cuộc đời?

            Khi cha mẹ bận rộn nơi tiền tuyến, cô không chỉ trở thành cha mẹ của cháu trai mà còn là một người thầy dạy dỗ chúng tận tình. Việc lặp lại từ “bà” và hàng loạt động từ “bảo, dạy, chăm cháu học” cho ta hình dung bà đang gieo vào lòng tôi lòng căm thù giặc qua câu chuyện của mình. bà ngoại. là con người.

            Mẹ nuôi cháu trong hoàn cảnh khó khăn, cuộc sống vất vả lại càng nặng nề, thiếu thốn vật chất. Nhà thơ đã dựng lên hình ảnh người bà thương cháu vô hạn, có lẽ để bù đắp phần nào những bất hạnh trong tuổi thơ của đứa trẻ. Bà không chỉ hết lòng yêu thương cháu mà còn đầy đức hy sinh, vị tha:

            “Vẫn tự tin, chị xin tôi suy nghĩ: “Bố đang ở chiến khu, bố con còn công chuyện, con viết đi, đừng nói thế này, thế kia, cứ nói nhà có vẫn an toàn! “

            Một mình ôm nỗi khổ, chịu đựng đủ thứ, nên khuyên đứa cháu “Đừng nói này nói nọ” về gian khổ ở quê nhà: “Giặc đốt làng, đốt làng”, vì bà muốn cảm thấy thoải mái cô ấy. Những người ở tuyến đầu, vì vậy họ làm công việc của họ. Lòng vị tha của bà đã giúp bà và dân làng tạo thành hậu phương vững chắc trước kẻ thù. Cô đã và đang nuôi dưỡng, ấp ủ một niềm tin không bao giờ tắt, một niềm tin nhỏ nhoi và bền bỉ, được nhen nhóm bằng trái tim, trái tim nhân hậu:

            “Ngọn lửa trong tim chị đã và đang nhóm lên ngọn lửa niềm tin bền bỉ…”

            <3

            “Bếp nhỏ ấm cúng tình khoai sắn, nồi xôi mới, niềm vui, tình cảm còn đó”

            Hành động “nhóm” nhà bếp được lặp đi lặp lại bốn lần, kết hợp thói quen vào lối sống “bận rộn” lâu dài của cô. Nhưng có sức mạnh đáng kinh ngạc trong hành động đơn giản này. Nó thắt chặt tình làng nghĩa xóm qua củ sắn hay nồi xôi mẹ nấu bên bếp lửa. Những giấc mơ tôi đã quên, giờ đây với cô ấy, những cảm giác này trở nên sống động khi chúng sưởi ấm tâm hồn tôi. Vì vậy, cô ấy không chỉ là người thắp lên ngọn lửa và duy trì nó mà còn là người truyền lửa.

            Bài thơ “Bếp lửa” thể hiện lòng biết ơn sâu sắc của cháu đối với người bà qua kí ức tuổi thơ của người cháu. Các nhà thơ Việt Nam đã khéo léo kết nối hình ảnh bếp lửa với hình ảnh người bà không chỉ làm nổi bật vẻ đẹp cao cả mà còn tạo nên ý nghĩa tượng trưng cho hình ảnh thơ.

            Phân tích hình ảnh người bà trong bếp lửa – Văn mẫu 3

            Bạn đã bao giờ chìm đắm trong ký ức tuổi thơ với những hình ảnh quen thuộc? Hình ảnh đó có để lại ấn tượng sâu sắc trong tâm hồn bạn không? Với tấm bằng Việt, có lẽ hình bóng thân thương của người bà bên bếp lửa đã thấm sâu vào một trang ký ức tuổi thơ.

            Những kỉ niệm ấy được tái hiện chân thực bằng tiếng Việt qua bài thơ Bếp lửa. Vậy hình ảnh người bà trong những bài thơ này sâu đậm như thế nào? Điều này giúp thể hiện nội dung tư tưởng của tác phẩm như thế nào? Ngay từ câu thơ đầu tiên, bạn hãy thử đắm chìm trong hơi ấm ngọn lửa yêu thương của cô ấy xem:

            “Một đống lửa đung đưa trong sương mai, một đống lửa ấm áp, chan chứa tình thương, biết bao nhiêu nắng mưa.”

            Cảm xúc trong sáng đến từ hình ảnh bếp lò “đợi sương mai” “ngọt ngào và ấm áp” gợi lên bàn tay khéo léo, tinh tế của người bà nhóm lửa. Sự cống hiến thầm lặng và cần mẫn của cô đã sưởi ấm trái tim của đứa cháu nhỏ và sưởi ấm tuổi thơ của nó. Tuổi thơ bên bếp lửa ấm áp ấy có thật êm đềm? không! Kí ức tuổi thơ quanh tôi là cuộc sống gập ghềnh, gập ghềnh:

            “Lên bốn tuổi đã quen mùi khói, Năm ấy đói kém, cha đi đánh xe ngựa khô gầy, chỉ nhớ mùi khói, và mắt vẫn cay, nghĩ đến bây giờ sống mũi vẫn nóng.

            Những câu thơ chân thật và thấm thía. Vào năm 1945, tôi mới 4 tuổi, phải đương đầu với nạn đói, nhưng trong những mảnh ký ức mơ hồ đó là mùi khói nấu ăn từ bếp của bà tôi – khói đã làm tôi ngạt thở nên bây giờ tôi nhớ . “Sống mũi còn nóng.”

            Cay vì mùi khói bếp, cay vì mùi khói mấy chục năm mới có lại. Dù ký ức đã phai mờ, khói bếp bao năm vẫn để lại dư vị cay nồng trên sống mũi, và tôi không thể không nhận ra sức mạnh ám ảnh, xao xuyến đó trong tâm hồn mình. Những năm tháng ấy, bà vẫn âm thầm tích ấm, nuôi nấng đứa cháu ngoại “tám năm”. Càng lớn lên trong vòng tay bà, cháu càng nhớ bà sâu đậm:

            “Bố mẹ bận công việc, em ở với bà. Bà bắt cháu đi làm nghe bà dạy bảo, còn cháu lo học hành.”

            Trong sương khói chiến tranh, tôi không được sống cùng cha mẹ, nhưng tôi được bà nội yêu thương, quan tâm, chăm sóc từ tận đáy lòng. Bên bếp lửa bà kể chuyện xưa, chuyện đời thường, chuyện cổ tích ngày xưa. Mỗi công việc, mỗi việc lớn nhỏ, hai đứa cùng nhau “thắp lửa” hàng ngày, hàng tháng, suốt “tám năm”, nấu nướng, giữ ấm, và quan trọng hơn là thắp sáng tâm hồn.

            Bà nội đóng vai thay mẹ thay cha, thay thầy dạy dỗ và yêu thương cháu vô điều kiện. Vì vậy, tình yêu thương, kính trọng nàng được thể hiện sâu sắc qua hình ảnh: “Hoắc Tuấn nghĩ ngợi thương nàng”. Bà ngoại và Hoắc là chỗ dựa tinh thần, quan tâm, chăm sóc cháu trai.

            Hơi ấm của ngọn lửa ấy gợi lên bao gian khổ, đau thương. Trong khói lửa chiến tranh, hình ảnh một bà lão già gầy guộc nơi làng quê vắng vẻ vẫn không một lời than thở, không tiếc nuối khiến nhiều người trong chúng ta cảm phục. Đặc biệt, lời khuyên của Bác làm sáng lên vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ giàu lòng vị tha, hi sinh, sống hết mình vì con cháu:

            “Giặc đốt làng hồi đó, đốt làng rồi lại thất bại. Cháu giúp bà dựng lại mái nhà tranh còn vững chãi. Cháu hỏi cháu nghĩ: ‘Bố đang ở chiến khu, ông còn phải viết thư, đừng lo, hãy nói cho tôi biết, nói cho tôi biết gia đình vẫn bình an!”

            bang việt gửi gắm đến người đọc lòng yêu nước, lòng quả cảm, sức mạnh hy sinh cao cả qua hình ảnh người bà. thật! Bà gánh vác mọi lo toan cho tương lai, để các con yên tâm công tác với nghị lực và nghị lực, với trái tim luôn đi sau và luôn hướng về phía trước. Cô mang vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam truyền thống, sẵn sàng hy sinh tình riêng và đặt tình yêu của công chúng lên hàng đầu.

            Đây chẳng phải là biểu hiện cao nhất của lòng yêu nước, kháng chiến và cách mạng hay sao? Chất thơ Việt Nam thổi vào bài thơ truyền đến người đọc sức mạnh của lòng yêu nước, lòng dũng cảm và đức hi sinh cao cả qua hình ảnh người bà. Càng về cuối, cảm xúc dâng trào càng mãnh liệt khiến hình ảnh người bà trở nên chân thực, sống động hơn bao giờ hết, làm nổi bật cả bài thơ bằng những động tác, phẩm chất tuyệt vời của bà. Làm đẹp:

            “Rồi sáng tối, bà nhóm lửa bên bếp lửa, trong lòng luôn có ngọn lửa nhen nhóm niềm tin bền bỉ… Cuộc đời bà đã trải qua mấy chục năm nắng gió, cho đến khi bây giờ cô Vẫn giữ thói quen dậy sớm, nhóm bếp lửa ấm, chia sẻ niềm vui với củ khoai lang yêu thương, nồi nếp gạo mới, đánh thức những cảm xúc tuổi thơ. Kỳ lạ và thiêng liêng – bếp lửa!”

            Ngọn lửa này không chỉ được đốt lên bằng củi, rơm mà còn là ngọn lửa của sự sống, ngọn lửa của tình yêu, niềm tin vô cùng “bền bỉ” và bền bỉ, bất diệt… Giọng thơ từ cô vang lên mạnh mẽ, đầy xúc động, tự hào khẳng định ý chí kiên cường, nghị lực sống, ý chí dũng cảm của phụ nữ Việt Nam trong kháng chiến. Mẹ là người thắp lửa, truyền lửa, là người trong gia đình sẽ luôn giữ lửa ấm áp, lung linh.

            Trong tâm thức người Việt, bếp lửa và người bà thật bình dị, nhưng ẩn chứa bao điều thiêng liêng, cao cả: “Ôi, thiêng liêng lạ lùng – bếp lửa!”. Từng câu, từng chữ như hồng, ấm áp, chất chứa bao nhớ nhung, biết ơn. Và đứa cháu hiếu thảo ấy giờ đã trưởng thành và có một cuộc sống hạnh phúc mới. Nhưng dù đã xa bếp lửa của bà, tôi vẫn nhớ ngọn lửa năm tôi bốn tuổi đã thắp cho tôi chói mắt, tôi vẫn nhớ hình ảnh một góc bếp của bà dưới nắng mưa:

            “Em đi đây. Trăm thuyền bốc khói, trăm nhà cháy, tiệc vui muôn người, nhưng em không quên nhắc: mai mở bếp nhé?”

            Đứng trước bao điều mới mẻ trên đời, tuổi thơ đã xa, đứa cháu nhỏ nay đã được chắp cánh bay cao, nhưng làm sao cháu quên được bà ngoại và bếp lửa quê hương, nơi có nắng mưa và sương cùng nhau, vì cô Và quê hương yêu dấu là điểm tựa, là rường cột tinh thần vững chắc cho mỗi bước đường đời của em. Hình ảnh nhóm lửa với đôi bàn tay khéo léo luôn tỏa ra hơi ấm trong lòng người cháu.

            Bạch Khiết từng nói: “Điều đầu tiên là động lòng người. Cảm xúc là nền tảng của văn học.” thật! Bài thơ “Bếp lửa” là một bài thơ như vậy. Đọc những bài thơ đầy cảm xúc dường như mang lại cho mọi người những cảm xúc tốt đẹp và những kỷ niệm đẹp. Ở bên bạn có thể tạo được tình cảm với người nhà, họ hàng. Với bạn, bạn có thể có tình cảm và chính nghĩa, có bạn bè, và có thầy cô.

            bang việt cũng có những cảm xúc đó nhưng anh có thể diễn đạt nó qua những vần thơ nồng nàn đã làm rung động biết bao trái tim người đọc. Dòng cảm xúc trong sáng ấy đã để lại trong chúng tôi rất nhiều ấn tượng, đặc biệt là hình ảnh nhân hậu của người bà.

            Phân tích hình ảnh người bà trong bếp lửa – văn mẫu 4

            Tôi từng nói: “Tác phẩm nghệ thuật là kết quả của tình yêu”. Yêu người, yêu đời là hạt giống lành nuôi dưỡng nhân cách, tài năng và cũng là nguồn cảm hứng sáng tạo của mọi văn nghệ sĩ. Tình gia đình cùng một nguồn gốc, nếu như nữ sĩ Xuân Quỳnh dùng giọng điệu yêu thương trách móc và hình ảnh “tay bà ôm trứng” để nhắc nhở người đọc về quãng thời gian bên người bà thân yêu, thì người Việt Nam chúng ta luôn nhớ đến lòng nhân ái. và lòng nhân ái Người bà và các con, đất nước và đặc biệt là người phụ nữ gắn liền với một hình ảnh quen thuộc ở nông thôn Việt Nam: “bếp lửa”.

            “Lò sưởi” giống như bông hoa đầu tiên được độc giả Việt trao tặng bằng tốt nghiệp khi các em học lớp 2 tại Liên Xô. Xa người thân, bạn bè, quê hương, nơi đất khách quê người, anh và người bà thân yêu đã cùng nhau ôn lại những kỉ niệm tuổi thơ bên bếp lửa. Đó là hình ảnh ngọn lửa bập bùng bên bức tường trong sương sớm, được che chở bởi đôi bàn tay của cô. Hình ảnh “bếp lửa ấm áp” gợi ta liên tưởng đến bếp lửa, đôi bàn tay già gầy guộc của bà đã nhóm lại, che chở cho ngọn lửa cháy bừng sáng, cho ta hình dung sự bao bọc, đùm bọc của người bà, tình yêu thương, trìu mến của tuổi thơ bà. cháu trai.

            Rồi đến những ngày kỉ niệm bốn tuổi, tám tuổi trong ký ức của tôi. Những ký ức tuổi thơ cứ hiện về trong ký ức tôi như một thước phim quay chậm, ký ức “8 năm bà cùng nhóm lửa”. Những câu thơ thủ thỉ, những câu tình tứ, những câu ám chỉ “Chào em”, những câu hỏi tu từ “Gọi cho em, anh có nhớ đến cô không?”, gợi ra biết bao câu nói, câu chuyện cô kể. Trong những năm cha mẹ đi công tác xa, bà và cháu nương tựa vào nhau cả đời. Tôi ở với bà, được bà nuôi nấng, chăm sóc, “bà bảo cháu ngoan”, “bà dạy cháu học”, “bà chăm cháu”. Khi tôi còn nhỏ, bà là chỗ dựa tinh thần quan trọng của tôi, có bà ở bên, có lẽ tôi sẽ cảm thấy thật ấm áp, bình yên và hạnh phúc.

            Trong tâm trí tôi luôn khắc ghi kỷ niệm cái năm giặc phá làng đốt phá, mái tranh của ngoại tôi cũng bị đốt. Trong những năm tháng khó khăn đó, những lời dạy của cô vẫn sống động trong tâm trí tôi:

            “Bố đang ở vùng chiến sự, nhưng nếu bố bạn viết thư để nói với bạn rằng ở nhà vẫn bình yên, xin đừng nói với tôi”

            Cuộc sống của hai bà cháu vô cùng khó khăn, không xu dính túi và đó là chuỗi ngày đen tối nhất trong năm. So với thực tế cuộc sống của hai ông bà, câu châm ngôn về phẩm chất không được tuân theo. Cô ấy nói với tôi điều này để bố mẹ tôi yên tâm làm việc. Từ lời dặn ấy, ta thấy được những đức tính thật cao đẹp của bà: tình thương con sâu sắc, sự hi sinh hạnh phúc những năm tháng cuối đời để đổi lấy độc lập dân tộc, đặc biệt là lòng dũng cảm, kiên trung trước mọi khó khăn. Tuy không trực tiếp tham chiến nhưng cô là chỗ dựa vững chắc cho tiền tuyến. Cảm nhận được sự hy sinh cao cả của chị, tôi nghĩ đến biết bao bà mẹ Việt Nam anh hùng, bao nhiêu giọt nước mắt đã rơi khi phải tiễn chồng con ra tiền tuyến, những người mẹ tần tảo gồng gánh những đứa con còn giã gạo nuôi con. Những người lính trong “Lời ru em bé lớn trên lưng mẹ” của nguyễn khoa diem… những người mẹ kính yêu ấy thật xứng đáng là những người “anh” được Bác Hồ khen ngợi. Dũng cảm, bất khuất, trung hậu, đảm đang,…chị là tiêu biểu cho những phẩm chất truyền thống của phụ nữ Việt Nam từ bao đời nay…

            Người cháu bày tỏ ý kiến ​​về ngọn lửa mà bà đốt, và cũng bày tỏ ý kiến ​​về bà:

            <3

            “Ngọn lửa của bà” là một hình ảnh thực tế – ngọn lửa rơm và củi do đôi bàn tay gầy guộc của bà thắp lên. Nhận xét về hình ảnh bếp lửa, nhà thơ có sự liên tưởng sâu sắc đến ngọn lửa ấm áp tình yêu thương mà bà đã luôn ấp ủ dành cho đứa cháu trai và bù đắp cho cháu khi cháu phải xa cha mẹ. “Ngọn lửa niềm tin bền bỉ” là ngọn lửa niềm tin sống được ngoại truyền cho tôi, có sức sống bền bỉ, mãnh liệt. Cô ấy không chỉ là người thắp lên ngọn lửa mà còn là người giữ nó, lan tỏa nó và ngọn lửa của cô ấy thật thiêng liêng, cao cả, vĩ đại.

            Cuộc sống của chị đầy gian nan, vất vả, nắng mưa nhưng chị vẫn “giữ thói quen dậy sớm”-một người có trách nhiệm, chăm chỉ, chịu khó và chịu khó. Đối với tôi, ngọn lửa của bà rất quan trọng:

            “Bếp nhỏ ấm nồng tình khoai sắn. Đùm nồi nếp mới này chung niềm vui Đánh thức cảm xúc tuổi thơ”

            Xem Thêm: Cảm hứng chủ đạo của bài thơ Tây Tiến là nỗi nhớ da diết của Quang Dũng hay nhất

            Mỗi lần đốt lửa là thắp sáng mọi thứ: thắp lên tình yêu thương cháu, thắp lại trong lòng bà niềm vui mỗi độ giao mùa, xây dựng tình làng nghĩa xóm láng giềng. Những người hàng xóm và đặc biệt là cô ấy đã mang lại tất cả những kỷ niệm thời thơ ấu của tôi. Để rồi từ ngọn lửa bà thắp lên, tôi đã trưởng thành cả về thể chất lẫn tinh thần, bay cao bay xa hơn… Từ ngọn lửa thiêng ấy, tôi càng biết ơn công lao của bà. Cô ấy là người nuôi dưỡng tâm hồn tôi và là người chắp cánh cho những ước mơ của tôi.

            Rồi khi rời xa cô ấy và có một cuộc sống hiện đại, viên mãn, tôi vẫn không thôi nghĩ về cô ấy, một điều sẽ không bao giờ thay đổi, mãi mãi khắc sâu trong tâm trí tôi:

            Nhưng vẫn nhớ nhắc ngày mai mở bếp chứ?

            <3 Người bà đi vào tâm trí nhà thơ và được ông dành cho bà sự yêu thương, kính trọng. Bài thơ này cũng đang nhắc nhở mỗi chúng ta: hãy luôn trân trọng những người xung quanh ta, vì họ chính là cuộc sống của ta.

            Phân tích hình ảnh người bà bên bếp lửa – ví dụ 5

            Nhà thơ lớn lên trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, những năm tháng xa quê đã là nguồn cảm hứng cho nhà thơ viết bài thơ về bếp lửa và tình yêu cô cháu gái. Thánh. Và hình ảnh người bà sẽ luôn sống mãi trong lòng người đọc, một người phụ nữ Việt Nam đã âm thầm hy sinh, hết mực yêu thương con, thắp lên trong lòng chúng ta ngọn lửa niềm tin không thể tắt đối với đứa cháu thân yêu của mình. Tôi có một cảm giác nghẹt thở. Tình yêu cháu gái thánh thiện và tuyệt vời.

            Bài thơ mở đầu bằng ngọn lửa bập bùng tỏa sương sớm, ấm áp gắn liền với hình ảnh người bà thầm lặng ngày ngày thắp lại ngọn lửa sưởi ấm trái tim những người bà yêu thương. Người bà hiện lên trong hình ảnh đứa cháu chắt, khi đất nước nghèo khó, loạn lạc, bà đã chắt chiu từng hơi ấm bằng trái tim mình. Bà vẫn lặng lẽ, đôi mắt long lanh sương khói, nhưng bà đã trao trái tim già cỗi của mình để nuôi cháu, hay mầm non tương lai của đất nước và đặt hy vọng cho sự phát triển của đất nước. Trong khổ thơ sau, người bà hiện lên qua lời kể của người cháu về những kỉ niệm thời thơ ấu của mình. Cô như người mẹ hiền, hàng ngày nuôi nấng, chăm sóc, bảo vệ các cháu. Có lẽ dưới sự chăm sóc, yêu thương, đùm bọc của ngoại, nỗi nhớ xa nhà, thiếu thốn tình thương của cha mẹ đã nguôi ngoai.

            Chị cũng là hình ảnh tiêu biểu của người phụ nữ Việt Nam, dũng cảm, mạnh mẽ, hy sinh tình riêng, đặt tình chung lên hàng đầu. Khi ông nói với cháu trai sẽ gọi điện về nhà, đừng nói với ông điều này điều kia, chỉ nói gia đình bình an. Biết bao khó khăn, biết bao cơ cực, vất vả, chị đều dồn hết vào tận đáy lòng, để nơi tiền tuyến xây dựng hậu phương vững chắc. Cô mang vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam truyền thống, sẵn sàng hy sinh mọi khổ đau vì yêu, đặt tình yêu thương cộng đồng lên hàng đầu, đó chưa phải là biểu hiện cao nhất của lòng yêu nước, yêu đấu tranh, yêu lẽ sống. Internet? Thơ ca Việt Nam dường như thổi sức mạnh của lòng yêu nước, lòng dũng cảm và đức hy sinh cao cả vào tâm hồn người đọc qua hình ảnh những người bà.

            Càng về cuối, cảm xúc trào dâng càng mạnh mẽ, khiến hình ảnh người bà càng chân thực, sống động hơn trước, làm nổi bật phẩm chất cao đẹp của cả bài thơ với từng cử động của bà. Cô là người thắp lên ngọn lửa, giữ cho nó tồn tại và cháy mãi. Chính nàng đã nhóm lên ngọn lửa ấm áp của hiện thực, nhưng trên hết, nàng cũng nhóm lên ngọn lửa yêu thương, sưởi ấm cho anh trong sự yếu đuối, nấu khoai sắn cho anh, cho anh no bụng, cùng anh đoàn kết. Tình làng nghĩa xóm. Vì vậy, trái tim cô là ngọn lửa của niềm tin, ngọn lửa của sự chiến thắng trong tình yêu, và ký ức tuổi thơ là gánh nặng nâng đỡ anh đến tương lai. Và rồi, dù em đi xa, trăm chuyến tàu bốc khói, trăm nhà bật điện, anh vẫn nhắc em “Mai em mở bếp nhé?”.

            Như vậy, bằng tài năng và tấm lòng chân thành của mình, nhà thơ Việt Nam đã tạo nên hình ảnh người bà đẹp đẽ, thiêng liêng trong lòng người đọc. Hình ảnh người bà gợi cho ta nhớ đến tình mẫu tử thiêng liêng và vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam giàu lòng yêu nước, sẵn sàng hi sinh lợi ích cá nhân vì tinh thần dân tộc.

            Phân tích hình ảnh người bà trong bếp lửa – văn mẫu 6

            Cái bếp ở bang việt là tập hợp những kỉ niệm tuổi thơ thân thương, và quan trọng nhất, luôn gắn liền với người bà kính yêu. Chỉ có một bài thơ bảy câu nhưng đã nói lên những phẩm chất cao đẹp, cao đẹp của nàng. Bà cũng là biểu tượng cho tình mẫu tử vĩ đại của Việt Nam, luôn hy sinh hết lòng vì con cháu. Tất cả những vẻ đẹp ấy đều được thể hiện chân thực và trọn vẹn nhất trong thơ tình.

            Hình ảnh bà trong kí ức tuổi thơ của em hiện lên thật gần gũi, thiêng liêng với tình yêu thương, đùm bọc, che chở vô bờ bến. Và như vậy, qua từng khổ thơ, từng chữ, tác giả bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc và lòng tự hào về những đức tính, đức hi sinh của bà.

            Ba câu thơ đầu với hình ảnh bếp lửa là nguồn cảm hứng cho hình ảnh người bà thân yêu: lửa cháy trong sương mai/ lửa ấm/ Thương bà biết bao nhiêu nắng mưa. Một lò sưởi bập bùng ánh đèn lấp lánh trong buổi sớm mai gợi nhớ một điều gì đó rất gần. Từ “đáng yêu” không chỉ diễn tả sự khéo léo của cô bé khi nhóm lửa mà còn thể hiện sự bao dung, nhân hậu trong từng cử chỉ. Từ hình ảnh bếp lửa, những cảm xúc chân thật được bộc lộ, tác giả chợt xuất hiện: Thương em biết bao nhiêu nắng mưa. Đây là bài thơ chứa đựng nhiều tình cảm chân thành, là hình ảnh ẩn dụ nắng mưa, tượng trưng cho những vất vả của cuộc đời bà. Đồng thời cũng là nỗi ám ảnh không nguôi trong lòng người Việt Nam. Hình ảnh cô dịu dàng, sâu lắng, khí chất cao đẹp được thể hiện trọn vẹn trong khổ thơ sau.

            <3 Cái đói đã giết chết biết bao người Việt Nam trong những năm cả nước sống trong đói nghèo, vậy mà mẹ vẫn cần mẫn nuôi đàn cháu khôn lớn. Những năm đói kém đi qua hiện rõ hơn bao giờ hết trong những biểu hiện đặc trưng của cái đói, cái khát và hình ảnh ám ảnh cha ông cưỡi cỗ xe khô trên con ngựa khô héo. Mỗi lần nghĩ lại, mũi tôi vẫn đau. Khổ thơ không một lần nhắc đến chị nhưng vẻ đẹp của chị vẫn còn đó, vẫn cao cả và đẹp đẽ, đó là vẻ đẹp của sự hy sinh thầm lặng. Bà là cây cổ thụ cao lớn, che chở cho cháu và cả gia đình trước giông tố cuộc đời. Vóc người nhỏ bé nhưng ý chí và sự hi sinh của cô thật to lớn.

            Bà không chỉ là người gánh vác, lo toan cho gia đình mà còn là người nuôi nấng cháu khôn lớn. Bà vừa là bà, vừa là người bảo bọc, che chở cho các cháu của mình. Tám năm bố mẹ đi công tác xa nhà, tám năm ấy là tám năm tôi được sống trong vòng tay ấm áp yêu thương của mẹ. Bà có một tình yêu thầm lặng, hàng ngày bà dặn dò, dạy bảo: Cháu ở với bà, bà cho cháu nghe/ Bà dạy cháu làm, bà lo cho cháu ăn học. Chính bà là người nuôi dưỡng tâm hồn tôi, kể những câu chuyện xứ Huế, nhắc nhở những nỗi đau mất mát của truyền thống gia đình và dân tộc. Cô ấy cũng nhờ tôi dạy dỗ cháu từng chút một để cháu lớn lên, trưởng thành hơn trong suy nghĩ và nhân cách. Hàng loạt lời bà nói, dạy dỗ, chăm sóc thể hiện tình yêu thương, sự tận tụy vô bờ bến của bà đối với các cháu.

            Không chỉ vậy, bà còn là trụ cột vững chắc của gia đình, là hậu phương cho con cháu yên tâm công tác. Dù giặc đốt làng, dù chiến tranh ác liệt hơn, bà vẫn vững vàng trước thử thách: bà vẫn kiên định nói với cháu rằng cháu đang ở trong vùng chiến sự, cháu còn có việc phải làm. . Viết thư đừng nói với anh điều này/ báo cho anh biết nhà đã yên bề gia thất. Thơ, như cô nói, dung dị và chân chất như vậy nhưng lại có tác động rất lớn đối với mỗi chúng ta. Bà không chỉ là chỗ dựa cho đứa cháu còn non nớt, dạy cháu biết đọc mà còn là chỗ dựa vững chắc cho các con ông yên tâm công tác nơi chiến trường. Hình ảnh bà làm ta liên tưởng đến người bà trong bài thơ “đò len” của Nguyễn Việt: Bom tôi giời, nhà bà bay đi/Chùa bay đi, chùa chiền hết/Thánh Phật rủ nhau đi đâu/Bà tôi đi về đâu bến Bán trứng.Dưới mưa gió chiến tranh, lòng bà vẫn vững vàng.Tình yêu thương, lòng bao dung và đức hy sinh là sức mạnh giúp bà vượt qua mọi khó khăn, gian khổ.

            Bản thân đẹp nhất, thiêng liêng nhất, cao cả nhất, nàng là người khơi dậy những ước mơ và hi vọng, và nàng đã truyền lại cho hậu thế sức mạnh phi thường của mình: sớm trở lại với ngọn lửa của mình. lò sưởi / Ngọn lửa trong tim tôi luôn âm ỉ / chứa ngọn lửa niềm tin bền bỉ. Trong lòng chị luôn có một niềm tin bền bỉ, trường tồn và bất diệt. Ngọn lửa của kỉ niệm và tình yêu sẽ nâng bạn lên và thắp sáng bạn trên mọi nẻo đường. Đi cùng với hình ảnh “ngọn lửa”, các từ chỉ thời gian: “chiều, sáng, tối” và các động từ “ấm”, “chuẩn bị”, “chứa đựng” khẳng định ý chí, nghị lực sống của chị, đồng thời cũng thuộc giai đoạn giữa của Chiến tranh Phụ nữ Việt Nam. Ở phần tiếp theo, tác giả mượn một loạt lời nhắn nhủ của nhóm: Cô vẫn giữ thói quen dậy sớm/ nhóm lửa ấm trong nhóm/ thương nhóm khoai lang khoai/ nhóm xoong nồi để chia sẻ niềm vui / nhóm, thậm chí cả những cảm xúc thời thơ ấu. Từ hành động của mình, em đã đánh thức những điều thiêng liêng, cao quý nhất ở con người: đó là tình yêu thương, hạnh phúc; tình thôn quê sẻ chia buồn vui, những tình cảm, ước nguyện đẹp đẽ nhất của tuổi thơ. Nhờ có bà mà tôi biết sẻ chia, thủy chung với làng, với nước.

            Tác giả thể hiện ba bức chân dung cao quý, cao đẹp và vô cùng đẹp đẽ bằng sự kết hợp linh hoạt giữa tự sự, miêu tả và biểu cảm, hồi tưởng và suy ngẫm. Thân thiện và mộc mạc. Chị là mẫu mực của người phụ nữ Việt Nam dũng cảm, cần cù và đức hy sinh. Đồng thời bài thơ nhắc nhở mỗi chúng ta phải biết yêu quý, kính trọng ông bà và những người thân trong gia đình.

            Phân tích hình ảnh người bà trong bếp lửa – Văn mẫu 7

            Từ lâu, những phẩm chất cao đẹp của người phụ nữ đã khơi dậy biết bao cảm xúc, biết bao văn nghệ sĩ đã sáng tác nên những vần thơ hay về người bà, người mẹ. Và trong tiếng Việt, bài thơ “Bếp lửa” cũng góp một vần thơ đẹp về hình ảnh người bà – một người phụ nữ nhân hậu, bao dung, thương con, cháu chắt.

            Bài thơ này ra đời năm 1963 khi Việt đang là sinh viên luật ở Liên Xô nên bài thơ này là sự hồi tưởng về những kỉ niệm tuổi thơ bên bếp lửa thân thương với sự nâng niu, yêu thương của mẹ. Qua đó, người cháu bày tỏ tình cảm yêu quý, kính trọng, biết ơn đối với bà ngoại và với gia đình, quê hương, đất nước.

            Đầu tiên là hình ảnh “lò sưởi” – nơi gợi lên nỗi nhớ nhung, kỉ niệm về người bà kính yêu. Ở phương xa, người cháu luôn hướng về quê hương, nơi có người thân, họ hàng, bà nội và những kỉ niệm tuổi thơ. Và tâm trạng nhớ nhung ấy bắt đầu từ hình ảnh “bếp lửa” thân thương:

            <3

            Hình ảnh bếp lò “đùa với sương mai” đầy hiện thực, gợi liên tưởng đến hình ảnh ngọn lửa bập bùng cháy trong sương sớm. Những đốm lửa hồng đầy ắp tình yêu thương được nhóm lại bởi bàn tay hiền lành, chăm chỉ, khéo léo và trái tim nhỏ bé của người bà. Đồng thời, ngọn lửa cũng le lói trong tâm trí, đọng lại trong nỗi nhớ nhà thơ, được nâng niu, trân trọng, nâng niu. Nhờ đó đánh thức những ký ức đẹp đẽ của đứa cháu về người bà thắp lửa mỗi sáng:

            Tôi yêu bạn và tôi biết thời tiết nắng như thế nào.

            Cụm từ “biết bao nắng mưa” diễn tả sự vất vả, gian lao, vất vả, hi sinh của người bà. “Tình” là tình cảm chân thành, xuất phát từ trái tim chan chứa yêu thương, sẻ chia, chứa đựng lòng kính trọng, biết ơn sâu sắc và nỗi nhớ da diết đối với bà.

            Trong thời chiến, bao gia đình phải ly tán, thậm chí sinh tử. Và ở Việt Nam, một đứa trẻ phải sống dưới bom đạn của kẻ thù và phải chịu nỗi đau bị chia cắt khỏi cha mẹ từ khi còn nhỏ. Vì bố mẹ Việt cũng tham gia cách mạng nên mọi việc trong gia đình, Việt đều sống dưới sự yêu thương, chăm sóc, nâng niu của người bà ngoại yêu thương. Vì vậy, với tấm bằng Việt Nam, cô chính là mái ấm của mình, là chỗ dựa vững chắc đầy yêu thương và tin tưởng để Việt Nam lớn lên và trưởng thành trong những năm Kháng chiến:

            Bố mẹ bận đi làm, em ở với chị, chị bảo em nghe chị dạy làm, chị chăm em, đọc mà phát cáu, nghĩ thương chị vất vả, tu làm sao. ! Không ở đây để đi cùng cô ấy…

            Bên bếp lửa, mẹ kể chuyện, kể lể, dạy dỗ, chăm sóc cho tôi. Động từ: “Bà dặn, bà dạy, cháu chăm” thể hiện sâu sắc tình thương yêu vô bờ bến của người bà đối với cháu. Vì vậy, mẹ đã trở thành nguồn hơi ấm, sự an ủi, nuôi nấng, che chở, duy trì tổ ấm gia đình, là sự kết hợp cao quý, thiêng liêng của tình cha, tình mẹ, tình thầy trò giữa những bộn bề công việc của cha mẹ trong suốt những chặng đường dài . Vì vậy, Tôn Tử không bao giờ quên khắc ghi công ơn ngoan đạo của bà: “Nhìn bà vất vả nhóm lửa”. Chỉ một từ “yêu” thôi cũng đủ gói gọn tất cả tình yêu thương, lòng kính trọng và lòng biết ơn sâu sắc mà người cháu dành cho bà của mình. Trong những năm tháng đất nước có chiến tranh, những gian khổ, bi thương, biết bao đau thương mất mát luôn in đậm trong tâm trí người cháu. Và có một kỷ niệm trong ký ức mà cháu tôi dù lớn lên cũng không bao giờ quên:

            Khi ấy quân giặc đốt làng thiêu rụi, láng giềng tứ phương lầm lũi trở về. Giúp bà dựng lại mái nhà tranh, nó vẫn còn chắc chắn, bà nhờ đứa cháu sửa lại. Này thì nói chuyện đó thôi, cứ nói là gia đình yên ấm đi! “

            Khi giặc kéo bà vào làng đập phá nhà cửa, làng xóm, chịu bao đau đớn nhưng bà vẫn âm thầm chịu đựng, cố gắng đứng lên bảo vệ mình dưới sự đùm bọc, giúp đỡ của dân làng. .Bà không muốn con trai mình ở vùng chiến sự biết rằng công việc của bà ở nhà sẽ cản trở công việc của quân đội. Đó không phải là phẩm chất cao quý của một bà mẹ Việt Nam anh hùng thời chiến sao. Ở đây chúng ta được đọc về những hy sinh thầm lặng, cao cả và thiêng liêng của những người bà, người mẹ nơi hậu phương luôn gánh vác gánh nặng cho con, cho nước, chống giặc ngoại xâm, đưa dân tộc tự do vươn ra thế giới. Lời dặn dò của bà nội vẫn được người cháu ghi nhớ, khi người cháu viết thư cho bố, ông đã trích dẫn nguyên văn và trực tiếp nhắc lại, điều này cho thấy phẩm chất của bà nội đáng quý biết bao. Vì vậy, ở đây chúng ta mới thấy hết được những chiến công to lớn mà các bà mẹ Việt Nam đã làm để chống lại quân xâm lược. Chiến thắng đó không chỉ có công lao trực tiếp của các chiến sĩ tiền tuyến mà còn có công lao to lớn của những người phụ nữ ở hậu phương. Thế mới thấy, ở đây ta thấy tấm lòng của Người rộng lớn nhường nào, không chỉ cho con cháu mà còn cho tất cả mọi người, cho quê hương, đất nước tươi đẹp này.

            Sau khi hồi tưởng lại tuổi thơ với bà ngoại, người cháu tiếp tục suy tư, ngẫm nghĩ về cuộc đời của chính mình qua hình ảnh bếp lửa:

            <3

            Từ “lò sưởi” trong bài thơ khiến người ta liên tưởng đến “ngọn lửa” mang ý nghĩa trừu tượng, khái quát. Ngọn lửa chị nhóm lên mỗi sớm mai không phải là thứ nguyên liệu tự nhiên thuần túy mà được tác giả nâng lên và trở thành biểu tượng của tình yêu, niềm tin thủy chung trong sáng, nồng nàn. Từ “một ngọn lửa” vừa có ý nghĩa nhấn mạnh sự sống bất diệt của ngọn lửa, vừa có ý nghĩa thể hiện tình yêu thương của người mẹ đối với đứa cháu của mình. Bếp lửa là hình ảnh khúc xạ của tâm hồn, ý chí và sức sống phi thường của bà. Như vậy, bà không chỉ là người thắp và giữ lửa mà còn là người gìn giữ và truyền lại cho đứa cháu trai yêu quý của mình. Đó là ngọn lửa của sự sống và niềm tin của thế hệ mai sau.

            Phân tích hình ảnh người bà trong bếp lửa – Văn mẫu 8

            Chỉ là tiếng gà gáy nhảy nhót trưa hè, ánh lửa bập bùng trong sương sớm… mà biết bao nhiêu là tình. Có lẽ điều đơn giản và bình dị nhất chính là chiếc chìa khóa tâm hồn, chiếc chìa khóa tình cảm chân thành không thể đánh đổi bằng bất cứ giá trị tầm thường nào. Nếu như tiếng gà gáy trưa xuân đánh thức những kỉ niệm về bà và cô cháu gái xinh đẹp của tôi thì ngọn lửa ấy sẽ đốt cháy cả một chuỗi sự kiện đã qua đầy ắp kỉ niệm trong lòng tôi, khẳng định thêm tình thương và nỗi nhớ của tôi và bà. Theo mạch cảm xúc của nhân vật trữ tình, ta cảm nhận được ánh sáng của bếp lửa, hơi ấm huyền diệu, thiêng liêng của tình bà cháu, đặc biệt ta thấy được chân dung người bà trong bài thơ thật đẹp, ánh lên màu sắc cổ tích.

            Bếp lửa là lời tâm sự của người cháu nhớ tình mẫu tử của bà nội, bày tỏ lòng ngưỡng mộ, ngưỡng mộ và suy ngẫm sâu sắc đối với bà nội. Mạch cảm xúc của bài thơ diễn ra tự nhiên, từ hồi ức đến hiện tại, từ thăng hoa đến chiêm nghiệm: hình ảnh bếp lửa gợi lại những năm tháng tuổi thơ đã cùng em tám năm chung sống, bộc lộ bao vất vả, khó khăn mà hình ảnh người bà đã dành cho. đứa cháu yêu, đứa cháu lớn mới nghĩ đến và hiểu được cuộc sống bình dị mà cao cả của bà trong kí ức của mình, đặt nỗi nhớ da diết của bà.

            Lò sưởi và bao ấm áp đã trở thành hình ảnh khơi nguồn cho dòng cảm xúc của nhân vật trữ tình – Tôn Tử. Ngọn lửa bùng cháy, nhen nhóm, lan tỏa, cháy mãi, hồi tưởng về ký ức tuổi thơ, sáng ngời chân dung người bà:

            Một đống lửa đung đưa trong sương sớm, một đống lửa ấm áp, đầy ắp những đứa cháu nhân hậu, bao nhiêu nắng mưa em có biết không?

            Cụm từ “đốt lửa” như điệp khúc mở đầu bài thơ. Trong sương sớm lành lạnh, bếp lửa dường như chiếm hết không gian và trở nên thật ấm áp. “Chờ sương sớm” không chỉ gợi hình ảnh bếp lửa quen thuộc với mỗi gia đình Việt Nam vào mỗi sớm mai mà còn gợi hình ảnh bếp lửa bập bùng trong kí ức tuổi thơ. Từ láy gợi tả sự kiên nhẫn, đôi bàn tay khéo léo và tấm lòng rộng mở của cô bé. Các điệp từ “chờ chơi”, “xóm iu” được liên từ và diễn tả chính xác dòng cảm xúc được gợi lên từ hình ảnh bếp lửa. Từ cội nguồn này, cả một quá khứ đầy ký ức được đánh thức trong tâm trí và thiền vị của người cháu.

            Hình ảnh người bà thể hiện bao vất vả và phẩm chất đáng quý qua dòng hồi ức và suy nghĩ của nhân vật trữ tình. Nghĩ đến em lại nhớ về tuổi thơ, có biết bao kỷ niệm khi sống bên em :

            Lên bốn tuổi đã quen mùi khói Năm ấy đói khát cha đánh xe khô con ngựa gầy Chỉ nhớ mùi khói, và mắt tôi ươn ướt, đến bây giờ nghĩ lại vẫn thấy nóng ran!

            Khổ thơ dài ngắn thất thường, về cuối đoạn, nhịp câu thơ chùng xuống như muốn nhấn mạnh thêm những gian khổ mà hai người đã phải chịu đựng. Kể từ đây, ký ức đưa chàng trai trở về quá khứ, với một cảm giác chân thực không gì sánh bằng “Nhìn lại sống mũi vẫn nóng hổi!”. Cơn đau buốt trên sống mũi từ hai mươi năm trước chợt ập đến. Có phải quá khứ của bạn vẫn còn sâu sắc, nguyên vẹn và không thể xóa nhòa nên nó hiện lên và trở nên sống động.

            Có thể nói tuổi thơ của tôi gắn liền với một giai đoạn lịch sử đau thương nhưng hào hùng của dân tộc. Tuổi thơ ấy trải qua thử thách chung của cuộc kháng chiến chống Pháp. Trong hoàn cảnh “Bố mẹ bận công việc”, em được sống trong sự yêu thương, chăm sóc, che chở, dạy dỗ của cô:

            Tôi sống với bà ngoại, bà kể, bà dạy tôi làm việc, bà nuôi tôi ăn học

            Trong hoài niệm tuổi thơ, hình ảnh bếp lửa quen thuộc luôn gắn liền với hình ảnh người bà thân yêu. Nhắc đến bà là nghĩ đến lửa, hình ảnh bà và lửa luôn bổ sung cho nhau. Nỗi nhớ nhà của cháu và bà cũng là nỗi nhớ quê hương đất nước.

            Từ những kí ức tuổi thơ về bà và bếp lửa, người cháu ngẫm nghĩ về cuộc đời, lẽ sống của mình. Trong ký ức tuổi thơ, hình ảnh bếp lửa gần gũi, thân thuộc luôn gắn liền với người bà cần cù, thương người, đảm đang:

            Mấy chục năm nay bà vẫn có thói quen dậy sớm.

            Từ hình ảnh bình dị và quen thuộc của lò sưởi, tôi nhận ra một điều gì đó thật lạ lùng và thiêng liêng. Ngọn lửa trên tay cô chan chứa tình yêu thương sẽ làm bạn bừng dậy và thắp lại tình cảm của tuổi thơ.

            Hơn thế nữa, cô ấy là một người phụ nữ yêu thương và hy sinh. Chị là hình ảnh vẻ vang của phụ nữ Việt Nam trong kháng chiến chống Nhật. Chị âm thầm, lặng lẽ hy sinh cho đất nước:

            <3

            Xem Thêm : Câu kể là gì?

            Trong những năm tháng chiến tranh, tôi lớn lên và trưởng thành trong tình yêu thương, sự hy sinh cao cả, sự chăm sóc, đùm bọc của ngoại:

            <3

            Hình ảnh bếp lửa được nhà thơ liên tưởng như ngọn lửa tình đầy ý nghĩa. Nếu như ngọn lửa là biểu hiện của cuộc sống yên ả, thanh bình của người cháu thứ hai thì phạm vi của ngọn lửa rộng hơn, đó là sức sống tình yêu và niềm tin của bà vào cuộc sống của người cháu thứ hai.

            <3

            Trong căn bếp ấm áp tình thương với khoai sắn. Những nồi xôi mới, chung niềm vui đánh thức cảm xúc tuổi thơ

            Từ “nhóm” được lặp lại nhiều lần trong câu thơ khẳng định bà không chỉ là người nhóm lửa mà còn là người giữ lửa, truyền lửa, thắp lên cho bà cháu ngọn lửa tình yêu, nghị lực, niềm tin, giúp con vững bước trên đường đời. Bà không chỉ chăm sóc cơ thể của anh ấy mà còn khiến tuổi thơ của anh ấy đẹp đẽ và kỳ diệu như một câu chuyện cổ tích. Một người bà có tấm lòng nhân hậu, một người bà vĩ đại đã đánh thức, đánh thức, giáo dục và đánh thức tâm hồn tôi để mai sau tôi khôn lớn nên người. Ta có thể thấy một người bà như thế trong tiếng gà trống trưa xuân:

            Tiếng gà gáy buổi trưa mang lại bao nhiêu hạnh phúc? Đêm đó khi về đến nhà, tôi có một giấc mơ màu trứng. Với cháu, ngọn lửa ấy thật lạ và thánh: Hỡi ngọn lửa lạ và thánh!

            Cả bài thơ, tác giả nhắc đến hình ảnh bếp lửa đến chục lần. Giọng thơ khẩn thiết, mạnh mẽ như người cháu trút bầu tâm sự với bà. Hình ảnh ngọn lửa thiêng liêng, lạ lùng bởi bếp lửa luôn hiện hữu, nó gắn liền với những năm tháng tuổi thơ của em, cùng với hình ảnh người bà. Bà và ngọn đuốc đã nâng tôi dậy, thắp lên niềm tin và ước mơ, là điểm tựa tinh thần cho tôi. Bài thơ này là một dòng từ trái tim của Tôn Tử, bày tỏ niềm tự hào và lòng biết ơn sâu sắc của mình đối với bà ngoại, quê hương và đất nước.

            Phân tích hình ảnh người bà trong bếp lửa – văn mẫu 9

            Bài thơ tiếng việt về bếp lửa viết về người bà trong gia đình đầy tình yêu thương và đức hi sinh, là một trong những bài thơ đã ăn sâu vào tâm hồn tuổi thơ của chúng ta. Hình ảnh người phụ nữ đoan trang và hình ảnh ngọn lửa là hai biểu hiện của một hồn thơ đẹp, được thể hiện cô đọng qua những dòng sau: Sáng tối bếp lửa bà nhóm lên… lửa thiêng!

            Từ “lò sưởi” đến “ngọn lửa”. “Ngọn lửa bà” mỗi sáng và tối, ngọn lửa của “lòng bà luôn sẵn sàng”, ngọn lửa của “niềm tin” về sự ấm áp và hạnh phúc:

            <3

            Bài thơ mang ý nghĩa sâu sắc, ca ngợi những phẩm chất cao quý của người bà, cũng là người phụ nữ Việt Nam. Ngọn lửa yêu thương bà “đã ấp ủ luôn” cho con cháu. Ngọn lửa niềm tin mãnh liệt, bền bỉ suốt đời của “bà” sẽ luôn được “bà” thắp lên mãi mãi.

            Trái tim cô, tình yêu của cô thắp lên ngọn lửa ấy. Nghệ thuật sử dụng điệp ngữ: “Sớm muộn gì”, “Bà thắp…bà ủ”, “Ngọn lửa… ngọn lửa…” Cách diễn đạt độc đáo, có giá trị thẩm mỹ Thể hiện niềm tự hào, biết ơn người bà kính yêu dành cho mình hy sinh và kiên trì.

            Với tình yêu thương, sự hy sinh, sự kiên trì và nhẫn nại của mình, mẹ cô là nguồn nhiên liệu vô tận thắp lên ngọn lửa bất diệt đầy cảm hứng đó. Bảy câu tiếp theo diễn tả suy nghĩ của tôi về ha và nhóm lửa. Trong khổ thơ đầu có câu: “Thương em biết bao nhiêu nắng mưa”, ở đây, tôi thú thật: “Đời em biết bao nhiêu nắng mưa”. “Bận rộn… nắng mưa” là cuộc sống cần lao, vất vả.

            Nghèo đói khiến cô ấy phải làm việc chăm chỉ cả đời. Từ “bướng bỉnh” thể hiện lòng nhân hậu, tinh thần hi sinh của bà, là chỗ dựa của con cháu và mái ấm thân thương của chúng. Vì hạnh phúc của con cháu, việc đi ngủ muộn dậy sớm đã trở thành “thói quen” của bà suốt “mười chục năm” trong suốt cuộc đời:

            Hàng chục năm nay bà vẫn giữ thói quen dậy sớm.

            Cảm xúc trào dâng khi nhà thơ nghĩ đến bà, nghĩ đến ngọn lửa và bà thắp lửa. Một bản tóm tắt và ngưỡng mộ cuộc sống của cô, tình yêu của cô. Cô ấy là nguồn ấm áp và hạnh phúc, là tình yêu thời thơ ấu. Ngọn lửa của kiếp người mà cô đốt lên là một ngọn lửa “kỳ lạ và thần thánh”.

            Từ điển: “Nhóm lửa”, “Nhóm tình yêu”, “Qunxin Nuomi”, “Nhóm tình yêu”… Bốn giọng nói vang lên. Trong câu cảm thán đã khắc sâu hình ảnh người bà, tiêu biểu cho những phẩm chất cao quý của người phụ nữ Việt Nam, đồng thời bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn vô hạn. Suy nghĩ sâu sắc đẹp đẽ. Ngôn ngữ biểu cảm. Hình ảnh cụ bà và bếp lò lộng lẫy:

            <3

            Những từ như “em yêu”, “yêu thương”, “ngọt ngào”, “yêu thương” thể hiện tình yêu thương, niềm hạnh phúc, con cháu sum vầy mà bà mang đến cho mình bằng ngòi bút văn chương. Bà đã “bỏ mặc tình cảm tuổi thơ”, nuôi dưỡng, thắp sáng những ước mơ, hoài bão của con cháu. Cô đã thắp lên ngọn lửa ấm áp của tình yêu.

            Nhà thơ sung sướng thở dài đầy tự hào: “Ôi cái lò linh thiêng lạ lùng! Thơ hay viết về người mẹ hiền này thì nhiều, nhưng thơ viết về mẹ thì không nhiều. Hình ảnh “ngọn lửa” và “ngọn lửa” thật gần gũi. trái tim của mỗi chúng ta.

            Cô ấy yêu tôi bao nhiêu thì tôi cũng tôn trọng và đánh giá cao cô ấy bấy nhiêu. Bài thơ về bếp lửa này thể hiện một nét đẹp rất cảm động và trong sáng trong gia đình Việt Nam, trong đạo lí dân tộc và trong tâm hồn của mỗi chúng ta. Lời bài hát: “Thương em biết bao nắng mưa” đã trở thành câu hát trong ký ức của bao người gần xa…

            Phân tích hình ảnh người bà bên bếp lửa – Ví dụ 10

            Bằng Việt là một nhà thơ cùng trang lứa với các nhà thơ trưởng thành thời chống Mỹ. Thơ Việt Nam chứa đựng một cảm xúc rất lớn, đó là tình yêu. Tác phẩm tiêu biểu cho hồn thơ của ông là bài thơ “Bếp lửa” được tác giả viết khi ông đi du học năm 1963. Trong hoàn cảnh xa quê hương, xa người thân, tình cảm tuổi thơ mới có thể đâm chồi nảy lộc, có thể chịu được sự suy ngẫm lâu dài của tác giả. Hình ảnh người bà giữa dòng cảm xúc vô tận của đứa cháu được thể hiện qua những dòng hoài niệm bất tận, da diết.

            Như một quy luật nghiệt ngã của sáng tạo văn học nghệ thuật, ai cũng muốn viết về tuổi thơ nhưng bởi thơ về ký ức bao giờ cũng bị bao phủ bởi một không khí hoài niệm, tiếc nuối. Thấm thoát nên thường vu vơ, khó tìm được những chi tiết đặc sắc để lay động lòng người đọc. Trong tiếng Việt, ông cũng viết về những kỉ niệm tuổi thơ thuở hoa còn chớm nở, nhưng nhà thơ lại chọn cho mình một chi tiết độc đáo, giản dị mà không phải ai cũng biết: “bếp lửa”. Nghĩ đến tuổi thơ, nghĩ đến bếp lửa, tác giả nghĩ đến hình ảnh người bà thân yêu – hình ảnh xuyên suốt cả bài thơ, luôn bâng khuâng:

            “Đùa với lửa trại sương sớm. Lửa trại nồng nồng. Thương em biết bao nhiêu nắng mưa”

            Nhất định, mặc kệ không gian, mặc kệ thời gian, những gì còn lại giữa dòng đời của đứa cháu chỉ là hình ảnh của người bà. Đầu tiên, ký ức đưa các nhân vật về những năm đói khổ. Đói rét đeo bám văn chương, đói ăn đất sét (trong văn Ngô Tốt Tố), nỗi lo miếng ăn đeo bám trang viết của nam cao… đến nỗi thơ gia đình Lan Viên từng đúc kết trong một bài thơ đau xót: “Cái cả nước chìm trong cảnh đói nghèo man rợ…”

            Xem Thêm: Lý thuyết Hình hộp chữ nhật (mới 2022 + Bài Tập) – Toán 8

            Tuy nhiên, cái đói ở đây chỉ là cái cớ để tác giả nhớ lại tuổi thơ cay đắng, thiếu thốn trăm bề:

            “Lên bốn tuổi tôi đã quen mùi khói Năm ấy đói khát cha đi xe ôm Người gầy chỉ nhớ khói nhớ đôi mắt. Bây giờ nghĩ lại sống mũi vẫn nóng ran.”

            Là vì ​​khói, là vì cay đắng, hay là vì cảm giác chia ly? Từ đó, nhà thơ khẳng định tuổi thơ của mình tuy nghèo về vật chất nhưng không bao giờ thiếu thốn tình cảm gia đình.

            Từ mùi khói bếp, nhân vật trữ tình liên tưởng đến tiếng chim hót của tám năm tuổi thơ. Đoạn thơ này không khỏi làm ta liên tưởng đến tiếng “chim kêu” của nhân vật nữ chính trong bài thơ: cũng cha già, kỉ niệm của người con gái, tiếng chim hót len ​​lỏi khắp bài thơ như tiếng chim hót. Buồn mà tiếc. Ở đây, con tu hú đi vào bài thơ như một chi tiết, để thêm yêu em hơn:

            “Con ở với ngoại, bà bảo con phải nghe lời bà dạy làm, bà lo cho con ăn học, nhóm lửa, biết suy nghĩ và thương bà vất vả lắm con ạ! Không bao giờ đi đồng xa với cô ấy”

            Điều gì có thể quan trọng hơn những chi tiết tự truyện giàu cảm xúc như thế này? Câu thơ giản dị, ngôn từ đời thường, không phức tạp nhưng thơ thật như chính tiếng lòng của tình cảm yêu thương. Bà nội đã luôn ở bên cạnh tôi, dạy dỗ và chăm sóc cho cháu khôn lớn, nuôi dưỡng thể chất và tinh thần của tôi. Nhưng giờ tôi cũng đi, để cô ấy một mình:

            “Trời ơi! Cánh đồng xa không về cùng nàng”

            Bài thơ mới thê lương và thê lương làm sao! Đặc biệt là hình ảnh của bà tôi, khi nghĩ đến những năm tháng đau thương, gian khổ ấy bỗng trở nên cao cả, uy nghi. Bất chấp “quân giặc đốt làng”, bất chấp khói lửa chiến tranh và nỗi đau chồng chất, bà luôn “an ủi” với đứa cháu: “Cứ bảo gia đình bình an!”. Mẹ là vị thánh hậu phương cụ thể và sống động nhất. Dù thế nào đi chăng nữa, cô cũng không thể lung lay niềm tin bền bỉ vào tương lai:

            “Rồi sáng tối thắp lên trong lòng ngọn lửa luôn giữ một niềm tin không lay chuyển”

            Đây không còn là căn bếp, giờ đây ngọn lửa trong lòng chị vẫn không ngừng bùng cháy. Có người nói, cũng như bao người Việt Nam, cứ xoay chuyển trái tim, trái tim và tâm hồn của cô ấy. Một niềm tin bất tử lạ lùng. Chính niềm tin của bà đã được ươm mầm và truyền sang cháu con một cách tự nhiên như ngọn lửa, truyền lại cho thế hệ mai sau.

            Chính sự kết hợp, đan xen giữa các yếu tố biểu cảm, miêu tả và tự sự đã làm nên thành công của những vần thơ ca tụng bà qua dòng cảm xúc của nhân vật trữ tình. Đây là một nét vẽ quen thuộc của nhà thơ. Chính sự kết hợp tinh tế và độc đáo ấy đã làm cho hình ảnh cô thật gần gũi, những mảnh ký ức tuổi thơ hiện lên sống động, chân thực và giản dị.

            Qua dòng kí ức tinh tế ấy, nhà thơ trở về với hiện tại, càng nhớ bà, thương bà nhiều hơn:

            “Cả đời biết bao nhiêu nắng mưa, mấy chục năm nay vẫn giữ thói quen dậy sớm”

            Nhà thơ khẳng định một cách dứt khoát rằng lửa chính là hiện thân của chị, và chị cũng là ngọn lửa chị luôn nhóm lên để sưởi ấm tâm hồn nhà thơ:

            “Nhóm bếp ấm tình khoai sắn, nhóm nồi nếp mới, chung niềm vui đánh thức tình cảm tuổi thơ”

            Tình bà bao la, giản dị như sắn, ngọt ngào như sắn. Cuối cùng, nhà thơ khẳng định: “Hỡi ngọn lửa thiêng liêng lạ lùng”, đó là một dòng thơ có sức khái quát cao. Trải qua thời gian, qua bom đạn, ngọn lửa ấy vẫn cháy mãi. Nhưng hơn hết, nó còn là biểu tượng của tình cảm thiêng liêng, ân nghĩa thủy chung trong cuộc đời mỗi con người.

            Hình ảnh người bà, tình yêu thương, niềm tin yêu của bà qua hồi ức, suy ngẫm của đứa cháu lớn lên, hiểu theo nghĩa rộng là hình ảnh, tình yêu quê hương đất nước đối với chúng ta. Yêu mến, kính trọng cô là biểu hiện cụ thể của tình yêu thương của mỗi người đối với nơi mình sinh ra và lớn lên. Ai cũng có một tuổi thơ như thế này. Vậy là bài thơ đưa ta về lại những ngày xưa ta tưởng đã ngủ yên trong lãng quên.

            Phân tích hình ảnh bà và bếp lửa trong lớp học của Hươu

            Có những hình ảnh thiêng liêng vô cùng quý giá trong kí ức tuổi thơ của mỗi người, đó có thể là hình bóng người mẹ hay hát lời ru ngọt ngào, hình bóng người cha dạy dỗ sâu xa,…người bà và ngọn lửa thiêng đã ăn sâu vào lòng trong thời thơ ấu Ký ức và tình yêu và đam mê mà đứa cháu trai dành cho bà. Trong một bài thơ về lửa.

            Tác giả là người Việt Nam, tên cũ là Nguyễn Viết Bằng, sinh năm 1941 tại Hà Nội. Ông là một trong những nhà thơ trưởng thành trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Phong cách thơ của Bằng Việt Nam chứa đầy những tư tưởng và triết lý sâu sắc. Shilu được sáng tác vào năm 1963, khi tác giả đang du học xa quê hương. Tác phẩm in chung với tác giả Lữ Quang Vũ trong tập Lư hương (1968).

            Trong cả một bài thơ dài như vậy, có lẽ hình ảnh người bà và bếp lửa là kí ức trong trẻo và thiêng liêng nhất.Những câu thơ sau mang nhiều tâm tư của tác giả:

            “Rồi sáng chiều mẹ lại nhóm lửa, một ngọn lửa, lòng mẹ luôn sẵn sàng, ngọn lửa niềm tin bền bỉ… Mẹ biết bao lần trong đời, sau mấy chục năm bôn ba. nắng mưa, cho đến bây giờ, cô vẫn giữ thói quen dậy sớm, quây quần bên nhau nhóm lửa ấm, quây quần bên tình mới, khoai lang, gạo nếp, sẻ chia hạnh phúc, đánh thức Liên cảm xúc tuổi thơ… ôi, lạ lùng Và thánh—lửa!”

            Ba câu đầu, hình ảnh người bà hiện lên qua những động tác quen thuộc “sáng rồi chiều”, thắp lên ngọn lửa với một niềm tin lạ lùng. Hình ảnh bếp lửa của bà có hai tầng nghĩa: Tầng nghĩa thứ nhất là tầng nghĩa hiện thực Bếp lửa của bà là nguồn ánh sáng và hơi ấm dùng trong gia đình. ngọn lửa nơi góc bếp, nơi mẹ luôn ủ. . Bếp nhà ngoại không bao giờ nguội mà lúc nào cũng đỏ lửa, như bà nhớ đứa cháu yêu, mong cháu sớm về, vững tin đất nước sẽ sớm bình yên, cháu sẽ ở bên bà như ngày nào. Con còn nhỏ, con sẽ cùng mẹ thắp lửa ấm.

            Trong những câu thơ sau, Tôn Tử đã suy ngẫm về cuộc đời mình. Bà đã chăm cháu từ khi cháu mới 4 tuổi, cuộc đời còn nhiều vất vả, cực nhọc, bà là hiện thân của người phụ nữ chịu khó, chịu thương chịu khó, đi làm sớm, không nuôi con, nay nuôi cháu như cái này. “Ở đời trải qua biết bao nhiêu nắng mưa”, nhưng chị chưa bao giờ than thở về gian khổ. Bà làm việc cật lực, thức khuya dậy sớm, một thói quen dường như đã ăn sâu vào tâm hồn bà “mấy chục năm nay, cho đến tận bây giờ”, và bà không bao giờ quên nhóm lửa hồng nơi góc bếp và tự nấu ăn cho mình. . Bữa cơm đơn sơ cho gia đình, sắn đầy yêu thương đùm bọc. Ngọn lửa được bà thắp mỗi sáng và chiều thể hiện tình yêu thương đong đầy của bà đối với các cháu và sự đoàn kết, đùm bọc lẫn nhau của gia đình, ngọn lửa cũng là ngọn lửa khơi nguồn cho những ước mơ sâu thẳm trong lòng người cháu. Bếp lửa tưởng chừng quen thuộc, giản dị nhưng lại mang một giá trị và ý nghĩa vô cùng thiêng liêng, trong tiếng Việt tôi phải thốt lên “Ôi! Cái bếp lạ lùng và thiêng liêng”. Quả thật, qua hồi ức của người cháu, ta có thể nhận ra rằng bếp lửa và bà là những kỉ niệm quý giá nhất trong lòng người cháu, người bà như người canh giữ ngọn lửa và truyền lại cho cháu. Ngọn lửa trong tâm hồn ấy là tinh thần yêu quê hương đất nước, hăng hái ra tiền tuyến giành lại tự do cho dân tộc và của bà. Và hình ảnh bếp lửa hồng trong nhà bà mấy chục năm qua là niềm tin bất diệt của ông bà vào tương lai tươi sáng của quê hương, về tương lai đoàn tụ của ông bà. tuổi thơ bên nhau.

            Hình ảnh giản dị, trong sáng, quen thuộc cộng với giọng thơ thủ thỉ, hình ảnh người bà và bếp lửa trong kí ức của tác giả hiện lên với một tình cảm ấm áp, trân trọng. Trong bức tranh ấy còn ẩn chứa nhiều triết lý sâu sắc, niềm tin vào chiến thắng, sự tin tưởng, yêu thương của người bà dành cho đứa cháu nơi chiến trường xa là tình cảm cao cả, đáng quý nhất. . .

            Cảm nhận hình ảnh người bà về bếp lửa trong bài thơ

            <3

            Hình ảnh “lò sưởi” xuyên suốt cả bài thơ, là nơi nhớ bà. Ở phương xa, dù không có cháu bên cạnh nhưng tâm trí bà luôn hướng về quê hương, nơi có người thân, có bà và có cả những kỉ niệm tuổi thơ:

            <3

            Hình ảnh bếp lò “chờ sương sớm” là hình ảnh hiện thực, gợi liên tưởng đến hình ảnh ngọn lửa ẩn hiện cháy trong sương sớm. Bếp lửa mỗi ngày thêm rực rỡ trong bàn tay và vòng tay ấm áp của bà, bàn tay dịu dàng, chăm chỉ, khéo léo và có tấm lòng như người bà. Đồng thời, hình ảnh bếp lửa cũng vương vấn, dõi theo, ngưỡng mộ và đọng lại sâu sắc trong tâm trí nhà văn. Do đó, đánh thức những kỷ niệm đẹp đẽ của đứa cháu về người bà thắp lửa mỗi sáng. Người bà xuất hiện như một người cháu chắt, dù khó khăn nhưng bà luôn hết lòng chăm sóc cháu mình khi đất nước nghèo khó, loạn lạc. Ngoại vẫn điềm tĩnh và âm thầm nhóm lửa với ngọn lửa bếp làm cay mắt tôi, nhưng bà đã tận tụy nuôi nấng tôi bằng những điều tốt đẹp nhất. Trong khổ thơ sau, người bà hiện lên qua lời kể của người cháu về những kỉ niệm thời thơ ấu của mình.

            Bố mẹ bận đi làm, em ở với chị, chị bảo em nghe chị dạy làm, chị chăm em, đọc mà phát cáu, nghĩ thương chị vất vả, tu làm sao. ! Không ở đây để đi cùng cô ấy…

            Bà như người mẹ hiền, hàng ngày nuôi nấng, chăm sóc, bảo vệ cháu như một người mẹ. Có lẽ dưới sự chăm sóc, yêu thương, đùm bọc của ngoại, nỗi nhớ nhung, thiếu thốn tình thương của cha mẹ khi xa quê đã vơi đi phần nào. Bà nội chính là mái ấm của bà, là nơi nương tựa vững chắc, là nơi nương tựa, bình yên của các cháu bà. Do đó, cô ấy trở thành nguồn hơi ấm, sự an ủi, nuôi dưỡng, bảo vệ và duy trì trong tổ ấm gia đình, sự kết hợp cao quý và thiêng liêng của cha mẹ. Vì vậy, Tôn Tử luôn khắc cốt ghi tâm: “Đốt lửa để nghĩ việc”. Từ “yêu” thể hiện tình cảm yêu quý, kính trọng của người cháu và lòng biết ơn, tình cảm sâu sắc của người cháu đối với bà. Trong những năm tháng chiến tranh gian khổ, ác liệt, mất mát nặng nề của đất nước, mẹ đã phải chịu đựng như thế nào:

            Khi ấy quân giặc đốt làng thiêu rụi, láng giềng tứ phương lầm lũi trở về. Giúp bà dựng lại mái nhà tranh, nó vẫn còn chắc chắn, bà nhờ đứa cháu sửa lại. Này thì nói chuyện đó thôi, cứ nói là gia đình yên ấm đi! “

            Dù đau khổ nhưng bà không muốn các con biết. Đó không phải là phẩm chất cao quý của một bà mẹ Việt Nam anh hùng thời chiến sao. Sự hy sinh thầm lặng, cao cả và thiêng liêng của người bà, người mẹ luôn có công lớn nhất nơi hậu phương, là động lực để đồng bào vững vàng chiến đấu chống lại quân xâm lược. Những câu cuối của bài thơ dạt dào cảm xúc nồng nàn, mạnh mẽ càng làm cho hình ảnh người bà và bếp lửa thêm chân thực, sống động. Cô là người thắp lửa, là người giữ lửa, là người giữ cho ngọn lửa cháy mãi, là người thắp lên ngọn lửa yêu thương sưởi ấm cuộc đời tôi.Ký ức về cô là ký ức đẹp nhất, sâu đậm nhất. để rồi dù đi xa, trăm chuyến tàu, trăm nhà có điện, tôi vẫn không khỏi tự hỏi “mai mở bếp không?”.

            Cảm nhận về người bà trong bài thơ bên bếp lửa

            Từ lâu, hình ảnh người phụ nữ đã là cội nguồn của văn học Việt Nam. Những bài thơ miêu tả hình ảnh người bà, người mẹ luôn có thể chạm đến trái tim của người đọc. Hình ảnh người bà trong “bếp lò” bang việt cũng là một trong số đó.

            “Lò sưởi” được viết năm 1963, khi tác giả đang học ở Ukraina. Đây là giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đầy cam go. Bài thơ lấy cảm hứng từ hình ảnh bếp lửa giản dị, gần gũi, ấm áp cứ thế cùng người bà đi suốt nguồn câu chuyện. Nó không chỉ khắc họa hình ảnh những người bà, người phụ nữ Việt Nam với vẻ đẹp truyền thống mà còn thể hiện tình yêu, lòng biết ơn và tình cảm của người Hoa kiều đối với quê hương. >

            Hình ảnh người bà dần hiện ra ở đoạn đầu tiên của đám cháy:

            “Một đống lửa đung đưa trong sương mai, một đống lửa ấm áp, chan chứa tình thương, biết bao nhiêu nắng mưa.”

            Lò sưởi hiện ra: “Chờ sương mai”, là trong sương sớm, hay trong sương trong veo của ký ức, khi muốn ngược dòng? Ngọn lửa ấy được sưởi ấm bởi tình yêu thương, hơi ấm của bàn tay và trái tim của người đồng đội: “ngọt ngào và ấm áp”. Từ “chạm” cũng đủ làm ta cảm nhận được hơi ấm, sự quan tâm, yêu thương của người thắp lửa. Rồi ông cũng xuất hiện: “Thương bà biết bao nắng mưa” Một hình ảnh người bà “sương sớm” và “biết bao nhiêu nắng mưa” không lúc nào không cô đơn, cần cù và đầy hi sinh. của phụ nữ Việt Nam?

            Những tháng ngày chiến tranh gian khổ là những kỉ niệm khó quên trong tôi. Nhưng may mắn thay, lúc đó tôi có bà:

            “Bố mẹ bận công việc, em ở với chị, chị bảo em nghe chị dạy làm, chị lo cho em, học hành vù vù, nghĩ thương chị vất vả, có gì sai đâu”. anh! Anh không đến để cùng cô ấy Khóc trên cánh đồng xa.

            Tuổi thơ tôi thiếu thốn tình thương của cha mẹ nhưng đầy ắp sự đùm bọc của cha mẹ. Tất cả các loại hành động được liệt kê từng cái một: “Tôi đi cùng bà, bà nói chuyện, bà dạy, bà quản lý” khắc họa hình ảnh người bà rộng lượng và tốt bụng. Mẹ yêu con và mẹ là người cha, người mẹ đã che chở, dạy dỗ và nuôi nấng con nên người. Nhờ bàn tay của bạn, tôi là người như ngày hôm nay. Để rồi cả cuộc đời cô chỉ gói gọn trong hai từ “vất vả”. Tình yêu là vô tận và không nghĩ về bản thân. Từ “dẻo dai” nghe thật thấm thía và đẹp đẽ, chứa đựng cả cuộc đời bà và tình yêu thương của bà cháu. Sau này biến thành hối hận cùng hối hận, hiện tại không thể ở bên cạnh nàng, chỉ có thể nhắn một câu: “Thất Hạo, đừng tới cùng ta.”

            Đặc biệt trong những tình huống sau, hình ảnh người bà càng được khắc họa sâu sắc:

            “Giặc đốt làng cháy rụi, hàng xóm bốn phương lầm lũi trở về. Tôi giúp bà dựng lại mái nhà tranh, tôi vẫn kiên trì, để cháu tôi an cư lạc nghiệp ” Bố đang ở chiến khu, bố còn có việc phải làm, con viết à? Nói này nói nọ, chỉ nói rằng gia đình vẫn bình an vô sự! “”

            Cô ấy nổi lên như một hậu phương vững chắc. Ở hậu phương, dù còn phải chịu những mất mát nhưng bà “có thái độ kiên quyết” và “dặn dò con cháu cứ yên tâm”: “Cứ dặn gia đình là bình an rồi”. Những câu cách ngôn giản dị, quen thuộc trong ngôn ngữ hàng ngày mà thấm thía biết bao. Các bà mẹ Việt Nam là thế, họ không xông thẳng vào chiến trận, nhưng họ đã sinh ra những anh hùng, họ đã lau khô nước mắt cho con mình lên đường, còn ở nhà thì vẫn không thể. Không ngừng lo lắng cho những người thân yêu của họ trên chiến tuyến. Những chiến công sau này của dân tộc phản ánh sự hy sinh thầm lặng của những người mẹ Việt Nam anh hùng.

            Sau đó, hình ảnh của cô ấy đi vào ngọn lửa và thắp sáng:

            “Rồi chiều tối, đêm khuya, bà đốt lửa bên bếp lửa, trong lòng luôn nhen nhóm một niềm tin bền bỉ…”

            Từ “lò sưởi” cụ thể ở câu trước đến “ngọn lửa” ở câu sau đã mang một ý nghĩa tương đối khái quát, tượng trưng rồi. Ngọn lửa chị nhóm lên mỗi sáng, chiều không chỉ dùng than, củi tự nhiên mà còn là trái tim “luôn sẵn sàng” và “chứa đựng niềm tin bền bỉ”. Ngọn lửa ấy đã đốt cháy cả tuổi thơ tôi chính bởi nó được thắp lên bởi ngọn lửa của tình yêu thương, bởi sự trong sáng và thiện lương trong trái tim cô. Mẹ không chỉ là người thắp lên ngọn lửa và giữ cho nó tồn tại mà còn là người truyền lửa cho con cháu và các thế hệ mai sau.

            Tác giả bắt đầu nghĩ về cô ấy và cuộc sống của cô ấy từ đó:

            “Mười năm, mấy chục năm mưa gió, đến bây giờ bà vẫn giữ thói quen dậy sớm, nhóm bếp lửa ấm đượm tình thương, củ khoai, nồi nếp mới chia sẻ niềm vui thức dậy với cả gia đình Người đàn ông. Cảm giác tuổi thơ, ôi, lạ và thần thánh—bếp!”

            Câu “biết bao nhiêu nắng mưa” là nhắc lại những vất vả, gian khổ mà mẹ đã phải chịu đựng. Nhờ đó làm nổi bật phẩm chất cao quý và vẻ đẹp của nàng. Từ đôi bàn tay của cô đã thắp lên một “ngọn lửa ấm áp”, sưởi ấm tuổi thơ anh. Từ tay cô, tôi sưu tầm được “Tình yêu khoai sắn” rất mộc mạc, giản dị nhưng chan chứa tình cảm. Từ đôi bàn tay của bà, tình làng nghĩa xóm càng thêm nhớ nhung, yêu làng: “Hũ gạo nếp mới mẻ ta chia vui”. Cô ấy đã định hình ước mơ, hoài bão và tương lai của tôi. Điệp ngữ “cộng đồng” ở đầu mỗi câu thơ khắc họa hình bóng người bà: bà thắp lửa, gửi gắm và lan tỏa tình yêu thương, lòng biết ơn, những ước mơ, niềm tin ra xung quanh và vào cuộc sống. Để rồi người Việt Nam phải thốt lên: “Ôi! Lạ lùng và thần thánh – cái bếp”. Nó lạ và thiêng liêng bởi nó giản dị và thân thương, và sự giản dị của nó gợi lên biết bao cảm xúc và ước mơ.

            Nhờ ngọn lửa của chị mà giờ đây tôi chìm trong giấc mộng “trăm thuyền trăm lửa trăm tiệc” – cuộc sống ấm no sung túc nhưng trong lòng tôi không thể nào quên được chị, và tôi không thể nào quên được. Không thể không hỏi: “Ngày mai mở bếp chứ? ?”

            Những câu thơ dễ hiểu đã khắc họa chân thực và sâu sắc hình ảnh những người bà, người mẹ Việt Nam luôn tảo tần, cần cù, đầy đức hi sinh, tràn đầy niềm tin và sức sống. Cũng như hình ảnh người bà trong “Tiếng gà trưa” (Xuân Quỳnh) và “Đò lên” (Nguyễn Duy), bà là nguồn sức mạnh của mỗi người con, là cội nguồn của mọi thắng lợi vĩ đại của dân tộc.

            Bài thơ kết thúc trong hơi ấm và ánh sáng. Ngọn lửa của bà già từ đó vẫn cháy trong lòng người đọc…

            Hình ảnh người bà trong bài thơ bếp lửa

            “Thương bà nhớ ngày xưa, mỏ dầu cuối chợ nắng chiều mưa chiều Một mình chèo biển cả trăm chiều giông tố”

            p>

            (“Bà”, Fan Zhongyong)

            Những dòng thơ giản dị của nhà thơ Fan Zhongyong gợi lên hình ảnh người bà trong tình gia đình đầm ấm một hình ảnh nhân hậu, thân thiết và thiêng liêng. Tình cảm cao cả này cũng đã được các nhà thơ Việt Nam thể hiện qua bài thơ “Bếp lửa”. Những câu thơ mang màu sắc quá khứ, hoài niệm, hình ảnh người bà hiện lên trìu mến, đoan chính.

            Trước hết, ở đầu bài thơ, tác giả đã tái hiện cảnh nghèo khó, vất vả của người bà trong những năm tháng:

            “Lên bốn tuổi đã quen mùi khói, Năm ấy đói khát, cha đi đánh xe ngựa khô gầy, cha đi đánh xe ngựa khô gầy, cha đi đánh xe ngựa khô gầy!”

            Tác giả dùng từ “cái đói” để miêu tả hiện thực đau thương của chiến tranh gắn liền với những thiếu thốn, gian khổ – hậu quả của ách thống trị tàn bạo của thực dân Pháp đối với đất nước. đất nước của chúng tôi. Trong những năm tháng khó khăn ấy, hình ảnh người bà hiện lên trong khói lửa: “Khói trong mắt tôi chỉ nhớ”. Thời thế đã đổi thay, ấn tượng về thời gian vẫn còn đọng lại qua từ “cay”. Kỉ niệm sống với chị như quay chậm :

            “Bố mẹ đi công tác không về, con ở với bà nội, bà bảo bảo nghe lời, bà dạy con làm, bà lo cho con ăn học, con nghĩ bà vất vả rồi”

            Dù bao mùa đã trôi qua, nhà thơ vẫn không quên được hình ảnh người bà dãi nắng dầm mưa. Lời thơ giản dị mà hùng hồn diễn tả thành công những năm tháng tuổi thơ trong khói lửa chiến tranh. Thông qua nghệ thuật liệt kê, tác giả đã gợi thành công những kỉ niệm được sống trong vòng tay đùm bọc, chăm sóc của bà: “Bà bảo”, “Bà dạy”, “Bà chăm”… Mỗi dòng thơ réo rắt đều chất chứa bao kỉ niệm. Sự hy sinh của bà ngoại. Trong những năm tháng “Bố mẹ bận công việc chưa về”, mẹ là trụ cột tinh thần, là nguồn yêu thương, chất chứa sự quan tâm chăm sóc. Những câu thơ tiếng Việt của nhà thơ gợi hình ảnh người bà trong bài thơ Tiếng gà trưa của nữ thi sĩ Xuân Quỳnh:

            “Tiếng gà gáy trưa bao nhiêu hạnh phúc, đêm về em nằm mơ màu trứng gà”

            Mạch cảm xúc nối tiếp dòng kí ức về quá khứ là hình ảnh người bà được nhà thơ phản ánh và cảm nhận chân thực. Hình ảnh người bà luôn quan tâm, chăm sóc sống mãi trong ký ức bên bếp lửa, trở thành biểu tượng của tình yêu thương, sự quan tâm chăm sóc, hơi ấm:

            “Mười năm thử thách gian khổ, vẫn giữ thói quen dậy sớm”

            Tái hiện thành công cuộc sống vất vả, cực nhọc, bộn bề của người bà qua phép đảo ngữ, đặt tính từ “lừa đảo” ở đầu câu, kết hợp với cụm từ chỉ thời gian. “Cuộc sống của cô ấy”, “Nhiều thập kỷ trước”. Ngược dòng thời gian, dù cuộc sống có đổi thay nhanh chóng nhưng bà ngoại vẫn “giữ thói quen dậy sớm” và hun đúc niềm tin yêu, hy vọng trong lòng đứa cháu. Qua từng câu chữ ta thấy được tình cảm giản dị, chân thành mà sâu sắc của người cháu đối với bà của mình. Hình ảnh người bà cũng được khắc họa rất “ngọt ngào và ấm áp” với tấm lòng và tình yêu thương:

            “Nhóm lửa hồng ấm cúng, nhóm người yêu khoai, nhóm xôi nếp mới yêu nhau, sẻ chia niềm vui, truyền trao tình yêu tuổi thơ…”

            Thông qua điệp từ “nhóm”, hình ảnh người bà được tái hiện chân thực, là hình ảnh ẩn dụ cho tinh thần lao động cần cù, đức hi sinh thiêng liêng. Đối với tác giả, bà là kết tinh đẹp đẽ nhất của tình yêu thương “đoàn kết ngọt bùi”, là biểu tượng sáng ngời của sự “chia ngọt sẻ bùi” của sự sẻ chia, quan tâm chăm sóc, là chỗ dựa cho trái tim tuổi thơ của em. Giọng điệu tha thiết của bài thơ đã khắc họa thành công hình ảnh người bà luôn thường trực trong tâm trí, đồng thời thể hiện tấm lòng kính trọng, biết ơn của tác giả bằng tiếng Việt.

            Sau đó, bằng những câu thơ giản dị, giọng điệu tha thiết, sâu lắng, trong suy nghĩ, chiêm nghiệm về lòng biết ơn, yêu thương, kính trọng, nhà thơ đã vẽ nên bức chân dung người bà gắn liền với hình ảnh bếp lửa. Qua hình ảnh người bà, ta thấy được sự hi sinh, vất vả của người bà, người mẹ trong những năm tháng khói lửa.

Nguồn: https://anhvufood.vn
Danh mục: Giáo Dục