Dàn ý Phân tích nhân vật Chí Phèo trong truyện Chí Phèo (4 mẫu)

Dàn ý Phân tích nhân vật Chí Phèo trong truyện Chí Phèo (4 mẫu)

Dàn ý chí phèo

Phân tích dàn ý nhân vật Chí Hoành trong truyện Chí Đạo (4 bài văn mẫu)

Đề: Phân tích dàn ý nhân vật Chí Phiêu trong tiểu thuyết Hồng Phiêu của Tào Tháo.

Bạn Đang Xem: Dàn ý Phân tích nhân vật Chí Phèo trong truyện Chí Phèo (4 mẫu)

Bài giảng: chí phèo (Phần 2: Công việc) – Cô thùy nhan (thầy dạy Vietjack)

Phân tích đường nét nhân vật chí phèo (Bảng 1)

Tôi. Bắt đầu lớp học

– Vài nét về truyện ngắn Cao và chí phèo: nhà văn với tư cách là một chiến sĩ nhà văn mẫu mực, có tâm huyết và trách nhiệm với nghề. chí phèo là tác phẩm tiêu biểu cho tài năng nghệ thuật của anh

– Trong truyện ngắn, hình tượng trung tâm của chí phèo là một nhân vật có nhiều bi kịch trong cuộc đời, để lại dư âm sâu sắc trong lòng người đọc

Hai. Văn bản

1.

-“Hắn vừa đi vừa chửi…”: Xảy ra tự nhiên

-Qua lời nguyền, chân dung nhân vật hiện ra:

+ Một gã bất lương thề trên rượu

+ Phía sau, cô ấy thấy nạn nhân la hét, nạn nhân đang cố gây rối và muốn được coi là người bình thường

2. Bối cảnh cuộc sống trước khi ra tù

– Xuất thân: không cha, không mẹ, không nhà, không đất, không tiền, không em

– Tuy nhiên, nó vẫn giữ được những phẩm chất tốt đẹp của nó:

+ Làm người lương thiện: đi từng nhà làm ruộng, thuê nhà kiếm sống ⇒ làm việc thiện

+ Từng có ước mơ giản dị về cuộc sống gia đình: có một căn nhà nhỏ, cuốc đất thuê… ⇒ Chí phèo là người lương thiện.

<3

⇒ chí phèo cũng đủ sống một cuộc đời bình lặng như bao người khác, cuộc đời lương thiện của chấy kéo dài khoảng 20 năm đầu

3. Sự thay đổi của chí phèo sau khi ra tù

– Sự kiện chí phèo bị bắt vào tù:

+ Vì ghen với vợ.

+ Chế độ nhà tù thực dân đã biến ông thành “con quỷ làng Vũ Đại”

– Hậu quả của vài ngày ngồi tù:

<3

+ Tính người: côn đồ, côn đồ, thường xuyên say xỉn và choáng váng, chặt đầu, chửi bới, phá phách, bị sử dụng như một công cụ của kẻ áp bức chí phèo đã mất nhân tính.

– Quá trình tha hóa của chí phèo: đến tổ kiến ​​trả thù ⇒ đầy mưu mô, trở thành tay sai của kiến ​​ba khoang

⇒Bị tước đoạt nhân tính và tình người, hình ảnh người nông dân tiêu biểu bị đè nén đến cùng cực

4. cuộc gặp gỡ của chí phèo và thị hà

– thi ha tình yêu chân chất giản dị – đánh thức bản chất lương thiện của chí phèo:

+ Về Nhận thức: Nhận biết tất cả các âm thanh trong cuộc sống của bạn.

+ Ý thức được bi kịch của đời mình, nỗi sợ hãi cô đơn

+ Về ý thức: chí phèo khao khát lương thiện, muốn sống chan hòa với mọi người.

– Hình ảnh bát cháo hành là một hình ảnh độc đáo, chân thực và giàu ý nghĩa:

+ Ăn với tình yêu và hạnh phúc cho lần đầu tiên và cuối cùng.

chí phèo đã thức tỉnh

Xem Thêm: Câu cảm thán là gì? Đặc điểm, chức năng và ví dụ minh họa?

5. Bi kịch bị tước đoạt quyền con người

– Lí do: Vì cô chú không cho ăn chí phèo → định kiến ​​xã hội.

– Diễn biến tình cảm của chí phèo:

+ Mở đầu: Tôi rất bất ngờ trước thái độ của chị

+ Bấy giờ anh mới hiểu ra mọi chuyện: anh tuyệt vọng, uống dao, đến nhà con kiến, đâm chết con kiến ​​rồi tự sát.

– Hệ lụy của việc đâm chấy tự tử:

+ Đâm chết con kiến ​​là hành động của người nông dân đã thức tỉnh quyền sống để rửa hận bằng máu.

+ Cái chết của chí phèo là bi kịch đau đớn của con người trước ngưỡng cửa trở lại kiếp người.

6. Kiến trúc nhân vật

– Tạo nhân vật điển hình trong các tình huống điển hình

Xem Thêm : Bài thơ Ánh trăng In trong tập Ánh trăng, tác giả Nguyễn Duy

– Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật

– Ngôn ngữ đơn giản, dễ hiểu

Ba. Kết luận

– Tổng hợp những đặc điểm tiêu biểu của hình tượng chí phèo

– Bày tỏ cảm nghĩ của bạn về nhân vật

Đề cương phân tích tính cách chí phèo (Mẫu 2)

1. Lễ khai mạc

– nam cao là cây bút hiện thực phê phán xuất sắc của nền văn học việt nam,

– Tác phẩm của ông nói lên những số phận nhỏ bé trong xã hội, đặc biệt là người nông dân.

– chí phèo là tác phẩm thể hiện hình ảnh người nông dân bị thực dân phong kiến ​​tha hóa trước cách mạng tháng tám.

2. Nội dung bài đăng

a) chí phèo, người nông dân lương thiện:

+ Mồ côi, bị bỏ rơi và có cuộc sống bất hạnh.

+ Lớn lên như kiến ​​ngoài đồng, khoẻ mạnh, chịu thương chịu khó, “hiền như cục đất”.

+ Hãy có những ước mơ và hạnh phúc giản dị.

+ Có lòng tự trọng.

b) chí phèo, tội phạm, con quỷ làng vũ đại

+ Bị lũ kiến ​​đẩy vào nhà tù thuộc địa.

+ Người Nông Dân Trung Thực đã bị nhà tù tha hóa cả nhân hình và nhân tính.

=> Chí phèo là một chuẩn mực trong xã hội đương thời, là sản phẩm của sự áp bức, áp bức ở nông thôn trước Cách mạng tháng Tám.

c) chi poo, bi kịch làm người mà không phải người

+ Cuộc gặp gỡ với thi hà đã đánh thức phần con người của hạ chí.

+ sẽ thức dậy, khao khát được sống lương thiện, được trở lại cuộc sống đời thường, được thực hiện những ước mơ bình dị. Tỉnh thức thể hiện ở việc nhận ra tuổi của mình và nhận ra những âm thanh của cuộc sống hàng ngày.

+ Bị tước đoạt quyền con người, cô đã phải chịu một kết cục bi thảm khi nghe lời dì không chịu ra ở riêng. Dì của cô là gương mặt của sự ghẻ lạnh của xã hội, tiếng nói của định kiến ​​trong xã hội đương thời, khiến cô đau khổ và tuyệt vọng.

Xem Thêm: CH3COOH C2H5OH → CH3COOC2H5 H2O

+ Cái kết bi thảm của chí: Trong lúc bế tắc, ý chí nhận ra kẻ đã cướp đi khuôn mặt và linh hồn của một người chính là bá chủ. Anh ta thậm chí còn đến để trả thù, và Thanos đã tự sát.

d) Đánh giá

– Nghệ thuật: Giọng điệu đa nghĩa, cách kể nhân vật đặc sắc, xây dựng tình huống truyện hấp dẫn, hợp lí.

– nội dung: Qua vai chí phèo, Nam Cao thể hiện giá trị hiện thực và nhân đạo mới. Vạch trần tội ác của bọn thực dân phong kiến, đồng thời bày tỏ niềm tin vào sức mạnh của nhân nghĩa, nhân nghĩa, nhân nghĩa.

3. kết thúc

– Chí phèo đã trở thành hình tượng người nông dân trước Cách mạng tháng Tám trong văn học hiện thực phê phán Việt Nam.

– Giá trị hiện thực và nhân đạo thể hiện qua nhân vật chí phèo khiến tác phẩm này trở thành kiệt tác đầu tay của Cao Nam, khẳng định vị trí của ông trong nền văn học Việt Nam.

Phân tích đặc điểm của chí phèo (Bảng 1)

Số lượng tác phẩm của cao nhân để lại không nhiều, chỉ hơn 60 tác phẩm nhưng rất giàu giá trị nội dung và nghệ thuật. Các tác phẩm của ông trước Cách mạng Tháng Tám quan tâm đến đời sống của trí thức và nông dân. Đặc biệt đối với nông dân, đó cũng là một kiểu phản ánh rằng họ đã bị xã hội thực dân nửa phong kiến ​​đẩy vào ngõ cụt. Những trăn trở ấy được thể hiện rõ qua nhân vật chí phèo trong tác phẩm cùng tên.

Trước hết, chí phèo là người nông dân lương thiện. Anh ta là một đứa trẻ mồ côi từ khi mới sinh ra, và anh ta được ông già đưa về nuôi dưỡng bởi góa phụ mù, người sau này đã bán chấy cho phó nhà xác. Phó chủ tịch đã chết, và anh ấy lớn lên dưới sự chăm sóc và hỗ trợ của mọi người. Lớn lên, ngay cả một thanh niên khỏe mạnh cũng khao khát được làm việc với những ước mơ rất giản dị: chồng cày cuốc thuê, vợ dệt vải. Ước mơ của người nông dân thật trong sáng và đẹp đẽ. Thậm chí đi làm thuê cho đàn kiến ​​còn hơn thế, lại còn bị bà ngoại bóp chân, tôi thấy tủi nhục hơn là thích thú khi làm những việc đó. Thậm chí là một người tự trọng. Những ước mơ, ước nguyện giản dị cộng với lòng tự trọng sâu sắc cho ta thấy xuất thân của một con người hiền lành, chất phác, thậm chí là một nông dân lương thiện.

Từ một người nông dân lương thiện với tính cách đồi bại trở thành ác quỷ ở làng Võ Đại. Mặc dù vậy, cơn ghen tuông điên cuồng trỗi dậy khi anh nhéo chân cô và bị lũ kiến ​​bắt, chúng ném anh vào nhà tù thực dân, nơi mà nhân loại và nhân tính đã bị tha hóa từ đó. Tính cách của chí phèo chẳng khác gì con quỷ: đầu trọc, răng cạo trắng, mặt đen xì nhưng rất hung dữ, đôi mắt sắc lẹm trông rất ghê sợ, ngực đầy rồng phượng và tướng cầm chùy. Anh ta luôn trong tình trạng say xỉn, chửi thề, đánh nhau, nổi cơn tam bành. Anh thậm chí còn biến thành một cậu bé hư hung hăng và liều lĩnh. Còn hơn thế nữa, dù có bị lũ kiến, dùng trí tuệ và sự xảo quyệt của mình để lợi dụng cũng bằng ý chí của mình. Anh ta trở thành một kẻ theo chủ nghĩa bá đạo, độc ác, thích làm gì thì làm. Người làng Wudai tránh anh ta như bị tê liệt, và tất cả những trò đùa của anh ta đều bị phớt lờ, họ nghĩ rằng anh ta đang được tha. Sự tha hóa của chí phèo không phải là hiện tượng bất thường, mà là quy luật trong xã hội đương đại, thậm chí là sản phẩm tất yếu của một xã hội trù dập, biến chất, biến chất, phi nhân tính và phi nhân tính của con người.

Chí phèo mồ côi cha mẹ, bị chính mẹ ruột tước đoạt quyền sống. Khi lớn lên, một lần nữa anh bị tước quyền làm người. Anh bị vắt ra bên lề xã hội, anh cô đơn tột độ, những lời chửi thề suốt ngày đều là biểu hiện của sự cô đơn ấy. Hắn nguyền rủa trời, hắn nguyền rủa cuộc đời, nhưng không ai trả lời hắn, nên chỉ có tiếng chó sủa đáp lại hắn. Không có gì bi đát và đáng thương hơn hoàn cảnh khốn cùng khi sống trong một cộng đồng và bị gạt ra ngoài chính cộng đồng đó.

Gặp Thị Hà là cơ duyên giúp Chấy vực dậy số ít còn sót lại, giúp cô nhận ra nhiều điều trước khi quá muộn. Ngay cả khi bị cảm lạnh và nôn mửa, cô ấy vẫn mang lũ chấy vào trong lều và đắp cho anh ta một chiếc đệm rách để anh ta không bị cảm lạnh. Rồi những ngày dài chìm trong men rượu, cho đến hôm nay, chỉ biết lắng nghe và cảm nhận những âm thanh của cuộc sống: nghe tiếng chim hót ngoài kia vui biết bao! Và tiếng cười nói của những người đi chợ… Đó là giọng nói quen thuộc hàng ngày, nhưng từ khi đi tù về, tôi chưa bao giờ nghe lại. Thậm chí nghĩ đến rượu, thậm chí nghĩ đến quá khứ tươi đẹp, những ngày được sống và làm việc trong yên bình và mãn nguyện, với một ước mơ rất đỗi bình dị: “Hình như đã có một thời tôi mong có một gia đình nhỏ.” Chồng cày thuê, vợ dệt vải. Họ từ bỏ một con lợn để kiếm tiền. Nhà nào khá giả thì mua được mấy sào ruộng để cày cấy. ’ Nhưng thực tại của anh chẳng là gì cả, anh già cô đơn và nhận ra mình đã sang bên kia sườn dốc của cuộc đời, không thể sống mãi với sự nghiệp, điều tốt lành là lúc này hoa nở mang đến một bát cháo hành nóng hổi cho chấy. Cô ngạc nhiên khi anh đón lấy bát cháo hành từ tay cô, vì anh thấy mắt anh ươn ướt, vì cả đời anh chưa từng được ai quan tâm, tất cả chỉ vì khuôn mặt bị đánh đập của anh, giờ anh mới hiểu tình yêu và sự quan tâm,” anh cảm nhận được sự chân thành của đứa trẻ. Anh ấy muốn tán tỉnh cô ấy như anh ấy đã làm với mẹ mình. “Tình yêu đã đánh thức cô ấy, tìm thấy định mệnh của mình và khơi dậy mong muốn được cùng cô ấy trải qua quãng đời còn lại, đó là điều mà tình yêu đích thực nên có. Anh ấy không còn nghiện rượu nữa, nhưng anh ấy luôn uống ít nhất có thể và trở nên dịu dàng Thật không thể tin nổi, tình yêu có ma lực biến đổi, biến một kẻ to con thành người lương thiện hiền lành, đánh thức khát vọng làm người lương thiện.

Tuy nhiên, tưởng chừng hạnh phúc thì con đường trở lại làm người tự lúc nào mở ra, lúc nào đóng lại. Thị há miệng ra nghe dì nói, không chịu thua, thị trút hết lời dì lên mặt thị, thị hiểu và cố chấp nhưng vô ích. Vừa khóc vừa ngửi thấy mùi thơm thoang thoảng của cháo hành, cơn đau do chấy rận càng thêm nặng nề. Anh ta còn cầm dao muốn giết cả nhà, nhưng anh ta đã từng đến nhà của lũ kiến, và anh ta cũng nhận ra kẻ thù trong tâm trí mình, và chính lũ kiến ​​chứ không phải ai đã đẩy anh ta đến kết cục bi thảm này. Thậm chí còn chạy đến nhà con kiến ​​và giết nó, kết liễu đời mình. Đây là lựa chọn duy nhất của chí phèo: không thể quay trở lại con đường làm người lương thiện vì xã hội bác bỏ và chấp nhận ý chí; Vì vậy, cái chết là cách duy nhất để trở thành một người lương thiện. Cái chết của chí là đòn giáng mạnh mẽ lên án, tố cáo xã hội thực dân nửa phong kiến ​​đương thời và dồn con người đến bước đường cùng.

Tạo sức hấp dẫn cho nhân vật phải kể đến nghệ thuật xây dựng nhân vật điển hình với diễn biến tâm lý tự nhiên, hợp lý, hấp dẫn. Cốt truyện giàu kịch tính, chuyển cảnh linh hoạt, kết thúc tác phẩm bám sát diễn biến tất yếu của các nhân vật. Nghệ thuật trần thuật độc đáo, kể ngược thời gian.

Qua hình tượng chí phèo, tác giả khái quát một hiện tượng ở nông thôn Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám: một số nông dân lao động lương thiện bị đẩy đến con đường tha hóa, tội ác, cuối cùng bị đẩy đến cái chết không thể cứu vãn được. Như vậy phơi bày thực trạng xã hội hiện nay. Với nhân vật này, Tào Nan cũng khẳng định bản chất nhân hậu và sức sống tiềm tàng, hướng thiện của người nông dân.

Phân tích nhân vật Chí Phèo (Mẫu 2)

Chí phèo (1941) là truyện ngắn đặc sắc về người nông dân trước cách mạng của nhà văn Cao Nam. Đó là một truyện ngắn “đồng thời che khuất tất cả các tác phẩm khác” và đưa ông lên hàng đầu của chủ nghĩa hiện thực phê phán trong khoảng thời gian từ 1930 đến 1945. Tác giả đã khắc họa thành công một nhân vật điển hình——chí phèo, phản ánh bi kịch sâu sắc trong thể loại tiêu biểu nhất của văn học Việt Nam.

Bi kịch bi kịch là bi kịch của người nông dân nghèo bị đẩy vào con đường của những kẻ ác và bị tước đoạt quyền làm người hay nói cách khác là số phận bi thảm của một con người muốn được làm người là không thể. Nam Cao đã miêu tả bi kịch của Chí Phiêu bằng những nét bút vô cùng sắc sảo: vừa kể mà biến, vừa miêu tả mà thấm thía triết lí, đau đớn trữ tình, đầy sức ám ảnh nghệ thuật, lay động lòng người hơn nửa thế kỷ.

Nam Cao không nói đến tô thuế, địa tô tàn ác mà ông suy nghĩ, khám phá về số phận của những người lao động bị chà đạp, đồng thời có những cách nhìn mới, độc đáo, sâu sắc về biểu hiện nỗi khổ của Bác Vĩ trong xã hội thực dân phong kiến ​​Những người nông dân nghèo khổ khỏi áp bức, bóc lột tàn bạo.

Tiếc thay, từ khi sinh ra “chiếc váy xám lõa lồ bị bỏ trống bên lò gạch”. Anh ta đánh rơi chiếc tẩu thuốc của mình, “đem nó cho một góa phụ mù” và bán nó cho người chú của mình trong nhà xác. Dù lớn lên trong cảnh côi cút, không cha mẹ, không họ hàng thân thích, không mái nhà che thân, không tấc đất cắm dùi, “không ở nhà này thì ở nhà khác” cho đến 5 năm sau, lúc tuổi 20 Chí phèo trở thành nhà chứa cho Lí Kiến.

Một trang trong tuổi thơ và tuổi trẻ của Chí Phèo có thể kể đến như 20 năm thơ dại không biết đi về đâu, bi kịch của người gác đêm bắt đầu từ khi ông bà còn rất trẻ. Liên tục bị ốm khiến anh ấy bị véo chân, xoa bụng hoặc đánh vào lưng. Đến đá cũng chưa “nhục hơn sợ”. Chỉ vì ghen tuông mà lén cấu kết với quan bắt ông, đưa lên huyện giam bảy tám năm. Nhà Tù Thuộc Địa biến chí phèo từ một anh nông dân hiền lành lương thiện thành một kẻ xấu, một tên ác ôn làng vu dai.

Xem Thêm : Toán lớp 4 trang 136 Phép chia phân số

Vào tù rồi “biến mất”, rồi bất ngờ “chậm chạp trở về”. Một chí phèo thì hoàn toàn khác: “đầu trọc, răng cạo trắng, mặt đen hung dữ, cặp mắt sắc lẹm, ghê tởm”. Thậm chí còn mặc quần lợn nái đen, áo sơ mi vàng, ngực và cánh tay có khắc hoa văn rồng, tướng quân Feng Yue cầm chùy … Đó là hình ảnh chi poo uống rượu với thịt chó ở chợ từ trưa đến nửa đêm . Chiều cho đến khi say. Anh ta hành động thô bạo: xông vào nhà kiến, chửi “mồ tổ tông lộn ngược”, đập vỡ mảnh chai trên cổng, cào cấu vào mặt, kêu trời kêu đất! chí phèo hành động như một kẻ cố chấp. Tuy nhiên, anh coi lũ kiến ​​là kẻ thù của mình. Nhưng một ly rượu, một vài cái vuốt ve và một đồng xu cho thêm của lão khiến “chí phèo rất sung sướng”. Anh mơ hồ về “họ” của mình và Lý Cường! Vài ngày sau, anh ta giở trò côn đồ, phóng hỏa đốt quán rượu, cầm dao đến nhà chú ruột đòi bỏ tù. Chấy mới về làng được sáu ngày, đến nhà kiến ​​lần thứ hai thì gặp nạn: “Mặt lạnh, chân run, môi sưng và run”. Hắn nghiến răng đe dọa: “…mày phải đâm chết mấy thằng rồi bắt tao giải cộng đồng”. Chú Tám cười lớn, vỗ vai chú Tám như bị thôi miên, cầm dao xông vào nhà đòi nợ hộ chú. Không có đổ máu. Chí phèo vênh váo cầm năm chục lạng bạc, khoe rằng “cả làng này không có người nào tốt như tao”. Từ đó, chí phèo trở thành “đầy tớ” của ba kiến. Vì vậy, anh chỉ có một ngôi nhà với năm mẫu vườn bên sông. Lúc đó anh hai mươi bảy, hai mươi tám tuổi. Kể từ đó, anh ta hoàn toàn mất phương hướng và trở thành một con chó chạy độc đoán và hiệu quả. Anh ta đã bán mình cho quỷ dữ, và chẳng mấy chốc anh ta cũng trở thành một con quỷ khủng khiếp. Anh sa vào vũng lầy tăm tối, tội lỗi. Anh dần mất cảm giác về thời gian và không biết “tuổi” của mình đã “được” bao nhiêu năm. Năm này qua năm khác, “Ba mươi tám hay ba mươi chín? Bốn mươi hay bốn mươi?”. Bây giờ khuôn mặt giống như một “mặt quái vật”, màu sắc “vàng và sắp phai”, và đầy đủ sẹo, “sọc ngang”, gầy guộc nhẫn tâm.. Cuộc đời anh đầy tội lỗi “bao nhiêu thứ bị ức hiếp, phá phách, đâm chém, người ta làm hết”. Anh làm thuê để kiếm tiền và nhậu nhẹt. biến thành một cơn say dài dằng dặc “say đến ăn, say đến ngủ, say đến tỉnh, đập đầu, rạch mặt, say chửi bới, say, say nữa, say không dứt”. Bị đẩy vào con đường tội ác, muốn giết người, muốn ám sát, cần dũng khí, liều mạng, hắn tìm đến rượu, dần dần mất đi nhân tính, trở thành ác ma thôn Võ Đại: “Hắn đã hủy bao nhiêu gia sản, Bao nhiêu cảnh bình yên đã tan vỡ, bao nhiêu hạnh phúc đã tan vỡ, biết bao máu và nước mắt của những người dân lương thiện”

chí phèo bị cả xã hội ruồng bỏ. Anh không có danh thiếp ghi tên, trong sổ làng người ta vẫn gọi anh là kẻ tha hương lâu ngày không về. Dân làng sợ ông, “hễ ông đi qua là tránh ra”. Khi nó chửi thì ai cũng cho là “bỏ xác bố nó đi”, chẳng ai nghe, chẳng khác nào “con say hát”. Hình ảnh “vừa đi vừa chửi” khiến người đọc không khỏi ám ảnh bởi bi kịch của một kẻ điên khùng, mất trí đang trải qua nỗi tuyệt vọng, cô đơn. Hắn nguyền rủa vạn vật, nguyền rủa trời, nguyền rủa cuộc đời, nguyền rủa cả làng Võ Đại, nguyền rủa tất cả những ai không cùng hắn nguyền rủa nhau, “Hắn nguyền rủa kẻ nào sinh ra để sửa sai cho một mình hắn!”. Chí chóe cứ chửi, “vừa nghe vừa chửi”. Anh bị bao trùm bởi một “sự im lặng khủng khiếp”. Năm rồi mười câu mới “Ba con chó hư và một thằng say!”. Anh ta hoàn toàn bị xã hội từ chối với tư cách là một con người.

Nam Cao, qua nhân vật chí phèo, phản ánh một hiện thực khá phổ biến ở nông thôn nước ta thời Pháp thuộc: nhiều người lao động lương thiện bị xã hội dồn vào ngõ cụt, làm loạn, lưu manh, liều chết. để tồn tại. Năm đời “đầu bò, đầu bò” vừa biến mất, quan về, lính chết lại nở. Biết đâu mẹ sẽ không nhét con vào chiếc váy và bỏ vào cái lò gạch cũ nữa? Bọn quý tộc một mặt bóp nghẹt dân lành đến tận xương tủy, mặt khác “phải ngậm miệng mà nuôi đồng bào chứ không phải đồng bào nên vô đạo đức, lúc nào cũng có thể đâm chết người ta hoặc tự đâm mình bằng một con dao.” Chừng nào còn bọ, bọ, đàn áp, bóc lột dân lành một cách dã man, thì sẽ còn những người lao động lương thiện bị đẩy vào con đường côn đồ, tội phạm và phải sống bằng ám sát, cướp của. Xã hội đã tước bỏ khuôn mặt và linh hồn của họ, hủy hoại nhân tính của họ và tước bỏ quyền làm người của họ. Nhân vật chí chóe thể hiện sự thống trị tàn ác khủng khiếp của xã hội cũ.

Đoạn văn Nam Tào Tháo, câu chuyện về một người đàn ông nghiện rượu và buông thả, là một tình tiết làm sáng tỏ bi kịch về sự cô đơn, điên loạn và đau khổ của một người đàn ông vì bị xã hội tẩy chay vì quyền lợi của mình. nhân loại. Tự ghê tởm bản thân với một “bộ râu ngái ngủ” như thầy phù thủy và thái giám lợn. Vợ ông qua đời cách đây bảy tám năm, con gái ôm trong tay bà chạy trốn. Ông già ở một mình. Như “Cuồng tri kỷ” uống rượu dưới trăng. Họ uống hết ba chai và “cười và cười với nhau”. Say rượu, anh ta “bò như cua”. Anh ta cũng kéo ông già ra và vuốt râu. Anh ta thậm chí còn bị gãy ngực và trầy xước khi đi bộ, cố gắng tìm đường trở lại khu vườn và lều. Đêm trăng rằm ấy, Chi Chi thấy nàng ngủ say, “ngủ trên trăng há miệng”, “ngứa ngáy khó chịu”. Chí phèo nào đó lao vào người đàn bà “ma chê quỷ hờn”… chí phèo! Tình dục của Chí phèo vốn dĩ chỉ là bản năng sinh học của những gã đàn ông say rượu, còn phụ nữ tuổi ba mươi thì “ngu như khờ trong cổ tích”! Nhưng điều kỳ lạ là sau đó, Thị Hà lại tràn đầy sự quan tâm giản dị tao nhã và tình yêu giản dị chân thành, đánh thức bản chất lương thiện của cô công nhân từng rạch mặt ăn vạ anh này. chí phèo bị cảm. “Nó vòng tay qua nách”, “nó vòng tay qua cổ hai thằng, loạng choạng trở vào lều”. Bát cháo hành của Thịnh suýt biến thành chí phèo. Khi lần đầu tiên anh nếm thử cháo: “Trời ơi, cháo này ngon quá!”. Đó cũng là lần đầu tiên được chạm vào bàn tay của một người “đàn bà”. Suốt mấy chục năm trời bị bắt nạt, dụ ăn nhưng “đây là lần đầu tiên được một người phụ nữ cho”. Mị cũng là người phụ nữ duy nhất trong làng vũ đại nhận ra bản chất lương thiện của Chí Phèo. Mụ nhìn Chí Phèo ăn cháo hành mà thốt lên “Ôi sao anh ta tốt thế…”. Chỉ có thi hoa mới cảm nhận được: “Anh cười dịu dàng quá…” Thế thôi!

Đoạn văn miêu tả tâm trạng sau cuộc “gặp gỡ” trong đêm, có thể thấy Nam Cao là bậc thầy về nghệ thuật phân tích tâm lí nhân vật. Tác giả kể về sự thức tỉnh của tâm hồn trong chí phèo với bao xúc động và xót thương. Sáng hôm ấy tỉnh dậy Chí phèo rất “buồn”. Tiếng chim hót vui vẻ, tiếng người cười nói rôm rả trong chợ, tiếng chèo đò đuổi theo tiếng rao… Những giọng nói quen thuộc ấy xưa nay tôi chưa từng thấy, hôm nay tôi mới được nghe. Lòng anh buồn “Ôi buồn!”. Lương tâm của anh bị lung lay. Âm vang đời thường đánh thức tâm hồn. Ông nhớ lại ước mơ giản dị của người nông dân nghèo ngày xưa “nhà đông con, chồng cày thuê, vợ dệt vải”, lấy con lợn làm nền tảng. Có tiền thì mua mấy sào ruộng. Càng nghĩ lại càng buồn. Sau bốn mươi tuổi đầu, cảm thấy mình đã “sang bên kia cuộc đời”, ông lo lắng, sợ hãi “đói rét, cô đơn còn khủng khiếp hơn đói rét, bệnh tật”. “. Chí phèo nhìn nàng nở nụ cười trìu mến nhấm nháp bát cháo hành, rồi hắn lù lù đi về phía xa, một lúc lâu hắn mới đâm cướp. “Không còn sức để cướp giật nữa thì sao? “. Côn đồ “chỉ mạnh về số lượng”. Một ngày nào đó chúng “không còn liều lĩnh được nữa” thì nguy to!

Nam Cao cho ta thấy chí phèo là một người lương thiện, cần cù “mà bản chất thường bị che giấu”. Dưới sự chăm sóc “tình yêu” của Thị Hà, “con bệnh” Chí Phèo đã hoàn toàn thay đổi về thể chất và tâm lý. Nó thấm thía tấm lòng đồng cảm của nhà văn đối với những người nông dân nghèo lương thiện bị xã hội xô đẩy vào con đường tội ác, trụy lạc.

Tâm hồn được đánh thức, bản chất tiềm ẩn dần lộ ra. Chí Phèo chợt phát hiện ra “Mình muốn thành thật với nhau biết bao, làm hòa với mọi người biết bao!”. Anh mong muốn mọi người “chấp nhận anh một lần nữa và tái hòa nhập anh vào một xã hội thẳng thắn trung thực và thân thiện”. Đàn bà cũng như thành phố, “không men như rượu”, nhưng “say lắm!”. “Cái mặt lịch sự lắm”, anh rủ tôi nói: “Hay ra đây chơi với anh”. Câu này là một “ngôn tình”, thể hiện chân thành tấm lòng làm người, “tâm cầu chân tình” và “tâm mong hòa thuận với mọi người” của Chí Đạo. Nếu nghe anh chửi thề, thấy anh rạch mặt, nổi cơn thịnh nộ, thấy anh cầm dao đâm người say… thì chúng ta sẽ vô cùng xúc động trước ước muốn trong sáng của những người cùng khổ. …Câu trả lời của cô ấy sẽ quyết định số phận của anh ấy.

Giống như người chết đuối ở vực sâu, “kiên trì” có thể coi như cọc, có thể coi là rễ bèo. Chí Phèo đã “say lắm” nhưng đến ngày thứ sáu thì mụ nghĩ: “Đừng hỏi mụ ta câu nào nữa”. Như chúng ta đã biết, con đường trở về của Chí Phèo vừa mở ra vừa khép lại! Bà ngoại ghen tị, nhìn thấy cháu nội “Sao rẻ rúng thế?”. Nhục nhã, cô hét lên “như một con ma nổi cơn thịnh nộ”. Bà quyết không cho cháu trai “lấy người đàn ông chỉ có mỗi nghề đi rạch mặt ăn vạ”. Nhưng hãy trách cô ấy! Ý kiến ​​của chị cũng là điều mà lâu nay mọi người trong làng vũ đại vẫn nghĩ về chí phèo. Ngoài việc mở rộng tổ kiến ​​và thị trường, còn ai dám vượt lên trên con rận và dám đối mặt trực tiếp với con rận! Mọi người đã quen với việc coi anh ta là “quỷ dữ”. Hôm nay, hồn anh hiện về, nhưng không ai nhận ra anh “muốn làm hòa với mọi người” thì ai chịu! Chí phèo đúng là đang ở trong bi kịch tinh thần, quằn quại trong cơn hấp hối. Anh “choáng váng” khi nhìn và nghe cô nói. “Sốc” anh đứng dậy gọi cô. Anh “nắm lấy tay” cô đuổi theo nhưng bị cô đẩy ra, “lọt sân” mà ngã.

Vất vả trong tuyệt vọng. Anh ta lấy một viên gạch và cố đập vào đầu anh ta! Anh ta phải “đâm chết con chó cái mới nở” và “giết cô ta”. Anh lại uống, lại uống… nhưng “càng uống càng tỉnh”, và khi tỉnh ra, anh mới hiểu nỗi đau vô hạn của thân phận mình: quyền được sống lương thiện làm người đã bị tước đoạt. bị xã hội và đồng loại phủ nhận một cách dứt khoát. Sức cản. Sau đó, “anh ấy bật khóc” và không rời đi cho đến khi anh ấy say. Anh ta để lại con dao ở thắt lưng, lảm nhảm: “Tao phải đâm nó”. Đó là buổi trưa của “Ngày nắng phố vắng”, Chí Phèo đến gặp Bá Kiến lần thứ ba, vẫn như mọi khi “Không xin tiền”, mưu cầu sự liêm chính, mưu cầu “quyền” làm người lương thiện! “. Chí phèo trích dẫn: “…ai cho tôi lương thiện? Đây là lời vạch trần, lên án tên trùm gian xảo, đồng thời là tiếng kêu thảm thiết cho kiếp người đau khổ! Chí phèo “vung dao” diệt kiến ​​rồi tự sát. Anh ta thậm chí còn giết chết con quái vật ở làng Wudai, kẻ đã hủy hoại cuộc đời anh ta. Tôi thậm chí không muốn sống vì bây giờ ý thức về phẩm giá đã trở lại. Tôi thậm chí không thể sống như một cậu bé hư, như một con quỷ, như một con vật. Chí Phèo chết thê thảm, quằn quại trong vũng máu của chính mình, chết với tiếng kêu thảm thiết, đầy xót xa. Anh chết trước ngưỡng cửa cuộc đời, khi cánh cửa cuộc đời đóng lại trước mặt anh.

Chí phèo là một hiện tượng điển hình của thói lưu manh hóa nông thôn, có nghĩa là kiên quyết lên án cái xã hội tàn ác bắt con người làm ruộng cho cuộc sống tăm tối, cướp đoạt tài sản, thể diện, tâm hồn của con người. Câu hỏi cuối cùng của Chí phèo: “Ai cho tôi biết sự thật!” là một câu hỏi day dứt, đau đớn, mãi mãi giày vò lòng người. Làm sao con người có thể sống lương thiện và giản dị trong xã hội tàn khốc, ngột ngạt và áp bức này? Qua hình tượng chí phèo, nam cao đa đặt ra câu hỏi lớn đó. Với cảm quan hiện thực đặc biệt nhạy bén, Cao Nan đã chỉ ra những mâu thuẫn giai cấp gay gắt ở nông thôn và hiện tượng tha hóa phổ biến trong xã hội phi nhân loại. Truyện “Piao đỏ” không chỉ chứa chan tình cảm nhân văn mà còn có ý nghĩa triết lí sâu sắc, được thể hiện bằng một hình thức nghệ thuật vô cùng độc đáo, có thể gọi là một kiệt tác.

Phân tích nhân vật (Mẫu 3)

Xem Thêm: Truyện ngắn Chữ người tử tù In trong tập Vang bóng một thời, Nguyễn Tuân

Trước Cách mạng tháng Tám, số phận người nông dân là mối quan tâm hàng đầu của văn học hiện thực phê phán. Ngô tốt tắt đèn với gà trống, nguyễn công hoan cùng cha đi dạo và đặc biệt nam cao mang đến hàng loạt tác phẩm đặc sắc về người nông dân Việt Nam thời tiền khởi nghĩa. Trong số đó, hình tượng chí phèo xuất hiện trong tác phẩm cùng tên. Hình tượng nhân vật này đã để lại nhiều cảm xúc sâu sắc trong lòng người đọc.

Chí phèo là ai? Mở đầu tác phẩm, Cao Nan đã giới thiệu nhân vật của mình một cách độc đáo. Nhà văn Chí Phèo trong bộ dạng say rượu: “Hắn vừa đi vừa chửi”. Những lời chửi của ông mới lạ lùng và báng bổ làm sao: “ông chửi trời, ông chửi đời, ông chửi cả làng Vũ Đại và cả những người không chửi nhau với ông”. Điều này không có gì đáng ngạc nhiên, bởi vì ở đây chửi thề thường nhằm vào một người cụ thể, và anh ta đang nhắm vào cuộc sống này, trời và đất. Lạ lùng hơn nữa, đây không phải là lần đầu tiên anh mắng “Già rồi, nhậu xong lại mắng”. Tại sao anh ấy lại buồn như vậy? Nhân vật nam Tào vừa xuất hiện trên sân khấu đã trở thành một hình tượng khiến người đọc tò mò đoán già đoán non: chàng trai ấy không tạo ra bất cứ cảm xúc nào, mà chỉ chôn sâu trong lòng người ta những tiếc nuối – anh ta phải có nỗi khổ nào đó mới đến mức hủy hoại bản thân. rượu, Những câu chửi đời đó cũng là nói lên một điều, chủ nhân của nó đã mất hết niềm tin vào cuộc đời và con người trên đời. Độc giả tò mò tiếp tục đọc câu chuyện, và chắc chắn, cuộc đời giống như một bộ phim bi kịch.

Là một đứa trẻ bị bỏ rơi một cách dã man, sự ra đời của anh không hề bất ngờ. Nói thẳng ra, anh là con ngoài giá thú, cha anh không chịu thừa nhận, còn mẹ anh thì bỏ mặc anh chết trong một cái lò gạch bỏ hoang. Vậy là chỉ còn những lò gạch bỏ hoang chờ đợi anh. Khi chấy chuyển sang màu xám trên áo choàng của anh ta, người nông dân nghèo đã nhặt anh ta lên. Ban đầu, đó là một người đàn ông đi hút tẩu lươn một mình. Sau đó là một góa phụ mù, sau đó là nhà xác. Một khi quan huyện qua đời, anh trở thành một đứa trẻ không nơi nương tựa, phải ăn bám, bị sỉ nhục từ nhà này sang nhà khác. Đời anh như cỏ dại trôi từ xó xỉnh này sang xó xỉnh khác, lênh đênh, lênh đênh, nghèo nàn. Đó cũng là trường hợp của số phận những người nông dân trước cách mạng, những người mà cuộc sống của họ cũng thăng trầm theo sự trôi dạt, ly tán của gia đình. Kẻ đi kẻ ở, kẻ quanh quẩn bán mẹ, còn hổ thẹn hơn là bị đày đi xứ lạ xin ăn.

Trong những năm đen tối của tuổi 18 và đầu tuổi 20, số phận đã đưa cô đến với gia đình mình. Người đàn ông giàu có nghĩ rằng anh ta có thể kiếm được một bữa ăn ngon, nhưng không ngờ anh ta gặp phải địa ngục trần gian. Vì vợ tình nhân thứ ba của “quỷ vương” liên tục bắt anh véo chân và khiêu khích làm những trò tục tĩu. Anh ấy bướng bỉnh: Tuy còn trẻ nhưng anh ấy có thể phân biệt được đâu là tình yêu đích thực và đâu là ngoại tình. Sự cám dỗ này không giết được bản chất của rận. Anh ấy thực sự là một chàng trai tự trọng, trung thực. Suy cho cùng, đó chính là bản chất nhân hậu của lão nông giản dị, thật thà và đầy lòng tự trọng. Đọc xong, độc giả khó quên được hình ảnh con gà trống của Wu Dazhi cầm những tờ giấy bạc ném vào bọn quan lại khét tiếng đê hèn. Hay nói đúng hơn, như chính nhân vật Hạc Cao, lòng tự trọng đã khiến anh từ chối nhận sự giúp đỡ của mọi người một cách “gần như độc đoán”, và cuối cùng anh đã dùng cái chết để bảo toàn lòng tự trọng cao quý của mình.

Ở chí phèo, bản chất lương thiện ấy bị xã hội đen tối hủy hoại. Nhà tù Thuộc địa đã giúp kẻ mạnh Li Jian bắt giữ anh ta, biến anh ta từ một người lương thiện thành một con quỷ.

Sau bảy, tám năm trong tù, hắn biến thành một con quỷ đáng sợ với “cái đầu hói”, “răng cạo trắng hơn” và “dáng vẻ đáng sợ”. Anh ấy có những hình xăm kỳ lạ trên khắp cơ thể – con người cũ của anh ấy đã biến mất. Bây giờ anh ta là một nhân vật phản diện chỉ có thể làm điều ác. Tác giả dùng từ “ghê tởm” hai lần để thể hiện sự sợ hãi và cũng để phân biệt hắn với những người dân lương thiện ở làng quê này. Sự nguy hiểm của chấy là điều hiển nhiên trong hành vi hàng ngày. Không mua được rượu ở hàng bỏng, anh ta cầm chai rạch vào mặt mình và la làng… Nó rơi vào tay lũ kiến ​​và trở thành thứ thuốc chữa bách bệnh, càng trở thành công cụ độc ác và đáng sợ hơn đối với anh ta. Anh ta có thể đâm bất cứ ai và làm tất cả những điều sai trái miễn là anh ta bỏ ra vài xu. Ngày càng có nhiều con rận lướt trên con đường phạm pháp và tội ác.

Ở đây, với đặc điểm chí phèo này, nam cao có những khám phá mới về đời sống của người nông dân Việt Nam trước cách mạng. Nếu chúng ta chỉ dừng lại ở việc mô tả cuộc sống khốn khổ, khốn khổ, nhục nhã của người nông dân, đèn tắt từ lâu, bước đường cùng, v.v., thì Tall New Thing là con đường để đi. Họ chất phác, giản dị, lương thiện, và đầy phẩm giá. Có người cả đời không xuất gia, hại làng hại nước sao được? Nhưng nhà văn đã chỉ ra thủ phạm đằng sau con quỷ lương tâm của mỗi người nông dân bằng ngòi bút sắc sảo và điềm tĩnh. Đó là thủ đoạn đê ​​hèn của bọn bạo chúa, cường hào địa phương, cộng với sự ngông nghênh thô bạo, độc ác của chính quyền thực dân. Chính họ đã tẩy não, định hình lại và bôi đen một tâm hồn mong manh và lương thiện như vậy.

Những dòng sông, vẻ đẹp thiên nhiên cổ kính như chí phèo nằm sâu trong tiềm thức, nó như mặt trời có thể che nắng nhưng không bao giờ nguội lạnh. Sau khi ngủ một giấc dài, nó cử động và thức dậy. Nó thúc giục chi poo trở thành một người trung thực.

Cuộc gặp gỡ với thị hà mở đầu cho một bước ngoặt lớn trong cuộc đời chí phèo. Thành phố rực rỡ như ánh trăng đêm hôm ấy. Tình yêu của cô nở hoa như nước sông lấp lánh dưới ánh trăng, khơi dậy mọi cung bậc cảm xúc. Điều này đánh thức bản chất lương thiện của ý chí hồi sinh nó và thực sự hồi sinh nó trong đời sống con người. Tình yêu thực sự là một loại thuốc đặc biệt phục hồi và chữa lành ngay cả những vết thương nhiễm trùng nhất. Đoạn văn chí phèo bừng tỉnh sau khi gặp thi hoa đầy chất thơ. Đô thị hóa hồi sinh trong sự tự nhận thức về bản thân. Chí phèo tái sinh với mong ước về một “gia đình nhỏ”, “chồng cày cuốc ruộng, vợ dệt vải quanh năm, cả hai cùng góp sức nuôi con khôn lớn”. Sau bao nhiêu năm, hôm nay tôi chỉ còn nghe tiếng “chim ngoài kia hót vui quá” hay “người đi chợ hỏi nhau: hôm nay dì bao nhiêu?”. Những giọng nói đó đã biến mất ngày hôm nay? Nhưng hôm nay mới nghe được vì hôm nay tôi mới thức dậy và hướng về cuộc sống một cách tha thiết. Bát cháo hành làm cho người ta cảm thấy “ẩm ướt mắt” và “anh cười thật dịu dàng”. Rồi anh muốn hướng đến tương lai, một tương lai bình dị: quê hương. Nước mắt là nước mắt của đàn ông, cao nhân từng gọi chúng là “lăng kính của vạn vật trong vũ trụ”. Tôi có cảm giác những giọt nước mắt, nụ cười hiền lành trên môi anh đã bị cuốn đi, xua đi quá khứ đen tối của anh. Có thể đó là những giọt nước mắt và nụ cười khi Chí Phèo thị tự nhủ: “Có khi hiền như đất”. Sau đó, anh ấy nói với cô ấy “Tôi thà như thế này mãi mãi … hoặc tốt hơn là đến sống trong nhà với tôi và vui vẻ”. Anh háo hức được trở lại thế giới của những người lương thiện: “Trời, anh phải lương thiện, anh muốn làm hòa với mọi người bao nhiêu thì cô ấy sẽ mở đường cho anh bấy nhiêu”.

Chính những trang viết trên đã làm bừng sáng câu chuyện và cuộc đời chìm nổi tăm tối của Chí Phèo. Chưa bao giờ cử chỉ, động tác và lời nói của anh khiến chúng tôi xúc động như thế này. Họ đã cho thấy một điều: lần đầu tiên trong đời, họ đã đạt được lý tưởng và mục tiêu sống của mình. Nó thay thế cho những người đàn ông xấu xí bị cả xã hội hạ thấp và xa lánh. Những ước mơ giản dị, mong manh của anh có thể khiến bất cứ ai nhìn lại cũng phải nâng niu và trân trọng hơn.

Nhưng bi kịch cuộc đời chưa dừng lại ở đó, Thị Hà từ chối “lời cầu hôn” của anh vì người cô không cho cháu lấy người đàn ông “chỉ có mỗi nghề đi rạch mặt ăn vạ”. Chúng tôi không trách cô chú, đây cũng là cách mọi người trong xã hội nhìn Zhi Piao. Mọi người đều nghĩ anh ta là một con quỷ không ai tin anh ta và anh ta bị cả xã hội chối bỏ. chi poo “úp mặt khóc”. Anh rơi vào bi kịch tuyệt vọng muốn trở thành một người không ai công nhận. Thế là anh ta đi uống rượu, “càng uống càng tỉnh”, anh ta uống cho đến khi mềm nhũn, cầm dao đi chơi. Anh giao tiếp với cuộc đời bằng những lời nguyền rủa, và cuộc đời trả lời anh bằng tiếng chó sủa của làng. Như vậy rõ ràng là đời nó đã đến hồi kết, đời nó chỉ là kiếp chó mà thôi. Miệng thì chửi cháu trai cháu gái, nhưng chân thì dắt về tổ kiến. Đoạn văn được cao nhân miêu tả vô cùng tinh tế và hợp lí. Lúc này, Chí Phèo vừa tỉnh vừa say, say đến mức liên tục nói muốn giết “lão Nhím” ở phố nên thói quen ăn sâu vào tiềm thức của hắn đã trở thành tất yếu. Khi đến nhà quan hệ công chúng, anh ta không đòi tiền mà xin “làm người lương thiện”. Hiển nhiên, hiện tại hắn đang chìm đắm trong tuyệt vọng của cuộc đời. “Ai đã cho tôi sự trung thực?” anh hét lên. Vấn đề của chí phèo cũng là vấn đề của thời đại. Không ai trả lời anh ta vì đó là một “câu hỏi lớn không lời đáp”. Câu hỏi này khiến người đọc thấy đồng cảm với những mảnh đời bất hạnh không biết đi về đâu trong cái xã hội ngục tù đen tối ấy. Quá tuyệt vọng, anh lao tới đâm chết con kiến, tự kết liễu đời mình.

Tô chí phèo điều cao nam cao thể hiện nhiều tư tưởng sâu sắc góp phần tạo nên giá trị hiện thực cho tác phẩm. Hình phạt tử hình đã trở thành bản án của xã hội đương thời, một xã hội vô nhân đạo đã tước đoạt quyền sống, quyền làm người của những người lương thiện. Ngay cả cái chết cũng có nghĩa là anh ta không chịu quay lại con đường tội ác, không chịu sống kiếp cầm thú. Anh thà chết chứ không từ bỏ khát vọng cứu chuộc. Đó là sự cảm thông của con người cao cả đối với bản chất tốt đẹp vốn có của con người, đồng thời đó cũng là niềm tin.

Nam Cao đi sâu tìm hiểu nguyên nhân của vòng bi kịch đó khi kể lại bi kịch số phận của chí phèo. Do những nguyên nhân khách quan, xã hội nửa thuộc địa, nửa phong kiến ​​làm con người thoái hóa. Ngoài ra còn có nguyên nhân chủ quan, đó là chính người nông dân quay lưng lại với nhau, chối bỏ nhau, nhìn nhau bằng thành kiến, điển hình là các cô, các chú. Bị truy lùng, đàn áp, người như rận quay đầu làm loạn (dù phản nghịch cực nhưng còn làm được gì nữa?) Ngoài ra, nam cao còn nhắc đến năm sinh, quân hàm là “trưởng lão”, là ai? họ hàng gần và xa của Zhipiao. Khi xong việc, nam cao bảo thị nở vội nhìn xuống bụng và thoáng thấy cái “lò gạch cũ” trống không. Hoàn toàn có thể có một đứa con nối nghiệp cha. Hình tượng Chí Piao được nam Tào Tháo định hình thành công và đúc kết thành quy luật cơ bản của xã hội. Vì vậy, để chấm dứt bi kịch của chí phèo, cần phải tiêu diệt cái xã hội ấy. Đây chính là chiều sâu của hiện thực xã hội trong các tác phẩm của Cao Hùng.

Hình tượng nhân vật Chí Phèo đã để lại trong lòng người đọc nhiều xúc cảm và niềm thương cảm sâu sắc đối với những kiếp người đã chết trước Cách mạng tháng Tám. Cùng với chị gà trống, pharaoh, lão hạc…, hình tượng nhân vật chí phèo khẳng định tính tất yếu của cuộc cách mạng dân tộc và giai cấp để giành lại quyền sống của con người Việt Nam lúc bấy giờ. Cho đến hôm nay, những điển tích ấy vẫn là lời cảnh báo, khuyên nhủ chúng ta hãy yêu thương nhiều hơn, trân trọng hạnh phúc mình đang có và cống hiến sức mình để xây dựng cuộc sống tươi đẹp này.

Phân tích đặc điểm của chí phèo (Bảng 4)

Nam cao viết văn trước năm 1940, nhưng ông không được biết đến như một nhà văn hiện thực xuất sắc cho đến khi truyện ngắn chí phèo ra đời. Cũng chính từ khi Chí Piao bước ra khỏi chương nam Tào Tháo, nhân vật này đã để lại dấu ấn khó phai và ám ảnh không nguôi trong lòng người đọc.

Nam Cao xứng đáng là một trong những tên tuổi lớn của trào lưu văn học hiện thực trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 với tác phẩm “Chí Phiêu”, như Ngô Đạt Đồ, Nguyễn Công Hoan, Ngô Trùng Phong, v.v. Đề tài nông dân nhưng các tác phẩm của Tào Nan, đặc biệt là truyện ngắn “Piao đỏ” đã đạt giá trị nhân văn sâu sắc dưới một hình thức mới. Nếu như các nhà văn khác phản ánh sâu sắc những hủ tục hay cuộc sống cơ cực của người nông dân thời phong kiến, thuộc địa thì Nam Cao tập trung thể hiện nỗi đau của tâm hồn, nhân cách bị xúc phạm, bị hủy hoại. Đồng thời, ông cũng bênh vực và khẳng định phẩm giá riêng tư của người nghèo. Zhipiao là nhân vật thể hiện tốt nhất tầm nhìn mới của những người nông dân trước cách mạng.

Chí Phèo vốn là một thanh niên hiền lành lương thiện, nhưng bị những người đàn ông mạnh mẽ của làng Vũ Đại dồn đến đường cùng. Anh ta là một đứa con ngoài giá thú bị bỏ rơi khi mới sinh và được người trợ lý không con của anh ta mang về nhà để nuôi nấng. Ông già chết, nó muốn đánh mất mình, thôi ở nhà này đi ở nhà khác. Không cha không mẹ, không đất, lớn lên như cây cỏ, không người thương. Trong thời gian làm ruộng trong gia đình Li Jian, anh nổi tiếng là người hiền lành. Mặc dù nghèo và ít học, anh ấy biết điều gì đúng và điều gì sai, điều gì đúng và điều gì sai, tình yêu và dục vọng thấp hèn là gì. Mỗi lần bị vợ của Sanli Ant bóp chân, cô chỉ cảm thấy nhục nhã chứ không được yêu thương. Cũng như bao người nông dân nghèo khổ khác, bà từng mơ ước về một cuộc sống gia đình bình dị, đầm ấm: chồng cày thuê, vợ dệt vải. Họ giữ một con lợn làm vốn. Nhà nào khá giả thì mua được mấy sào ruộng để cày cấy. Tuy nhiên, phôi thai tốt đẹp trong người đàn ông nhanh chóng bị đánh gục và không bao giờ gượng dậy được nữa.

Ai có thể ngờ rằng người bảo vệ khiêm tốn đó thực sự bị tha hóa bởi sự ghen tị và bị giam cầm, rồi biến thành yêu quái ở làng Wudai. Vì ghen tuông vô cớ, lý trí đã nhẫn tâm tống anh vào tù, và nhà tù thực dân đã biến anh thành một con người rất khác. Đây là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến khúc quanh đau thương và bi kịch của cuộc đời ông. Mà nguyên nhân sâu xa chính là những thế lực man rợ của xã hội đương thời luôn tìm cách đè bẹp những người nông dân nhụt chí. Thậm chí, nếu họ bị đẩy đến con đường nghèo khổ thì nạn côn đồ là điều khó tránh khỏi.

Sau khi ra tù, anh ấy là một con người hoàn toàn thay đổi, với một cái tên giống dân du mục: trong lớp anh ấy thay đổi diện mạo, ban đầu không ai nhận ra anh ấy. Trông như một gã to lớn… với cái đầu hói. Răng cạo trắng, mặt đen, mắt nhìn xuyên thấu! Anh ta mặc quần nái đen và áo sơ mi màu vàng. Ngực có chạm rồng phượng, tướng cầm chùy bằng cả hai tay. Được xúi giục bởi kẻ mạnh Li Jian, nhà tù thực dân đã giam cầm một người đàn ông hiền lành và ngây thơ, và thả một cậu bé hư, một tên côn đồ. Từ một người lương thiện, anh biến thành ác quỷ.

Trở về làng vu dai, làng chài thực sự, nơi cá lớn nuốt cá bé, chí phèo không còn dịu dàng, nhẫn nhịn như xưa. Anh đã nắm vững quy luật sinh tồn: càng hiền lành ngây thơ thì càng bị bắt nạt không ngóc đầu lên được. Để tồn tại nó phải hung dữ, cố chấp, độc ác. Anh mượn men để làm những thứ đó. Anh đắm chìm trong những cơn say triền miên, trong lúc say anh đã làm những việc như rạch mặt, đâm người. chí phèo đã bị khuất phục – kẻ thù của anh biến thành con dao trong tay đồ tể.

Vai nam Tào tướng quân Tào Tri Phi phản ánh chân thực, sinh động bi kịch tâm hồn, nhân phẩm của những người nông dân nghèo bị hủy hoại. Chí phèo sa lầy vào sự thối nát: có lẽ hắn không biết rằng hắn là con quỷ nhơ nhớp của làng vu đại, đã gieo rắc tai họa cho biết bao dân làng. Anh biết mình đã phá vỡ bao nhiêu cơ nghiệp, phá vỡ bao nhiêu cảnh hạnh phúc, phá vỡ bao nhiêu hạnh phúc và đổ bao nhiêu máu và nước mắt của những người lương thiện. Dân làng ở làng Wudai đều quay lưng lại với anh ta, chế nhạo anh ta và ghét anh ta vô tận. Mọi người sợ khuôn mặt thâm tím của anh ta, gần giống như một con thú và con quỷ trong tâm hồn anh ta.

Sự tha hóa của chí phèo một mặt tố cáo xã hội thực dân phong kiến ​​đã cản trở con người làm ra những điều tàn ác, mặt khác nó thể hiện những giá trị nhân đạo mới của con người cao cả đối với số người nông dân trước cách mạng.

Trong bi kịch tinh thần nông dân, những người đàn ông cao lớn đã khám phá ra vẻ đẹp ẩn sâu trong tâm hồn mình. Mặc dù phẩm giá của anh ta đã bị hủy hoại bởi bạo lực của bóng tối, nhưng trong trái tim anh ta vẫn còn một tia sáng và khao khát được làm người. Điểm độc đáo của Nam Tào là tác giả làm cho nhân vật Tề Huyết dao động giữa thiện và ác. Đằng sau khuôn mặt xấu xí là nỗi đau, sự vật vã khi được sinh ra làm người nhưng lại bị tước đi quyền làm người. Trong cơn say, Chí Phèo chửi trời, chửi đời… tiếng chửi của hắn nghe như van xin, nhưng làng vũ đại chưa ai từng chửi nhau bằng hắn. Cuối cùng chỉ còn lại ba con chó dữ và một gã say rượu. Mọi người đối xử với anh ta như một con chó điên.

Khi tỉnh dậy, nỗi sợ hãi xa cách và nỗi cô đơn tràn ngập trái tim anh. Anh ấy khao khát được hòa giải với mọi người biết bao! Mối tình bất ngờ với Thị Hà có thể nói là món quà hào phóng của Tào Nan dành cho Chí Phèo. tình yêu của thị hà đã làm Chí Phèo sống lại, đánh thức lương tâm và khát vọng làm người của anh. Lần đầu tiên trong đời anh nhận bát cháo hành từ tay cô, một mình anh sợ hãi muốn khóc. Nhiều năm như vậy lần đầu tiên, thanh âm quen thuộc của cuộc sống lại vang lên bên tai, vang vọng trong lòng, khiến hắn càng khát khao được làm một người bình thường như bao người khác, càng khao khát được nàng mở đường cho mình. khi nó lớn lên. .

Nhưng cánh cửa cuộc đời vừa mở ra đã đóng lại trước mặt tôi. Bà thị hà đại diện cho dân làng vũ đại tuyệt đối không chấp nhận chí phèo. Cô đơn rơi từ hy vọng xuống vực thẳm tuyệt vọng. Lần đầu tiên trong đời anh ý thức sâu sắc về số phận bất hạnh của mình. Anh lại bưng rượu lên uống, hy vọng dùng nó để giải sầu, nhưng càng uống, anh càng sa sút, càng tỉnh táo. Anh ấy thực sự muốn trở thành một con người, nhưng cả làng khiêu vũ đều chống lại anh ấy, và không ai coi anh ấy như một con người. Hắn không thể tiếp tục làm ác ma, bởi vì hắn biết nhân sinh bi kịch.

Để linh hồn có lại sự sống, con rận phải từ bỏ thể xác. Thậm chí chết trước ngưỡng cửa trở về cuộc sống lương thiện. Nỗi đau, cái chết đau đớn và một câu hỏi cuối cùng dành cho chi poo: ai sẽ cho tôi sự lương thiện? Nó vẫn còn day dứt lương tâm người đọc cho đến ngày nay.

Đây cũng là vấn đề lớn của người cao: làm sao người ta có thể thực sự sống làm người trong cái xã hội tàn khốc đó?

Qua truyện ngắn “Chiếc Piêu đỏ”, Nam Cao đã đạt đến đỉnh cao của tư tưởng nhân đạo khi nhìn nhận, đánh giá người nông dân trước cách mạng. Nhà văn không dừng lại ở hiện tượng bên ngoài mà thể hiện sâu sắc bản chất bên trong của con người. Tài năng của Cao Nan Cao trong việc tạo hình các nhân vật điển hình trong các tình huống điển hình cũng thể hiện tài lão luyện của ông. Hình tượng chí phèo có ý nghĩa xã hội to lớn và sức sống lâu dài. Có thể nói, tác phẩm và nhân vật đã làm đẹp thêm tên tuổi của một bậc thầy trong lịch sử văn học Trung Quốc.

Xem thêm các bài văn mẫu phân tích dàn ý cho bài văn lớp 11 khác:

  • Phân tích nhân vật Chi Piao trong truyện ngắn Chi Piao (Fan Wenyi) của Tào Nan
  • Phân tích nhân vật chí phèo trong truyện ngắn chí phèo (văn mẫu 2)

  • Phân tích nhân vật chí phèo trong truyện ngắn chí phèo (bài văn mẫu 3)

    Giới thiệu kênh youtube vietjack

    Ngân hàng đề thi lớp 11 tại

    khoahoc.vietjack.com

    • Hơn 75.000 câu hỏi toán trắc nghiệm có đáp án
    • Hơn 50.000 câu hỏi trắc nghiệm với 11 đáp án chi tiết
    • Gần 40.000 Câu hỏi và Đáp án trắc nghiệm Vật lý 11
    • Ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm

Nguồn: https://anhvufood.vn
Danh mục: Giáo Dục