Bài văn mẫu Thuyết minh hai đoạn đầu bài Bình Ngô Đại Cáo siêu

Bài văn mẫu Thuyết minh hai đoạn đầu bài Bình Ngô Đại Cáo siêu

Thuyết minh đoạn 1 bình ngô đại cáo

Bài văn mẫu giải thích 2 đoạn đầu trong 10 bài văn nghị luận hay hay nhất được tuyển chọn sẽ giúp các em học sinh xây dựng các luận điểm, luận cứ chính xác và ý nghĩa nhất để hoàn thành bài văn. Tô màu bài viết của bạn.

Bạn Đang Xem: Bài văn mẫu Thuyết minh hai đoạn đầu bài Bình Ngô Đại Cáo siêu

Dàn ý giải thích 2 đoạn đầu của 10 bài viết đánh giá chi tiết nhất

1. Mở bài đăng

– Câu hỏi dẫn dắt: Khái quát tác giả, tác phẩm, giá trị nội dung, nghệ thuật phê bình.

2. Nội dung bài đăng

– Đưa ra lập luận công bằng: cốt lõi của bản chất con người là yên dân trừ bạo. Bản chất con người không chỉ giới hạn trong khuôn khổ Nho giáo, mà rộng hơn là làm sao đem lại cuộc sống bình yên cho nhân dân. Ngoài ra, chắc chắn đất nước của chúng ta là một đất nước nhỏ, nhưng vẫn có thể tự hào :

+ Các nền văn hóa cổ đại.

+ Phác thảo lãnh thổ.

+ Phong tục.

+ Lịch sử và chế độ riêng tư.

– Bản cáo trạng vạch rõ tội ác của giặc: giặc khéo lợi dụng vùng biển động để đánh cá. Không những thế còn tàn sát, tra tấn, tước đoạt mạng sống con người một cách dã man (ví dụ).

– Tóm tắt quá trình kháng chiến:

Xem Thêm: Soạn bài Đoàn thuyền đánh cá | Soạn văn 9 hay nhất

+ Tạo dựng hình tượng anh hùng thường dân bình dị nhưng có lòng yêu nước sâu sắc, thương dân thương giặc, có lý tưởng cao đẹp (so với Trần Quốc Quân thấy thù và tin giặc). Niềm Tin Sắt Đá).

+ Nêu những chiến công anh hùng (ví dụ).

– Tuyên bố Hòa bình mở ra một kỷ nguyên mới.

Xem Thêm : Soạn bài Bánh trôi nước | Soạn văn 7 hay nhất – VietJack.com

* Nghệ thuật:- Sử dụng từ ngữ rõ ràng, cố hữu.

– Làm ngược lại, dùng Mênh mông măng cụt nước Nam để bàn cái ác khôn lường của giặc, dùng Biển Đông mênh mông để bàn cái vô cùng nhơ nhớp.

– Nghệ thuật xây dựng nhân vật.

– Liệt kê, so sánh, đối chiếu để tạo thành bản hùng ca về những chiến công hiển hách.

3. Kết luận:

Tóm tắt nội dung và nghệ thuật tiêu biểu.

Tường thuật hai đoạn đầu của bài báo hay nhất, chọn lọc và bán chạy nhất

Nhắc đến các nhà văn chính luận kiệt xuất của văn học trung đại, không thể không nhắc đến họ Nguyễn. Ông không chỉ là một nhà thơ trữ tình sâu sắc mà còn là một cây bút chính luận xuất sắc với các tác phẩm: Quan Trung Tupata, Chiếu thời Lê và tác phẩm nổi tiếng nhất là Đại cáo ngô bình. Những bài văn chính luận này thể hiện lòng yêu nước của tác giả.

Phóng sự bộc lộ tư tưởng nhân văn ngay từ đầu:

“Người nhân nghĩa sẽ bình an, kẻ bạo ngược sẽ bị trừng trị trước

Xem Thêm: Thủ tục hành chính là gì? Các hình thức công khai thủ tục hành chính

“Nhân” có nghĩa là yêu thương người khác và hành động vì lợi ích của con người và xã hội. Ngoài ra, “nhân bản” còn có nghĩa là tôn trọng và bảo vệ các quyền. Chịu ảnh hưởng của Nho giáo, đối với nhà Nguyễn, “nhân bản” là “yên dân”, “trừ bạo” phải đặt tính mạng và hạnh phúc của con người lên hàng đầu. Mọi người nên yêu thương nhau, cùng nhau bảo vệ đất nước và thoát khỏi cuộc sống khốn khổ. Muốn vậy, phải diệt trừ bọn man rợ, bọn xâm lược, kẻ thù xâm lược nước ta lúc bấy giờ. Tư tưởng nhân văn của Nguyễn Tí là tinh thần yêu nước, thương dân, kiên quyết chống giặc ngoại xâm. Đây không chỉ là mối quan hệ giữa con người với nhau, mà còn là mối quan hệ giữa con người với các quốc gia.

Nhằm khẳng định chủ quyền dân tộc, tác giả đưa ra những dẫn chứng cụ thể, thuyết phục:

“Giống như quốc gia Daue trước đây của chúng ta, nó tuyên bố có một nền văn minh lâu đời, có núi và sông rõ ràng, và các phong tục khác nhau từ bắc chí nam. Nó đã độc lập trong nhiều thế hệ từ Baiwan, Ding, Li, và Trần. Cùng với Hán, Đường, Đường, mỗi người tự xưng là Hoàng đế một phương. Tuy có điểm mạnh và điểm yếu, nhưng mỗi thế hệ đều có những kiệt tác”.

Văn hóa có lịch sử lâu đời, được hình thành trong lịch sử hàng nghìn năm của nước ta, đã tạo nên diện mạo độc đáo của dân tộc. Tiếp theo đó là sự phân chia biên cương, sông núi, phong tục tập quán đặc trưng ở hai miền nam bắc đều cho thấy nước ta là một nước có chủ quyền, anh dũng bất khuất, lấy thân mình phụng sự Tổ quốc, chiến đấu để bảo vệ nó. con sông. Không những thế, Nguyễn Thiếp còn so sánh các triều đại của nước ta với các triều đại Hán, Đường, Tống, Nguyên của Trung Quốc và các triều đại khác. Bắc triều thịnh, Nguyệt triều cũng thịnh. Có thể thấy tác giả là người có niềm tự hào, tự tôn dân tộc sâu sắc.

Ông nhắc lại bao chiến công hiển hách của Đại Việt như một lời khẳng định về sự thất bại nặng nề của kẻ thù:

“Cứu hoàng cung là việc công nên thất bại, triệu hào kiệt phải bỏ mạng. Hổ răng hổ bị bắt quá nhiều, Baidanhe giết Uma. Nghĩ lại chuyện xưa, chứng cứ còn” .

Các tướng Tống, Nguyên đều bị tướng giỏi của ta đánh bại. Họ phải gánh hậu quả nặng nề vì “tham lam” và “thích làm lớn”. Những sự kiện đó cũng đã được nhân dân ta ghi vào sử sách và mãi mãi trường tồn. Việc so sánh giữa các triều đại phong kiến ​​nước ta với các triều đại phương Bắc, cùng với giọng điệu hào hùng, trang nghiêm của bản yết và đoạn đầu của bài cáo đã làm nổi bật tư tưởng nhân đạo của tác giả.

Xem Thêm : Soạn bài Cảnh khuya, Rằm tháng giêng | Soạn văn 7 hay nhất

Ông vạch trần và tố cáo tội ác của quân xâm lược đối với nhân dân ta:

“Tự mình gây họa, dân oán nước, quân điên nhân cơ hội gây họa, kẻ gian ác phản nước cầu vinh.”

Quân lợi dụng sự “ồn ào” của hồ để nhân cơ hội xâm lược nước ta. Bước chân hung hãn của chúng đã chà đạp lên quê hương ta, khiến nhân dân vô cùng căm phẫn và căm ghét. Chính vì vậy mà những kẻ ác chỉ biết nghĩ đến quyền lợi của mình đã khuyến khích những kẻ xâm lược không chiến đấu vì dân và vì nước, để giành vinh quang cho mình, giành vinh quang cho mình, giành lấy vinh quang cho mình.

Kẻ thù đã phạm tội không thể tha thứ:

Xem Thêm: Văn mẫu lớp 12: Phân tích diễn biến tâm trạng Mị trong đêm tình mùa xuân (19 Mẫu) Mị trong đêm tình mùa xuân

“Lửa thiêu dân đen, vùi con đỏ trong hố họa. Dối trời dối người, dẫn đến chiến tranh, ân oán hai mươi năm, phá khóa không có đầm lầy” “.

Nhân dân ta phải đau đớn, than khóc dưới chân quân xâm lược. Chúng “nướng”, “đốt” dân ta trong lửa, “thảm họa”. Chúng thống trị nhân dân ta bằng những thứ thuế má vô lý, những âm mưu thâm độc lừa bịp, tra tấn dã man, dã man. Những người dân vô tội bị kẻ thù áp bức, bóc lột dã man.

Không những thế, chúng còn tàn phá môi trường sống, môi trường tự nhiên của dân tộc ta:

“Người ta bắt xuống biển đãi ngọc trai, chán cá mập, người ta bắt lên núi đãi vàng, khi rừng sâu, nước độc. Lưới, quấy người, cạm bẫy hươu đen, nơi có bẫy”.

Đặt dưới ách thống trị của quân đội cũng đồng nghĩa với việc nhân dân ta phải đối mặt với ách thống trị tàn bạo và xâm lược của chúng. Chúng dã man, vô nhân tính, bắt dân đen phải “xuống biển mò ngọc”, “lên núi đãi vàng”, bắt dân thường chúng ta vào những nơi nguy hiểm, rình rập khắp nơi, đe dọa đến tính mạng. Đời sống. Tìm vật có giá trị cho người điên. Người dân của chúng tôi đã trở thành nô lệ cho kẻ thù của họ và miếng mồi ngon cho những con cá mập hung dữ. Chúng sang xâm lược nước ta và cướp đoạt mọi thứ quý hiếm, như chim trả tiền để lấy quần áo và đệm, hươu đen để bổ sung. Có thể nói, tham vọng xâm lược nước ta của kẻ thù là rất lớn.

Không những gây nguy hiểm chết chóc cho đồng bào ta mà chúng còn “tiêu diệt côn trùng và cây cỏ”. Do quân đội “máu thịt bay đi đâu không biết mỏi” và không ngừng xây dựng nhà cửa, đất đai canh tác, nhân dân nước ta đã lâm vào cảnh khốn cùng:

“Những khó khăn không kể xiết đã phá vỡ toàn bộ ngành chăn nuôi “.

Tội quân không thể nói, vì:

“Thật độc ác, Nam Sơn Trụ tội không nhớ, dơ bẩn, biển Đông rửa không sạch mùi tanh. Lẽ nào thiên hạ bình yên, ai bảo trời chịu nổi”

Ngay cả Nanshanzhu và Donghai cũng không thể ghi hết tội ác và rửa sạch những vết nhơ của quân xâm lược. Những hành động độc ác và dã man của chúng không thể chịu đựng được ngay cả trong thế giới, chứ đừng nói đến thế giới. Câu hỏi tu từ cuối đoạn 2 một lần nữa nhấn mạnh tội ác của giặc. Chúng ta không thể tha thứ cho những kẻ tàn sát đồng loại của chúng ta và phá hủy thảm thực vật tự nhiên của đất nước chúng ta.

Những hình ảnh tương phản giữa những người dân da đen vô tội bị bóc lột tàn bạo và những kẻ thù vô nhân đạo của họ, cùng với giọng điệu nhân ái, đanh thép và lập luận sắc bén, đã bộc lộ tư tưởng nhân đạo của Ruan Ze. Hai đoạn đầu của bản cáo trạng là những bản cáo trạng hùng hồn lên án sự tàn ác của quan quân. Đây là một ví dụ tiêu biểu nhất về những gian khổ, áp bức, cướp bóc, bóc lột trần trụi mà nhân dân ta đã phải gánh chịu trong suốt “hai mươi năm chiến tranh”.

Nhấp vào nút Tải xuống bên dưới ngay bây giờ để tải xuống bản pdf miễn phí của hai đoạn đầu của Học bạ Tiếng Trung lớp 10.

Nguồn: https://anhvufood.vn
Danh mục: Giáo Dục