Phân tích 8 câu cuối đoạn trích Trao duyên trong Truyện Kiều

Phân tích 8 câu cuối đoạn trích Trao duyên trong Truyện Kiều

Câu cuối truyện kiều

Truyện Kiều là một trong những đoạn cảm động và sâu sắc nhất trong Truyện Kiều, ở đây Nguyễn Du đã thể hiện khả năng nắm bắt tâm lý nhân vật một cách tinh tế, đồng thời cho ta thấy bi kịch xảy ra như thế nào Bi kịch tình yêu, thuy kiều Bi kịch của tâm hồn khi trao duyên cho thuý văn, nhất là 8 câu thơ cuối:

Bạn Đang Xem: Phân tích 8 câu cuối đoạn trích Trao duyên trong Truyện Kiều

Bạn đang xem: Phân tích 8 câu cuối truyện Kiều-Nguyễn Du

“Trâm đã gãy, gương vỡ, bảo sao nên duyên! Tình trăm ngàn, nhưng trong chảo chớp nhoáng! Một vì sao bạc như vôi! Ta đành để cho nước và hoa trôi dạt khỏi làng. Ôi, Jinlang! Ôi, Jinlang! Dừng lại, tôi đã giúp bạn rồi!”

Nguyễn Du tên là ảnh tố, tên là thanh hiền. Quê cha ở xã Tiên Thần, huyện Nghệ Xuân, tỉnh Hà Tĩnh, quê mẹ ở Bắc Ninh, nhưng lại sinh ra ở Thăng Long, nên Nguyễn Du dễ dàng tiếp thu tinh hoa của các nền văn hóa khác nhau. Tác giả sinh ra trong một đại gia đình, nhiều đời làm quan to, có truyền thống văn thơ, ham ca hát. Ông sinh ra và lớn lên trong một giai đoạn lịch sử đầy biến động mạnh mẽ của xã hội phong kiến. Cuộc đời đầy bi kịch, Nguyễn Du sớm mồ côi cha mẹ, phải ở với người em là Nguyễn Khản. Gia đình tan nát, bản thân anh lưu lạc ở Thái Bình quê vợ vì “mười năm làm gái điếm”. Nhưng chính những thăng trầm đó đã tạo nên cho ông vốn sống quý báu và vốn hiểu biết phong tục dân gian sâu sắc. Nguyễn Du là một vị quan thời Lê và Nguyễn. Ông là người ngay thẳng và được nhân dân yêu mến. Sự nghiệp văn chương của ông đồ sộ, kiệt tác ở nhiều thể loại: Thơ chữ Hán, Nguyễn Du gồm 3 tập, gồm Thanh hiền thi tập, Nam trung tâm ngâm, Bắc hành tạp lục. Thơ nổi tiếng, Nguyễn Du có hai tác phẩm tiêu biểu là “Hải ngoại đàm” và “Mười loại văn của chúng sinh”. Đoạn trích thất tình bắt đầu từ câu thứ 723 đến câu thứ 756 của Sở Kiều truyện.

Sau khi thuyết phục được Thụy Vân nhận lời, cô ấy đã tặng tôi một món quà và lời khuyên của cô ấy. Kiều sống mà như chết, nói chuyện với em mà không biết nói với ai, nàng lâm vào trạng thái độc thoại nội tâm. Sự không hài lòng hiện rõ đến mức Joe rơi vào cảm giác tuyệt vọng tột cùng:

“Giờ trâm gãy, gương vỡ, bảo sao nên duyên”

“Trâm gãy gương” ám chỉ sự tan vỡ của tình yêu, cũng như trái tim tan vỡ của Cuiqiao. Việc sử dụng hình ảnh ước lệ rất hiệu quả, qua đó tác giả thể hiện nhận thức sâu sắc về bi kịch của thời đại. Năm xưa nàng và Kim Trọng rất hạnh phúc – mối tình đầu đẹp như hoa mộng, vậy mà giờ đây chỉ còn lại nỗi đau không tên. “Trâm cài áo” và “gương soi” là hai hình ảnh tượng trưng cho người con gái đủ lớn để nhận ra vẻ đẹp của chính mình. Joe đã ấp ủ nó từ lâu, nâng niu từng chút một, mong một ngày được song hành cùng kim loại quý mãi mãi nhưng mọi hi vọng đều vụt tan trong phút chốc. Kiều được Kim “yêu” nhiều đến mức “biết sao được”, vậy mà nay lại thất hứa, nghẹn ngào, đau khổ, tủi thân cho thân phận. Nguyễn Du mở ra hai chiều của hiện tại và quá khứ. Những gì từng là hạnh phúc “yêu thương” giờ là đau đớn, mất mát và kiêu ngạo. So sánh nhấn mạnh và đào sâu bi kịch, nỗi đau của người Việt Nam ở nước ngoài, càng tiếc nuối quá khứ thì hiện thực càng bẽ bàng, thất vọng.

Bây giờ tất cả đã mất, kiều không thể để mọi thứ trở lại quá khứ, chỉ biết cố gắng động viên, an ủi mình và người yêu:

“Nhân duyên ngắn ngủi, vạn quân bái phục!”

Lời thú nhận của cô thật đáng thương, thật đáng thương. Hàng nghìn hàng vạn người cúi đầu trước “đội quân tình yêu” – những người đã cùng nàng trải qua vô số mối tình say đắm, nồng nàn, say đắm, nguyện bên nhau trăm năm, nhưng cuối cùng lại phản bội nàng. Trước đó, cô đã “cúi đầu” trước chị gái và cầu xin cô kết hôn với anh ta. Nhưng cái “lạy” này là một cái cúi đầu biết ơn và một lời xin lỗi rất đau đớn. Trong trường hợp này, Qiao chỉ có thể xin lỗi. Cung đấu kiều kết thúc mối tình đầu ngắn ngủi đầy tiếc nuối. “Có bao nhiêu mối tình thoáng qua,” câu nói của kiều đầy vị cay đắng của sự chia ly. Lúc này nàng kiều mới thấu hiểu nỗi cô đơn, tủi phận của mình trong thế gian bất công. Việt kiều xót xa trước sự bạc bẽo, nghiệt ngã của cuộc đời, xót xa cho sự nhẫn tâm, nghiệt ngã của số phận đã không giữ được hạnh phúc của mình:

“Phận bạc như đá! Thôi đành mặc cho nước chảy hoa trôi về làng”

“bạc như vôi” là số phận éo le, bạc bẽo. Đó là một lời than thở, một lời than thở về số phận của người Việt Nam ở nước ngoài mà không ai có thể hiểu hết, một lời than thở chua xót, tuyệt vọng. Khi đó, số phận kiều bào sẽ “lênh đênh” như bông hoa đẹp trên dòng nước xiết, bẩn thỉu, nhớ làng, không thể cứu vãn. “Liu Shui Hua Piao Piao” có nghĩa là mùa xuân đã tàn, hoa đã rụng và tuyết đã tan, ngụ ý rằng sự trinh trắng của Joe đã hết. Trước khi oán trách, cô đồng ý hủy hoại thân xác để bù đắp cho việc người tình chung thủy phản bội lời thề. Cuộc đời quá đau khổ, hay xã hội quá bất công và tàn nhẫn với một người tài hoa như nàng Thúy Kiều. Đúng là đời “nước chảy mây trôi”, nhưng nó cũng có giới hạn, nhưng sao nó bạc bẽo và nghiệt ngã đến thế. Việt kiều hãy quên đi nỗi đau của chính mình và nghĩ đến người khác nhiều hơn, đó là một sự hy sinh cao cả. Joe là người rõ ràng nhất trong cuộc đời anh, vì vậy nỗi đau càng đau hơn.

Khi nỗi đau xé lòng lên đến đỉnh điểm, Kiều lại nghĩ đến chàng Kim. Cái tên Tấn lúc này vang lên, như tiếng kêu thê lương của một người đang vùng vẫy trước vực thẳm cuộc đời:

“Ôi kim lang! thôi đi kim lang, ta giúp ngươi rồi”

Nhịp thơ 3/3, 2/4/2 đau đớn, ngột ngạt như tiếng nấc nghẹn ngào. Tiếng kêu “Ôi, ôi” là tiếng kêu đau đớn và tuyệt vọng của Joe. Nhắc đến Kim Rang hai lần là thấy tức giận, ngột ngạt, đau đớn đến phát điên. Nỗi đau của Joe được đẩy lên cao trào, tình cảm lấn át lý trí. Cô không nghĩ được gì, chỉ biết gọi tên người yêu trong đau đớn. Sự thật khiến Cuiqiao phải vật lộn và hét lên “Dừng lại”, cắt từng khúc ruột trong đau đớn. Qua đó có thể thấy tình cảm của Cuiqiao dành cho Jin Zhong rất sâu sắc và trung thành với màu sắc.

Nghệ thuật khắc họa tâm lý nhân vật, với bút pháp tinh tế, đắt giá, thành ngữ giàu sức gợi, sử dụng nghệ thuật ẩn dụ, so sánh, liệt kê, tương phản. Du thể hiện rất thành công số phận éo le, nội tâm giằng xé, đau đớn, cay đắng, xót xa và tuyệt vọng vì tình của nàng thuý kiều. Bằng tài năng của mình, tác giả đã biến đoạn Én trở thành bài thơ bi thảm nhất trong Kiều truyện, chính vì vậy mà câu chuyện dù đã lâu vẫn còn nguyên giá trị.

Phân tích 8 câu cuối của đoạn tình tứ trong truyện kiều – Văn mẫu 2

“Ở bên người thân, nước mắt tôi tuôn rơi”

Nói đến văn học, Stendahl đã viết: “Văn học là tấm gương phản chiếu đời sống xã hội”. Tác giả đã từng nói: “Văn học không chỉ là văn học mà còn là cuộc sống, nếu văn học tồn tại vì cuộc sống thì nó chẳng là gì” Đây cũng là một trong những chức năng cơ bản của văn học: phản ánh đời sống xã hội. Nguyễn Du – một nhà thơ lớn của nền thơ ca Việt Nam được phú cho chức năng này. Anh sống trong một giai đoạn lịch sử đầy biến động, một xã hội mà mọi thứ đều bị đồng tiền thống trị. Ông đã chứng kiến ​​bao cảnh đời bất công, đồng thời ông cũng bày tỏ sự cảm thông sâu sắc trước những bất hạnh của người phụ nữ thời bấy giờ. Kiệt tác Đường tân thanh (Truyện Kiều) ra đời từ đây. Trong số đó, đoạn trích “Shi En” là một trong những đoạn trích tiêu biểu thể hiện tài năng và tư tưởng nhân đạo của tác giả, đặc biệt 8 dòng cuối bài thơ đã thể hiện chính xác tình cảm của tác giả. Kiều nữ và số phận vàng.

Nguyễn Du là đại thi hào dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới, nhà nhân đạo kiệt xuất “nhìn thấu sáu cõi” và “nghĩ muôn đời”). Nguyễn Du, tên là Rusu, biệt hiệu là thanh hiền, sinh ra ở làng Thiên Điện, huyện Nghệ Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Ông sinh năm 1765 (Ất Dậu) trong một gia đình nhiều đời, nhiều đời làm quan dưới hai triều Lê, Trinh. Cha là Nguyễn Kiên làm tể tướng 15 năm. Mẫu thân là Trần Thị Tân người Bắc Kinh, có tài ca hát. Quê hương Nguyễn Du là đất địa linh, đất nhân tài, hiếu học, trọng tài. Dòng họ Nguyễn Đức có truyền thống học vấn uyên bác, nhiều tài văn chương. Gia đình và quê hương là “mảnh đất màu mỡ” đã nuôi dưỡng tài năng Nguyễn Đấu.

Từ nhỏ Nguyễn Du đã sống trong nhung lụa. Mồ côi cha mẹ từ năm 10 tuổi, cuộc đời Nguyễn Du bắt đầu gặp nhiều thăng trầm trong suốt 3 năm đất nước loạn lạc: chung sống với Nguyễn Khản (có anh cùng cha khác mẹ là Tể tướng của phủ Trịnh Hoán), Nguyễn Kế Khản là bị giam cầm, bị tiêu diệt bởi niềm tự hào, và phải chạy trốn. Năm 19 tuổi, Ruan Du đã vượt qua ba kỳ thi và trở thành một quan chức ở Tairuan. Không lâu sau khi nhà Lí sụp đổ (1789), Nguyễn Du về quê vợ ở Thái Bình, vợ mất, ông về quê cha, có khi về Ninh Bắc về quê mẹ, phần lớn thời gian ông ở Thăng Long Vô gia cư trong lâu đài. Trong hơn mười năm lưu lạc ở phương Bắc, Nguyễn Du đã gần gũi với những người bình dân và cảm nhận sâu sắc sự ấm lạnh của kiếp người, đặc biệt là những người dân lao động, phụ nữ, trẻ em, cán bộ, ăn mày… những “tầng lớp hạ lưu”. ” Thuộc về xã hội. Chính những bất hạnh lớn của cuộc đời đã tạo nên thiên tài nhân đạo vĩ đại Nguyễn Du.

Ngoài “trường tân thanh” (truyện kiều); “Thập loại chúng sinh văn” (văn tế hồn) và hai bài báo nghi vấn là “Sự hy sinh của Trương Luân Nữ” (Văn học cô gái trường sinh) và “Chuyện của Ngôi Lời Đồng Trinh”. Nguyễn Du còn sở hữu ba tập thơ quý bằng chữ Hán. Hậu hiên thanh; nam trung ngâm ngâm; lục bắc. Một số bài hát, chẳng hạn như “Reverse”, “Tai Ping Advertisement” và “Dragon City Kan”, đều thể hiện rõ sự quan tâm của họ đối với vận mệnh của nhân loại. Những bài viết về Thăng Long, về quê hương và phong cảnh những nơi Nguyễn Du đã đến đều để lộ một nỗi buồn man mác.

Theo Giáo sư Nguyễn Lộc, trang 455 ghi: “Giai nhân Tấn Thanh… là một truyện ngắn bằng thơ viết theo thể lục bát, dựa theo tác phẩm Kim Vân Kiều Truyện của Thanh Tâm Tài Nhân Trung Quốc, gồm 3.254 khổ thơ.. Có có thuyết cho rằng Nguyễn Du viết Truyện Kiều sau khi đi sứ (1814-20) Có thuyết cho rằng Nguyễn Du viết trước khi đi sứ, có thể trong thời kỳ làm Tổng đốc Quảng Bình (1804-09) ). Sau này Thuyết này được nhiều người chấp nhận. Truyện Kiều có vai trò quan trọng trong sinh hoạt văn hóa Việt Nam. Nhiều nhân vật trong truyện Kiều đã trở thành những nhân vật tiêu biểu trong xã hội cũ như Thanh Bộ, thái giám, Từ Hải, tất cả đều đã đi vào thành ngữ vn.

Giáo sư, nhà giáo Lại Tín Kì, người được mệnh danh là “Chuyên gia về truyện Hoa kiều”, có một nhận xét thú vị: “Truyện hải ngoại được sản sinh từ những giá trị văn học đương đại, khiến cho tác phẩm của Nguyễn Du rất khác so với chúng ta ngày nay. về nội dung, phong cách, về cách tiếp cận, về hình thức nghệ thuật.Nhưng dù thế nào đi nữa, Nguyễn Dục vẫn là con người của thời đại, dù trong tư tưởng hay trong thủ pháp nghệ thuật, ông không thoát khỏi môi trường lịch sử – xã hội cụ thể, thể hiện trong tác phẩm của ông. khuynh hướng duy tâm hóa và suy đoán.Đây là điều khó tránh khỏi trong hoàn cảnh chung của sáng tác và trình độ chung của tư duy nghệ thuật lúc bấy giờ… Trước sau, Truyện Kiều vẫn là một di sản lớn và là đỉnh cao của nền văn học dân tộc xưa. và Tuyên bố vĩnh cửu về giá trị văn học cho phép chúng tôi xác nhận điều này.”

Đó là một đoạn trích từ “Tiếng Trung Quốc ở nước ngoài”, và “Sự quyến rũ thay đổi” có tổng cộng 34 phần. Đây là các câu từ 723 đến 756 của kiệt tác này. Đoạn trích hướng người đọc đến với Thôi Kiều, nhân vật trung tâm, trong một hoàn cảnh vô cùng đặc biệt: Sau khi gia đình bị vu oan, Thôi Kiều phải bán mình chuộc cha bằng cách dâng phò mã thư sinh. Đêm trước khi phải xa gia đình theo phường bán hương, kiều hỏi em gái là thuý văn trả kim trong có nghĩa là gì, phần còn lại của đoạn trích nói về việc thuý kiều nghĩ nghĩ về đời mình và nhớ về kim trong Cảm nghĩ dòng. Đoạn trích là tiếng lòng sâu lắng của Kiều về bi kịch gia đình, số phận và mối tình đầu đẹp đẽ.

Tiêu đề nói về sự trao gửi yêu thương, nhưng trớ trêu thay, đây không phải là cảnh yêu đương lãng mạn của nam nữ mà chúng ta thường thấy trong các bài hát xưa. Đọc xong mới hiểu, “Tặng Nguyên” ở đây chính là gửi gắm yêu thương, trao gửi yêu thương của mình cho người khác, nhờ người khác chắp nối lại mối tình còn dang dở của mình. Trước khi Cuiqiao bắt đầu cuộc sống lang thang, cô đã bán mình để cứu cha mình, vì nghĩ rằng mình không thể giữ hợp đồng hôn nhân với người yêu nên đã yêu cầu cô trở thành Cuiyun thay vì ở bên Jin. Bài thơ này không chỉ kể một câu chuyện tình yêu mà còn chất chứa nhiều tâm tư nặng trĩu của Thôi Kiều. Đặc biệt khi thể hiện nỗi xót xa của kiều nữ trước số phận với Tấn, Nguyễn Du đã để lại ấn tượng sâu sắc trong 8 đoạn cuối của đoạn trích:

“Trâm đã gãy, gương vỡ, bảo sao nên duyên! Tình trăm ngàn, nhưng trong chảo chớp nhoáng! Một vì sao bạc như vôi! Ta đành để cho nước và hoa trôi dạt khỏi làng. Ôi, Jinlang! Ôi, Jinlang! Dừng lại, tôi đã giúp bạn rồi!”

Vì muốn cứu gia đình, nàng đã phải bán mình chuộc cha. Nhưng khi làm như vậy, cô ấy đã phản bội lại lời thề chung thủy, thủy chung và tình yêu quý giá của mình. Tình thế này buộc cô phải dựa vào em gái mình là Cui Wen, như thể trả lại số phận, yêu cầu cô thực hiện lời thề với Kim Jong, mặc dù Cui Qiao rất đau đớn, dày vò trái tim và nhắc nhở cô rằng em gái mình là nếu cô Để ra đi mãi mãi “mãi mãi”. Sau khi kể hết tâm sự của mình cho em gái, Kiều nhìn lại cuộc đời và đau đớn nhận ra một sự thật phũ phàng rằng bây giờ so với xưa có một sự đối lập đau đớn:

“Bây giờ trâm gãy gương vỡ, bảo sao nên tình!”

Bây giờ mọi thứ đã vỡ, tôi nhớ quê, làm sao cắt nghĩa được những ký ức máu mủ, đau thương, ngọt ngào ngày xưa. Biểu hiện của “Trâm gãy gương” là sự tan vỡ của tình yêu và sự tan vỡ của trái tim Cuiqiao. Tình yêu của cô dành cho kim loại quý ngày càng sâu đậm, nỗi đau và sự dằn vặt nội tâm của cô ngày càng mạnh mẽ. Nguyễn Du đã sử dụng hình ảnh ước lệ “trâm gãy gương nâu” mang lại hiệu quả biểu đạt rất cao. Qua hình ảnh đó, tác giả thể hiện nhận thức sâu sắc của mình về thảm trạng hiện tại. Kiều bàng hoàng và chua xót khi so sánh với quá khứ – những năm tháng Việt kiều hạnh phúc và mơ mộng về mối tình đầu, giờ chỉ còn lại là nỗi đau và tiếc nuối khi bao lời hứa đẹp đẽ tan thành mây khói.

Xem Thêm: Bài thơ Tiếng gà trưa Tác giả Xuân Quỳnh

“Trâm cài áo” và “tấm gương” tượng trưng cho bức tranh đẹp về một cô gái trẻ chú ý đến khuôn mặt của chính mình khi tình yêu gõ cửa trái tim. Nhưng điều cô nâng niu, trân trọng chính là mong chờ một ngày nào đó có thể ấp ủ mãi mãi ở bên cạnh nhau (để có thể hoàn thành lời thề mà cô và người mình yêu đã từng hẹn ước, từ giây phút “từ khi ta gặp nhau”. Jin)-“Khi nào ngày quạt đêm thề”) Thình lình, tai họa ập đến, mọi ý nghĩ đều tiêu tan.

“Muôn vàn mối tình” không thể đong đếm trong miền kí ức thi ca bởi sự đối lập thêm giữa thuý kiều và kim trong mà nàng nhắc đến ở phần sau so với phần trước. Khổ thơ cô vừa kể ở phần trước. Khi cảm nhận 8 dòng cuối của câu chuyện tình yêu, chúng ta thấy rằng khi nhìn vào hoàn cảnh của Jo, chúng ta có thể thấy những gì cô ấy đã phải chịu đựng trong thời niên thiếu và lẽ ra vẫn được sống trong vòng tay yêu thương, che chở của cha mẹ. Tôi yêu cô ấy hơn bao giờ hết.

<3 Trong đau khổ và tuyệt vọng, Kiều đã nghĩ đến vàng. Quý giá là tất cả đối với cô ấy, niềm tin, hy vọng, niềm an ủi, mọi thứ đều được chia sẻ với cô ấy. Tuy nhiên, anh ở xa cô, nên cuộc nói chuyện này với anh chỉ là hư cấu. Đứng trước hiện thực phũ phàng, cô đã thốt lên lời than thở vô cùng cay đắng và đau đớn:

“Nhân duyên ngắn ngủi, vạn quân bái phục!”

Giọng Kiều xót xa cho số phận, oán trách sự bạc bẽo, nghiệt ngã của cuộc đời, than rằng số phận thất thường, mong manh, nghiệt ngã khiến cho cuộc tình tan vỡ chỉ là “đời ngắn ngủi”. Khi anh nói điều này, Qiao thực sự trân trọng thừa nhận rằng tình yêu giữa anh và Qiao, dù đẹp đến đâu, cũng chỉ là một kỷ niệm ngắn ngủi. Cảm nhận 8 câu cuối của câu chuyện ngôn tình, ta còn thấy khi nhờ cậy đến cô nàng “nói bằng máu, nói bằng máu” để giúp mình duy trì sự quyến rũ của mình, Joe cũng đã chân thành bảo cô ấy “ngồi dậy đi để cô ấy có thể” cúi đầu”. , và bây giờ, một lần nữa, chân thành, nhưng Ki-eul xin lỗi Kim, người rất có ý nghĩa với cô ấy. “wow” ở đây khác với “wow” trong đoạn đầu tiên. “Wow” là lời xin lỗi, ăn năn và chia tay của Cuiqiao với Jin Jin. Cô cảm thấy số mệnh của mình là một số mệnh bạc. Cô cảm thấy có lỗi với chính mình, đó cũng là sự đồng cảm của tác giả dành cho Cuiqiao. Từng lời, từng động tác của Thôi Kiều trong bài thơ tạo thành hình ảnh người con gái cõng trên trang viết của Nguyễn Du. Nặng tình và dở dang nhưng không còn cách nào cứu vãn được.

Thông điệp sám hối, từ chức chỉ là “bấy nhiêu” là quá ít, không thể kéo dài thêm được nữa. Thôi thì đành đành chấp nhận số phận, số phận ngắn ngủi lắm, hạnh phúc mong manh quá, kiếp này lỡ mất vợ, tôi xin vĩnh biệt cõi âm. Cô ấy gọi Kim là Đội quân của tình yêu, than thở rằng số phận của cô ấy chỉ tồn tại trong thời gian ngắn và cô ấy coi mình như một kẻ phản bội. Đau đớn biết bao: Đã trao yêu thương, còn xin em trả ơn cho chàng, nhưng cô gái xa xứ vẫn giấu nỗi buồn trong lòng. Có lẽ, Nguyễn Du một lần nữa đã lý giải một cách tài tình quy luật tâm lý của con người: so đo ít lắc, mà: càng lắc càng no! Tình yêu vẫn thế, dù cố tình bỏ rơi.

Lúc này, Kiều ý thức sâu sắc nỗi cô đơn, tủi phận trong cõi đời bất công:

“Sao số mệnh bạc như đá, nước trôi làng trôi”

Xem Thêm : Hướng dẫn, thủ thuật về Thủ thuật văn phòng

Bài thơ nghẹn ngào, đoạn nào? Bạc nào như vôi? Câu này cho thấy tình trạng giảm sút của phụ nữ ở nước ngoài. Hơn nữa, bài thơ còn là một lời dự cảm, một lời lo lắng về một tương lai bất định. Hình ảnh “bông hoa” là biểu tượng của người con gái đẹp, đây không ai khác chính là Hoa hậu hải ngoại, nhưng những bông hoa ấy cứ trôi nổi làng nhàng, thất thường, không biết cuộc đời sẽ ra sao và sẽ đi về đâu. Nỗi đau dâng lên trong tim, và những cảm xúc bị kìm nén trào dâng trong lòng. Bài thơ tràn đầy cảm xúc, tiếc thương cho một số phận nghiệt ngã, cay đắng – lời thơ như oán trách, như trách móc, như trách nhiệm.

” Bạc mệnh” ở đây được dùng như một lời lên án toàn bộ xã hội phong kiến. Nhưng dù vậy, cô vẫn không khỏi than thở ” đành vậy ” và cam chịu số phận. Số phận của cô cũng được bắt gặp trong nhiều tác phẩm, như cô vũ nữ bất hạnh bị chồng bỏ rồi tự sát, hay những người con gái được phản ánh trong ca dao:

“Thân em như lụa đào tung bay giữa phố, chẳng biết vào tay ai”

nguyễn du tự khóc:

“Đàn bà nói xui xẻo là chuyện thường mà khổ”

Không ai trả lời được tiếng than thở của Hoa kiều, tiếng kêu đau khổ và tuyệt vọng, kêu trời! Khi đó, số phận kiều bào sẽ “lênh đênh” như bông hoa đẹp trên dòng nước xiết, bẩn thỉu, nhớ làng, không thể cứu vãn. “Huashui” có nghĩa là mùa xuân đã tàn, hoa đã rụng và tuyết đã tan, ngụ ý rằng tuổi trẻ xinh đẹp và trinh nguyên của Qiaocheng đã kết thúc. Để rồi, trong những giây phút cuối cùng của cuộc tình, Jo đã gọi người yêu:

“Ôi Kim Lãng! Ôi Kim Lãng! Đừng làm loạn, về sau ta sẽ luôn giúp đỡ ngươi!”

Mọi tiếng khóc của người yêu hẳn đã lặp đi lặp lại nhiều lần khi Jo đau lòng. Những từ thể hiện nỗi buồn và nỗi buồn cứ xuất hiện và xâu chuỗi lại với nhau: “ngắn”, “xiangcun”, “dừng lại”, “jinlang”, “số phận và số phận” tạo thành một làn sóng đau buồn ập đến với cô gái tội nghiệp đã từng cố gắng không để cô ấy xuống. Có lẽ đây là lần cuối cùng cô ấy coi trọng Kim Jong “Kim Rang” như vậy. Thúy Kiều đã gọi điện cho Kim Trọng hai lần và dường như tất cả cảm xúc được bộc lộ qua cuộc điện thoại của người tình nghiêm túc. Kiều vẫn coi mình như một người thiếp, điều này khiến trái tim cô dường như không ngừng đau đớn. Sau khi nói chuyện với Kim Trọng, nỗi đau mất tình lại dâng lên trong lòng.

“Dừng lại” là một lời than thở đầy tiếc nuối, day dứt. “Dừng lại” cũng là lời xác nhận sự phản bội của anh ta. Tiếng gọi của cô như một tiếng kêu tuyệt vọng và tuyệt vọng vì không có câu trả lời. Người Nguyệt Kiều đã chiến đấu đến giây phút cuối cùng, dốc hết sức lực để nói ra tiếng kêu cuối cùng – tiếng than thở, tiếng kêu cứu của những “tài nữ bất hạnh” trong xã hội phong kiến. Sau tiếng kêu đau lòng ấy, Jo ngất đi, kết thúc cuộc trao duyên trữ tình: “Không nói nên lời, hồn tôi ngất máu – một thoáng ngừng tay đồng”. “Hoán đổi số phận” đã hoàn thành, và sự phản bội bản thân cũng đã hoàn thành, vì vậy bi kịch của Cuiqiao sẽ ập đến. “Ôi”, “Ôi” Kim Lang, Thôi Kiều nước mắt lưng tròng gọi tên người yêu lần cuối, khi biết chắc sẽ mất anh mãi mãi, cô lại chịu đựng nỗi đau thấu tim.

Sự thật này khiến cho thuý kiều “đứt khúc ruột” vùng vẫy, đau đớn kêu lên “thôi đi”. Có thể thấy tình cảm của Cuiqiao dành cho Jin Zhong rất sâu sắc và trung thành với màu sắc. Cuối bài “quà phận”, duyên trao mà tình không trao. Vì vậy, mâu thuẫn giữa lý và tình trong lòng hải ngoại vẫn chưa được giải quyết triệt để. Tội lỗi vì là người yêu, mười lăm năm lưu lạc, nỗi đau ấy sẽ còn hành hạ nàng.

Khi cảm nhận 8 câu cuối của truyện ngôn tình, người đọc còn nhận thấy tiếng cảm thán xen lẫn với tiếng nức nở thể hiện tình yêu nhưng nhiều hơn là sự xót xa cho Kim. Trong cuộc tình tan vỡ, Hải Hải nhận hết trách nhiệm và lỗi lầm về mình, tự cho mình là kẻ dối trá. Lời yêu như nói lời cuối, tạm biệt. Trước chữ tình thì tình nồng thắm, ấm áp, hạnh phúc, Sau chữ tình thì tay trắng, vợ chồng ly tán, tình tan nát.

Sư phụ của Meng Lianyang (1820) dựa trên bản dịch của Pei Qi và Chen Zhongjin đã nhận xét: “…chữ viết như máu chảy ra từ đầu bút, và nước mắt chảy ra từ trang giấy, khiến người ta phải thở dài. ” thắc mắc. Đọc xong chắc bạn cũng thấy ngậm ngùi, đau thắt ruột gan… Các yếu tố như tử tâm bị ảnh hưởng, kỹ năng kể chuyện điêu luyện, tả cảnh giống hệt nhau, đối thoại được thiết lập, Nếu con mắt có thể nhìn thấu lục giới, Lòng muốn sống ngàn đời cũng không thể có cây bút ấy. “

Trong đoạn trích thiên tình sử, nhà thơ khóc thương cho mối tình chân thành, trong sáng giữa Thôi Kiều và Kim Chung. Tình yêu giữa Kiều và Kim Jong là một tình yêu trong sáng và đẹp đẽ nhưng do gia đình xáo trộn, Việt Kiều đã phải bán mình chuộc cha khiến mối tình tan vỡ. Cô phải trả lại vận mệnh của mình cho Cuiyun. Sự “hy sinh” của Cuiqiao thật đáng ngưỡng mộ, và tình cảm của Cuiqiao là điều chúng tôi trân trọng và yêu quý. Đó chính là điểm sáng trong bản chất con người duyên dáng, cao quý khiến nàng sống mãi trong lòng người đọc.

Ngoài những điều trên, thông điệp của tác giả có được chuyển tải thành công hay không còn phụ thuộc vào nghệ thuật của đoạn trích. Trong đoạn trích này, Nguyễn Du đã sử dụng hiệu quả nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật để làm nổi bật những phẩm chất quan trọng của nhân vật. Ngoài ra, khi cảm nhận 8 câu cuối của bài tự tình ta còn thấy được tài năng của nhà thơ lớn Nguyễn Du trong việc lựa chọn hình thức độc thoại nội tâm để bộc lộ tâm tư, tình cảm của mình. kiều nữ. Nét bút khéo léo của Nguyên Du đã thể hiện rất tốt sự phát triển phức tạp của các nhân vật. Nguyễn Du có một hệ thống ngôn ngữ uyên thâm, độc đáo và là một bậc thầy về ngôn ngữ.

Trong lời tựa Từ điển Hán văn hải ngoại (1974), Giáo sư Đào Duy Anh viết: “Trong lịch sử ngôn ngữ và văn học Việt Nam, nếu như Nguyễn Trãi và Quốc âm thi tập được xác lập trong Quốc ngữ thì Nguyễn Duy Anh Truyện Kiều đã đặt nền móng cho ngôn ngữ văn học hiện đại nước ta Với Truyện Kiều của Nguyễn Du, có thể nói tiếng Việt đã có sự chuyển biến về chất, thể hiện đầy đủ và sâu sắc khả năng diễn đạt… Người mẹ Bắc Ninh trầm mặc -ở rể, nhờ những điều kiện này, đã thiết lập một ngôn ngữ, có thể nói, bao gồm các đặc điểm của cả ba lĩnh vực quan trọng nhất trong nền văn hóa trước đây của chúng ta.”

Tác phẩm của Nguyễn Du chứa đựng tư tưởng nhân đạo, bắt đầu từ sự quan tâm sâu sắc đến thân phận con người. Câu chuyện của Kiều không chỉ là một lời phàn nàn, mà còn là một bài ca về tình yêu trong sáng và tự do, về ước mơ tự do và công lý. Nhưng toàn bộ câu chuyện chủ yếu là tiếng kêu cho thân phận và nhân phẩm của những người bị áp bức, đặc biệt là người phụ nữ. Không chỉ ngậm ngùi, Nguyễn Du còn trân trọng, ngợi ca cái đẹp, với niềm khát khao sống, yêu và hạnh phúc. Tư tưởng nhân đạo của Nguyễn Du đã vượt qua một số ràng buộc của hệ tư tưởng, tôn giáo phong kiến, đạt đến sự khẳng định giá trị của con người. Đó là tư tưởng sâu sắc nhất mà ông mang đến cho nền văn học Việt Nam thời bấy giờ, đúng như người bạn tri kỷ của tôi đã từng ca ngợi:

“Tiếng người chấn thiên hạ, tiếng như nước, vang tiếng thu ngàn năm, nhớ Nguyễn Du, tiếng yêu như năm tháng mẹ ru.”

Phân tích 8 câu cuối của đoạn tình tứ trong truyện kiều – Văn mẫu 3

Trích dẫn từ câu chuyện của Joe, nó cho thấy tài năng tuyệt vời của Ruan Du trong việc khắc họa sâu sắc nội tâm của các nhân vật. Qua đoạn trích này, chúng ta càng hiểu và cảm thông cho số phận của Thôi Kiều. Tám dòng cuối bài thơ là một đoạn thơ ấn tượng, tái hiện tâm trạng đau đớn, tuyệt vọng của Thôi Kiều.

Sau khi dựa dẫm vào em gái để nối lại mối quan hệ với Jin Zhong, Cui Qiao đau đớn tiết lộ trái tim mình. Đó là sự tuyệt vọng, là sự đau đớn tột cùng khi phải buông bỏ mối tình đẹp với một chàng trai xứ kim chi.

“Gương vỡ lại lành, bảo sao nên duyên”

Trạng từ chỉ thời gian “bây giờ” chỉ hiện thực đau đớn mà Kiều phải đối mặt và chịu đựng, đó là nỗi đau khắc sâu vào lòng nàng khi chứng kiến ​​cảnh mất đi tình yêu, chữ tình không bao giờ phai. Nhưng vì cú ngã đã trở thành chia tay, “gương vỡ lại lành” thì không có thuốc nào hàn gắn được. Tác giả đã khéo léo sử dụng “tram vỡ gương tan” như một ẩn dụ cho mối tình đẹp đẽ mà mong manh của Kim-kiều.

Xem Thêm: Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ là gì?

Tình yêu dành cho Kim càng chân thật, bền chặt bao nhiêu thì nỗi đau mà cô phải gánh chịu lại càng nhiều bấy nhiêu. Trâm cài áo gãy, lọ hoa tan chảy, tình yêu không bao giờ có thể hàn gắn và hy vọng hồi sinh không còn nữa. Joe đau lòng nghĩ lại khoảnh khắc hạnh phúc khi cả hai “yêu lắm” trước đây. Đó là những kỷ niệm đẹp, những kỷ niệm ấm áp mà cả kim và kiều đều có. Vào đêm rằm, cùng nhau thề nguyền, uống ly rượu hồng hẹn trăm năm, thưởng ngoạn ánh trăng vàng, ngâm thơ, soạn nhạc, tấu nhạc, v.v. quá khứ đã trở thành những điều tốt đẹp trong cuộc sống này. Quá khứ, tan biến vào hư vô, buộc phải chia xa khi tình yêu chưa cạn.

Đau lòng cho tình yêu không trọn vẹn, nghĩ đến sự quý giá, Joe tự trách mình đã phản bội, đau lòng nói:

“Trăm vạn bái phục đoản mệnh binh”

Suốt cuộc đời đọc từng trang thơ của Ruan Dushi, chúng ta đều biết Kiều là người biết ơn, chưa từng phản bội ai. Kiều cũng luôn dành mọi điều tốt đẹp cho những người nàng yêu thương, tin tưởng. Cô đã đánh đổi hạnh phúc cả đời mình để lấy chữ “hiếu”, “làm con trước tiên, đền ơn sinh thành”, cô không còn cách nào khác là phải ủng hộ mối quan hệ chân thành và tốt đẹp của mình với Jin Zhong. Cô luôn dằn vặt và tự trách mình trong lòng, cho rằng mình đã thất hứa với Cẩm Tử. Đó là lời xin lỗi đau đớn và đáng thương dành cho Kim Jong-un khi thể hiện sự tha thiết và câu cảm thán “số phận ngắn ngủi, có bấy nhiêu thôi”. Một người luôn yêu và trân trọng tình yêu thiêng liêng, kim quý có bao nhiêu tự trách và dằn vặt bản thân?

Sau khi gửi bức thư cho chàng Kim, kiều đã than thở về thân phận nghèo khổ của mình, sự tự nhận thức về thân phận của mình cho thấy kiều là người hiểu lẽ ​​đời, đây cũng là linh cảm của nàng rằng tương lai sẽ không như thế này. cuộc đời thuận buồm xuôi gió:

“Phận bạc như vôi Thôi đành gửi hoa nhớ làng”

Lời than thở chứa đầy sự phẫn uất cho nỗi đau thân phận, một biểu hiện tự nhiên của nỗi đau gia đình lên đến đỉnh điểm. Những thành ngữ “bạc như vôi” và “nước chảy hoa bay” như khúc tráng ca, quở trách nỗi uất hận và niềm hi vọng của người Việt xa xứ trước cuộc sống bất công và xã hội tàn ác đã đẩy chị em đến bế tắc, đau đớn và tuyệt vọng. Chấp nhận “không sao” cho “dòng nước” cũng là một kiểu cam chịu, là biểu hiện sự hi sinh của người con gái trước sóng gió cuộc đời. Có lẽ, nó như báo trước một tương lai ảm đạm, một định mệnh nghiệt ngã.

Từ “kim lang” là tình yêu chân thành, đầy trân trọng của Kiều dành cho chàng Kim. Điệp ngữ “kim lang” kết hợp với thán từ “ơi”, “ơi” như tiếng kêu nội tâm của Kiều ở nhịp 3/3. Mỗi âm tiết đều nghẹt thở, đau đớn, ứa nước mắt, hơi đau. Lời chia tay cuối cùng của người con gái thủy chung, đoan trang, yêu thương mang đến nỗi nhớ da diết, đau đớn khôn nguôi:

“Đừng làm phiền, tôi đã giúp bạn từ đây”

Tám dòng cuối của đoạn trích tuy không dài nhưng ta vẫn cảm nhận được nhiều phẩm chất cao đẹp ở Kiều. Đó là lòng trung thành, lòng nhân hậu, ý thức về bản sắc và trái tim khao khát hạnh phúc ẩn sâu trong thế giới. Qua tám câu thơ còn thể hiện rõ giá trị nhân đạo mà Nguyễn Du gửi gắm. Đó là lời lên án sự bất công của xã hội phong kiến ​​đã đẩy con người vào bi kịch đau đớn. Đó là tiếng nói thể hiện sự thương cảm cho số phận bất hạnh của kiều và trân trọng những phẩm chất, tình cảm tốt đẹp của con người trong xã hội. Mặt khác, thành công về nghệ thuật cũng là một điểm nhấn ấn tượng của bài thơ này. Đó là phong cách miêu tả nội tâm tinh tế, nghệ thuật độc thoại nội tâm, nghệ thuật ẩn dụ, hoán dụ, sự kết hợp các thành ngữ dân gian và sáu tám câu quen thuộc, tất cả làm nên một bài thơ trọn vẹn và ý nghĩa.

Số phận chung, đặc biệt là 8 câu cuối của đoạn trích đã góp phần tạo nên thành công cho kiệt tác Hoa kiều. Tôi tin rằng trong tương lai, mối liên hệ với truyện Hoa kiều sẽ giữ được giá trị trường tồn và được các thế hệ độc giả nâng niu, gìn giữ.

Phân tích 8 câu cuối của đoạn tình tứ trong truyện kiều – văn mẫu 4

Đại thi hào Nguyễn Du đã để lại một di sản văn hóa đồ sộ, kiệt tác của nền văn học trung đại Việt Nam – Truyện Kiều. Trong mỗi đoạn trích của tác phẩm, tác giả thông qua nhân vật Thôi Kiều đã truyền bá những giá trị chân lí, nhân đạo trong từng câu thơ. Đặc biệt ở đoạn trích Hoán đổi thân phận – đây là trích đoạn cao trào tiêu biểu cho bi kịch cuộc đời Duệ Kiều, tám đoạn cuối được ví như tiếng than thở, tiếng khóc thầm của một kiếp người nhỏ bé. Do số phận sắp đặt.

Sau khi thuyết phục em gái Cuiyun chấp nhận số phận của mình với Jinzhong, Cuiqiao đã trao tất cả những kỷ vật giữa cô và Jinzhong cho Cuiyun, và khuyên cô ấy từ tận đáy lòng. Thúy Kiều vô thức quên nói với bạn trong nỗi đau xót xa mà quay sang độc thoại nội tâm khi nhớ đến kim trong. Tám câu thơ sau là lời than thở đau lòng của Jiaoer và lời chia tay đau đớn với Aijun.

“Trâm gãy gương vỡ, nói sao nên duyên! Đời người ngắn ngủi, trăm kiếp muôn người cúi đầu. Sao bạc như vôi? Ta đành để nước hoa trôi xa làng Ôi kim lang Ôi kim lang” Đứng yên, ta giúp ngươi! “

Có thể thấy trong 8 câu trên có đến 5 câu cảm thán, hiện ra trước mắt người đọc là hình ảnh một cô gái vừa có tài vừa có nhan sắc nhưng số phận lại đẩy cô đến “sân khấu dài” để ngồi xuống và từ bỏ mọi thứ. Những bài thơ của Cuiqiao đầy đau đớn và chạm đến cảm xúc của người đọc. “Gương vỡ lại lành” là nói đến một tình yêu đã đổ vỡ, không thể hàn gắn và không thể hàn gắn lại. Đây sẽ là một cuộc chia ly vĩnh viễn, không thể đảo ngược. Tuy nhiên, trước đó, cô và Kim đã có một mối tình “yêu đương” tuyệt vời, trao nhau nhiều kỷ niệm và vật kỷ niệm. Bây giờ mọi thứ đều vô nghĩa, cô phải gạt bỏ tất cả, chối bỏ tình cảm của mình, để tròn đạo hiếu với cha mẹ.

Đối với Kim Trọng, người “tình nhân” luôn tin tưởng và yêu thương hết lòng nhưng lại không thể ở bên nàng trọn nghĩa vợ chồng, đây cũng là phần dằn vặt, đau đớn nhất của Thôi Kiều. Nàng không biết xin lỗi kim trong như thế nào, chỉ biết “trăm nghìn lạy”, xin lỗi kim trong bằng cả tấm lòng chân thành, đó là cái cúi chào vĩnh biệt thiêng liêng, chứng tỏ thuý kiều rất coi trọng và chân thành với mối lương duyên. Chỉ mong Kim Trọng hiểu lòng mình, hiểu phận mình, tình mình, phận mình với em gái. Cuiqiao đã phải sử dụng một loạt thành ngữ như “đời người ngắn ngủi”, “đời bạc như vôi”, “làng Huapiaoli” và các thành ngữ khác để phàn nàn về số phận của chính mình, ám chỉ số phận nghèo khổ, bạc bẽo của Cuiqiao. Người phụ nữ biết thân phận mình đầy éo le, dở dang lênh đênh, và nếu quá khứ đầy ắp yêu thương, hiện tại là thực tại đầy đau thương tủi nhục, thì phận mình đã đành. Đó là nó.

Không còn là một người âm thầm chấp nhận số phận và âm thầm chịu đựng số phận, nhân vật Thôi Kiều do Nguyễn Du thủ vai đã bứt phá khỏi những định kiến ​​của xã hội đương thời, dám kêu than và không sợ hãi trước những bất bình của cuộc đời. số phận. Dù không thể thay đổi nhưng ít nhất nó cũng cho thấy Cuiqiao là một người nhạy cảm và chu đáo. Đặt mình vào hoàn cảnh buộc phải lựa chọn giữa tình cảm gia đình và tình yêu, cô đã chọn hi sinh tình yêu, bán thân cứu cha mẹ. Giọng Kim kêu lên: “Ôi kim lang! “Kim lang” là tiếng gọi đau đớn, nghẹn ngào, có phần đau đớn tuyệt vọng. Có thể hình dung Thôi Kiều đã trở thành người không hồn, đau khổ đến cùng. “Dừng” là kết thúc, không hy vọng, không còn gì để chờ đợi, phải chấp nhận sự thật phũ phàng này. Tình yêu này đã kết thúc và Cuijiao đã thừa nhận rằng cô là kẻ phản bội. Không thể phủ nhận rằng tình yêu của cô dành cho Kim Jong là chân thành, nhưng lòng hiếu thảo buộc cô phải lựa chọn hy sinh yêu, và cô không còn lựa chọn nào khác. Mặc dù để Cuiyun gánh vác số phận này, nhưng trái tim của Cuiqiao không hề bình yên. Cô đau đớn, than thở trước sự bất công của số phận và cuộc đời. Cuộc sống thật khốn khổ. Tuy nhiên, ở cô toát lên một cá tính khác biệt và luôn khắc nghiệt về thân phận, tình nghĩa vợ chồng nhưng không quên đạo lý thuở còn thơ.

Xem Thêm : Hàm ý là gì?

Qua đoạn trích “Số phận” ta cảm nhận được Thúy Kiều không chỉ là một hình tượng nghệ thuật, một số phận từ bàn tay tài hoa của một nhà thơ lớn mà nàng còn rất gần gũi với một con người thực, đa chiều. nhân cách tự nhiên.Tình yêu, nỗi đau và sự hy sinh của Thúy Kiều khiến chúng ta từng lúc trong đời phải tự soi lại mình, đồng cảm với nỗi đắng cay, tủi nhục của thân phận kiều nữ.

Phân tích 8 câu cuối của đoạn tình tứ trong truyện kiều – Văn mẫu 5

Nhận thức về thân phận con người, sự cảm thông và thương xót đối với những sinh linh bất hạnh dường như còn hạn chế trong văn học trung đại và không phải là một trong những chủ đề nóng bỏng nhất được các nhà văn, nhà thơ lựa chọn. Dù nằm ngoài khuôn khổ ấy, ta vẫn thấy Nguyễn Đức Đại, nhà thơ lớn của dân tộc này, dù sống trong một chế độ phong kiến ​​hà khắc, với sự phân hóa giàu nghèo rõ rệt, tư tưởng trọng nam khinh nữ. Tuy nhiên, với tư duy đi trước thời đại hàng trăm năm, ông không chỉ đồng cảm, cảm thông với số phận con người, đặc biệt là những người tóc đỏ, mà còn khẳng định, đề cao giá trị của người phụ nữ, trong đó có sắc đẹp và trí tuệ. Đồng thời, nó cũng thầm lên án sự bất công, thối nát của chế độ phong kiến ​​đã chèn ép những kiếp người bé nhỏ, dù có nhiều phẩm chất tốt đẹp nhưng cuối cùng vẫn phải chịu những trận đòn đau. . Truyện Kiều được đánh giá là kiệt tác của văn học trung đại và của cả nền văn học Việt Nam nói chung, có sức ảnh hưởng sâu rộng, thể hiện hai lĩnh vực giá trị hiện thực và nhân đạo qua câu văn. Những vần thơ kể bằng giọng điệu nhịp nhàng, uyển chuyển về cuộc đời của người con gái tài sắc vẹn toàn. Trong trích đoạn ngôn tình, sau khi bi kịch ập đến, Thúy Kiều buộc phải trưởng thành và gánh vác gánh nặng gia đình, không chỉ bán mình chuộc cha và anh, Thúy Kiều còn phải chấm dứt tình yêu của mình. cho Tấn Tử. Sự trao đổi tình yêu, vì em gái, để lại cho cô những tổn thương và nỗi đau lâu dài. Điều này được bộc lộ rất rõ trong 8 câu thơ cuối của Phần mở đầu, được ví như một tiếng kêu thầm, một lời than khóc kéo dài.

Tình yêu giữa thuý kiều và kim trong là một tình yêu đẹp, bởi vì họ yêu nhau, và thuý kiều tài sắc vẹn toàn “phải một tài vẽ hai”, kim trong cũng là một con người. Học vấn sâu rộng, khá giả, homeschooled, ngoại hình ưa nhìn. Chính vì vậy, họ dường như hiểu nhau ngay từ lần gặp đầu tiên, không chỉ là tình yêu mà còn là tri kỷ. Đặc biệt trong truyện Kiều, Nguyễn Du còn có cái nhìn khá tự do, táo bạo khi viết Kim trong và Thuý kiều chuyện tình. Anh đề cao sự tự do trong tình yêu của đôi trai gái thề non hẹn biển khi để họ cùng nhau quyết định cuộc đời, rồi những Việt kiều khi cha mẹ về nước đều đến nhà long trọng để thề thốt với người yêu. Những chi tiết này có thể trở nên phản cảm và thiếu phép tắc trong xã hội cũ, nhưng trong mắt Nguyễn Du, nhân vật Thôi Kiều và tình yêu của cô phải có gì đó khác biệt và ấn tượng. Quan trọng nhất, ông muốn tạo cho nhân vật của mình sự tự do không chỉ về thể xác mà cả tâm hồn, đó là sự tiến bộ của Nguyễn Du trong tư tưởng nhân đạo, yêu thương con người. Quay lại đoạn clip Định mệnh, có thể thấy Cuiqiao từng bước thuyết phục Cuiyun giúp cô tiếp xúc với Kim Jong-shi thông minh, sắc sảo và quyết đoán. Sau khi mọi chuyện lắng xuống, Joe lúc này đã không còn giữ được sự kiên cường, điềm tĩnh và sự thông minh ổn định của mình nữa, cô trở lại với vẻ ngoài yếu ớt, bộc lộ sự yếu đuối, đau lòng trước người thất tình, thân phận của mình. Nhưng đọc đến câu thơ cuối, người ta lại hình dung ra hình ảnh một cô gái suy sụp, nước mắt giàn giụa trên khuôn mặt, đôi mắt đờ đẫn và tuyệt vọng.

“Trâm gãy mà bình vỡ, bảo sao xiết bao ân tình! Phận binh đoản mệnh, triệu cung. Sao phận bạc như vôi, đành để nước chảy và những bông hoa bay xa khỏi làng. Oh, Jinlang! Oh, Jin Lang! Dừng lại, tôi đã giúp bạn!”

thuy kiều kể lại chuyện tình của mình với câu thơ đau đớn “trâm đã gãy nay”, câu “trâm đã gãy” báo trước một cuộc chia tay không thể cứu vãn, một cuộc chia ly không lối thoát, nàng và kim trong, chàng hiểu không, Lần này ly biệt, biết đâu tình yêu sau này sẽ khác, bởi vì trâm gãy, keo không dính, bình hoa sao có thể tan? Chắp vá có thể. Dù có cố gắng thế nào cũng chỉ thấy những vết sẹo dày đặc. Có thể nói, câu thơ này không chỉ bộc lộ nỗi tuyệt vọng của Thôi Kiều trước thất tình mà còn báo trước nỗi nhớ mong, mong mỏi ngày tái ngộ 15 năm sau, có lẽ “nhân duyên vợ chồng cũng là nhân duyên tình bạn”.

Sang đến phần tiếp theo “Nói sao mà yêu nhiều thế!”, là lúc Thôi Kiều nhớ lại những kỷ niệm ngọt ngào với Tấn Trọng, đêm “quạt ước thề”, ngắm trăng, ngâm thơ làm thơ, chơi nhạc, tôi cứ nghĩ cuộc sống tươi đẹp này sẽ kéo dài mãi mãi, nhưng không ngờ một chuyện đã xảy ra, và tất cả những giấc mơ của tôi đều trở nên vô nghĩa. Những tổn thương và thất vọng trong tình yêu, nhất là với những cô gái trong mối tình đầu thường rất sâu đậm và đau đớn. Nỗi đau nhân lên gấp bội khi Kiều buộc phải giữ lấy sự tỉnh táo, từ bỏ hạnh phúc riêng để cứu gia đình. Vì vậy, những ký ức trong quá khứ càng đẹp đẽ, hạnh phúc và hiện tại càng hạnh phúc, trái tim cô càng tan nát. Không chỉ dừng lại ở nỗi đau tan vỡ tình yêu, cò trắng còn phải chịu đựng sự phản bội, bỏ người yêu để đi lấy chồng dù bản thân không hề mong muốn. Thúy Kiều thể hiện sự day dứt, hối hận của mình bằng hai câu “Trăm vạn lời nguyện/Đoản mệnh”, biết cuộc sống của cô ở nước ngoài, chúng ta chưa bao giờ thấy cô có lỗi hay sống sai lầm. Đối với một người, Cuiqiao luôn cố gắng trở nên hoàn hảo với tất cả những người cô yêu thương và tôn trọng. Tuy nhiên, với kim trong, nàng luôn mặc cảm về sự phản bội của mình, mặc dù kiều cũng cố gắng trả ơn kim bằng cách gửi ân huệ cho Vân. Nỗi tự trách của Kiều trước hết là quyết định từ bỏ tình yêu với minh quân, thứ hai là tình cảm sâu sắc và sự kính trọng của nàng dành cho chàng Kim. Bất cứ ai đối mặt với người mình yêu sâu sắc, dù chỉ một chút tổn hại đối với đối phương cũng sẽ khiến họ bồn chồn, bất an. Trong câu thơ “Đoạn binh mã”, từ “vâng” của Kiều là lời tiếc thương sâu sắc, là lời chia tay thiêng liêng của tình yêu, là lời chia tay người yêu đi xa. Bởi vì ngày mai cũng vậy, khi thời hoàng kim tái hiện, điều chờ đợi anh là hình ảnh không bao giờ rời mắt của Thôi Kiều, cô hiểu nỗi đau và sự bàng hoàng, nhưng cô không thể làm gì khác. Đồng thời, hai câu thơ này cũng thể hiện sự kính trọng và chân thành của Thúy Kiều đối với Kim Trọng, nàng cảm thấy mình đã bội bạc nên đành cúi đầu hạ mình, một câu cũng là lời xin lỗi lớn nhất, mong Kim Trọng có thể hiểu cho sự khác biệt giữa tình yêu và lòng hiếu thảo.Nỗi đau của sự lựa chọn.

“Số phận ngắn ngủi”

Bài thơ chính là sự bất lực trong tuyệt vọng của Thúy Kiều khi phải chấp nhận và quên đi tình yêu sâu nặng với Tấn, một mối tình tuy ngắn ngủi nhưng đẹp như trăng rằm, nhưng có lẽ là cả đời. Hải ngoại không thể quên. Sau khi nói xong những lời yêu thương đau lòng, Kiều trở về với thân phận bâng khuâng: “Sao mệnh bạc như đá, đành để nước trôi hoa trôi làng ơi”. Nhục nhã, Jiaoer không thể chịu đựng được nữa, Thở dài, than thở cho số phận bất hạnh của chính mình. Thử nghĩ về một cô bé chừng 15, 16 tuổi, trong tiếng thở dài, trong ý thức chất chứa biết bao cay đắng, đủ hiểu cô đã phải chịu đựng bao nhiêu áp lực tâm lý.

Hơn thế, sự tự nhận thức về nỗi đau thân phận còn là biểu hiện của trí tuệ và sự thấu hiểu lý lẽ của Thôi Kiều. Nếu bà lão âm thầm đau khổ thì trong thơ Nguyễn Du, bà lão biết than thở, khóc lóc thảm thiết, phản ánh hiện thực xã hội, hiện thực họ cần một lối thoát dù không thể nào thoát ra được. Câu nói “nước chảy hoa trôi” là điềm báo đời người trôi nổi, không biết trôi về phương nào, chìm đắm trong vô biên hoang mang. Cô gái không may mắn.

“Ôi Kim Lãng! Ôi Kim Lãng! Đừng nói nữa, ta giúp ngươi rồi”

Hai câu cuối là lời chia tay đau buồn của Thúy Kiều trước sự phản bội của Kim Jong, đồng thời cũng thể hiện tình yêu sâu sắc, tấm lòng trung thành và sự hối hận không khuất phục của cô. bình phục. Trong tiếng khóc, đau đớn cùng tuyệt vọng, dường như từng chữ từng câu đều nhuốm đỏ nước mắt, nỗi đau kéo dài tràn ngập trong lòng. Người đọc không khỏi băn khoăn về số phận của Thúy Kiều, bởi một cô gái đang nắm giữ mọi thứ trong tay bỗng chốc gục ngã, gập ghềnh biết bao, để rồi cuối cùng con đường này lại phải gánh chịu nỗi đau chia ly, tủi nhục, tủi nhục và hụt hẫng. .

Xem Thêm: Nam châm vĩnh cửu là gì? Tìm hiểu lý thuyết, cấu tạo, ứng dụng đầy đủ nhất tại đây

Có thể thấy, Thôi Kiều là cô gái tưởng chừng như có tất cả nhưng lại phải gánh chịu mọi nỗi đau của cuộc đời, tương ứng với chương mở đầu truyện của Thôi Kiều “Trăm năm trên đời/Tài và phận hai chữ ghét nhau”. Ở những dòng cuối của câu chuyện tình yêu, có thể bắt gặp hình ảnh một cô gái đối diện với số phận, buộc phải từ bỏ những gì mình yêu thích, buộc phải phá vỡ lời thề vì hai người yêu nhau. từ. Ngoài ra, còn có sự tuyệt vọng và bất lực của Thúy Kiều trước những biến cố lớn của cuộc đời, bản thân cô không đủ nghị lực để đương đầu, cuối cùng phải chấp nhận cuộc sống dài lê thê. Bất cứ nơi nào bạn đi, bạn là vô tận.

Phân tích 8 câu cuối của đoạn tình tứ trong Truyện Kiều – Văn mẫu 6

Kiệt tác “Tiêu Kiều truyện” của đại thi hào Nguyễn Du đã tái hiện thành công Thúy Kiều, một người phụ nữ tài sắc vẹn toàn nhưng cuộc đời đầy mâu thuẫn và sóng gió. Đoạn trích “trao duyên” là một trong những ví dụ tiêu biểu thể hiện bi kịch tình yêu tan vỡ, số phận bất hạnh của thuý kiều và tài năng tạo hình, khắc họa tâm lí nhân vật của Nguyễn Du. Sau Định Mệnh, Nhạc Kiều chìm sâu vào thế giới đau khổ của chính mình, nghĩ đến kim quý và tình yêu dang dở. Qua tám câu cuối, chúng ta có thể thấy được sự hiểu biết của Thúy Kiều về thực tại, cũng như sự xót xa, xót xa của cô dành cho Tấn Chung:

“Trâm đã gãy, gương vỡ, bảo sao nên duyên! Tình trăm ngàn, nhưng trong chảo chớp nhoáng! Một vì sao bạc như vôi! Ta đành để cho nước và hoa trôi dạt khỏi làng. Ôi, Jinlang! Ôi, Jinlang! Dừng lại, tôi đã giúp bạn rồi!”

Sau khi tặng quà lưu niệm tình yêu, đưa ra lời khuyên cho Cuiyun và rơi vào cuộc độc thoại nội tâm, Joe nhận ra bi kịch tàn khốc của thực tại và trút bỏ nỗi tuyệt vọng của cô. Cô ấy biết rất rõ về quá khứ, hiện tại và tương lai. Các thành ngữ “Trâm gãy thì gương vỡ”, “phận bạc như vôi”, “nước chảy hoa trôi” diễn tả tình yêu tan vỡ, dang dở, bạc trắng, lênh đênh và số phận của con người:

“Bây giờ trâm gãy gương soi, bảo sao nên duyên”

“Trâm gãy gương vỡ” – hai ẩn dụ về số phận của kiều nữ, một ẩn dụ về một mối tình không thành, và một ẩn dụ về một số phận bất hạnh, éo le. “số phận bạc như vôi” chỉ một số phận mong manh, bạc bẽo. Ngoài ra, “Thủy Lưu Hoa Phiêu” nhấn mạnh sự trôi nổi, lênh đênh trong gió mưa của cuộc đời. Đoạn thơ gợi lên số phận chung của người phụ nữ trong xã hội phong kiến ​​là “hồng nhan bạc mệnh”. Danh từ “bây giờ” của thời gian vang lên đượm buồn, nhấn mạnh sự tương phản của quá khứ – sự chia lìa, đổ vỡ của những năm tháng “cơm áo mềm” và mối tình đầu đẹp như hoa mộng, và hiện tại. . Nỗi nhớ khôn nguôi về “bao nhiêu yêu thương” đã lùi vào tiềm thức, chỉ còn lại nỗi đau và nỗi niềm. Tác giả sử dụng biện pháp đối lập, nhấn mạnh sự tương phản giữa quá khứ ngọt ngào, tình yêu say đắm và hiện tại dang dở, tương lai vô cùng bất định, đẩy cô vào bi kịch không nơi nương tựa. Thế là cô nghẹn ngào khóc nức nở:

“Trăm vạn bái phục đoản mệnh binh”

Tác giả dùng con số từ “trăm nghìn” để đo sự lớn lao, vô cùng so với “không hơn không kém” thể hiện sự nhỏ bé, hèn mọn, bất lực. Tác giả thể hiện tình cảm của Cuiqiao dành cho Jin Zhong bằng cách so sánh “rất nhiều” có hạn với “một trăm nghìn” vô hạn. Đó là nỗi day dứt, trăn trở và đau đớn của kiều nữ. Đặc biệt, hành động “cúi đầu” tái hiện trong đoạn trích “Bùa ngải” vốn đã thể hiện được nhiều ý nghĩa sâu xa. Nếu như trong lần đầu thờ phượng với Cuiyun, Cuiqiao xuất hiện như ân nhân với ân nhân, thì trong lần thờ phượng đầu tiên với Jin, chúng ta thấy nỗi đau của cô ấy. “100.000 Worshipers” là lời xin lỗi, bày tỏ sự dằn vặt tội lỗi, mong nhận được sự cảm thông của Kim Jong; cũng là lời chia tay đầy tức giận với các kiều nữ.

“Ôi, Kim Lãng! Ôi, Kim Lãng! Dừng lại, ta đã giúp ngươi rồi!”

Đoạn độc thoại nội tâm, cô thu mình vào thế giới đau khổ của mình, thốt lên những lời xót xa, giận hờn, oán hận trước một thực tại bất công, phi lý, nhưng cũng có những tiếng khóc rưng rức. 3/3 câu thơ như bị đứt đôi bởi tiếng nấc nghẹn, thổn thức. Tiếng thốt lên “Ôi”, “Ôi” và hai lần lặp lại tên Kim Jong cho thấy sự khẩn thiết và đau đớn trong lòng. Từ “zhi” nhấn mạnh nỗi đau tuyệt vọng, kết hợp với từ “zi” như một lời thú nhận đau đớn, nó cho thấy nhân cách cao quý của Cuiqiao. Trong một khoảnh khắc, “Shi En” đã thốt ra những lời cuối cùng của cô gái trung thành, người hóa ra là người yêu của cô. Bằng tấm lòng nhân hậu, tác giả Nguyễn Du đã khóc thương nỗi đau bằng nỗi đau và làm người đọc cảm động cùng nỗi đau.

Vì vậy, qua việc lựa chọn 8 câu cuối của bài “ Nhượng bộ ”, ta thấy được bi kịch tình yêu tan vỡ của Thôi Kiều, số phận bất hạnh và nhân cách cao đẹp của nàng. Đồng thời, những câu thơ kể trên cũng là những ví dụ tiêu biểu cho nét nghệ thuật của “Kiều kiều”, sử dụng từ ngữ tinh tế, độc đáo để miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế, sắc sảo.

Phân tích 8 câu cuối trích trong Truyện Kiều – Văn mẫu số 7

Mối tình Kim Kiều vốn tưởng là đẹp nhưng số phận lại éo le, để cứu cha và em, Kiều buộc phải bán thân. Lời thề và đính hôn, Qiao buồn bã gõ cửa, trao cho em gái của Cuiyun. Sự xung đột giữa cảm tính và lý trí, một loại đau đớn, chỉ là thương hại, chỉ là tình yêu. Đoạn trích trao duyên thể hiện rõ tình cảm của kiều nữ, đặc biệt xem 8 câu cuối của đoạn trích ta không khỏi xót xa cho lời đanh đá của kiều:

“Trâm gãy gương vỡ, làm sao vắt ra được bao nhiêu yêu thương. …Dừng lại, ta đã giúp ngươi rồi.”

Lời thề đêm ấy, nay tình đôi ta tan vỡ, chia tay “trâm gãy, gương vỡ”. Tình yêu đẹp biết bao nhưng khi phải rời xa một ai đó thì thật đau lòng. Hơn nữa, Joe là số phận của một cô gái, nhưng cũng là một người tràn đầy tình yêu và lòng trung thành, và nỗi đau của cô ấy được nhân đôi. Buộc phải trao tình yêu cho bạn là sự lựa chọn cuối cùng của cô ấy, mặc dù trái tim cô ấy không thể làm điều đó, nhưng thực tế quá tàn khốc, trái tim cô ấy, trái tim cô ấy tan nát. Câu nào cũng như đang thương tiếc cho số phận của mình, thương tiếc cho tình yêu của mình:

“Đời ngắn mấy kiếp, sao bạc như vôi. Nước đã trôi, hoa trôi theo làng”

Những từ ngữ “bờ bạc như vôi”, “nước chảy hoa trôi” được tác giả sử dụng trong thơ để miêu tả thân phận của những kiều nữ trong trắng như bạc đang rung rinh. Xã hội bất công và những con người bội bạc đã nguyền rủa cô đến chốn tăm tối, nơi tình yêu của cô bước vào một mối tình “chớp nhoáng”. Đứng trước sự nghiệt ngã của số phận, cô muốn chống cự nhưng không được nên chỉ biết chấp nhận cảnh “thất thập cổ lai hy” trong đau buồn.

Xót xa cho số phận éo le của một người phụ nữ thời phong kiến, một cuộc đời may mắn mà mình không được lựa chọn:

“Thân em như ngọn bần bị gió thổi, sóng biết trôi về đâu”.

Thúy kiều ví mình như hoa bên suối, bấp bênh, nhỏ bé, khao khát trong mênh mông sóng nước. Đâu sẽ có đóa hoa “nhớ nhà” của số phận tươi đẹp, đến được bến bờ bên kia, hay lênh đênh trên biển lớn mãi mãi.

Càng nghĩ càng đau, tim thắt lại, chỉ thương một mình mà thương mười mũi kim. Thấy bị bạn tâm giao phản bội, cô rưng rưng nước mắt xin lỗi:

“Này Kim Lăng! Kim Lăng dừng lại, ta giúp ngươi rồi”

Câu cảm thán ồ ồ kết hợp với hai tiếng gọi Kim Lăng mà lòng nặng trĩu, dường như bao nhiêu tình cảm Kim Kiều đã dồn vào hai tiếng ấy. Hoa kiều thừa nhận lỗi lầm, thừa nhận mình là kẻ dối trá trong lòng một chàng trai, để rồi trong lòng đau đớn, chua xót, sóng gió:

“Dừng lại, thẻ đang che bạn từ đây”

Lời xin lỗi cuối cùng đau đớn đến nỗi ai cũng xót xa cho cô. Trước mặt kim, kiều không oán trách số phận hay hoàn cảnh mà nàng tự nhận mình. Nó cho thấy những gì trong tâm trí và trái tim của cô ấy. Cô không còn nghĩ đến nỗi đau của mình nữa mà mọi lo lắng đều hướng về người đàn ông Kim – người mà cô vẫn yêu tha thiết.

8 dòng cuối của bài thơ là đoạn trích ghi chú sâu sắc. Việt kiều càng quý, bạn đọc càng quý. Hơn hết, tôi nể phục một cô gái có nhân cách cao thượng, nghĩa khí và được mọi người kính trọng.

Trên đây là bài văn mẫu phân tích 8 câu cuối trong truyện Kiều Ruan Du. Học sinh có thể truy cập trang web Shuozhuang để tìm hiểu nhiều bài viết hữu ích cho quá trình học tập và thi cử.

Đăng bởi: thpt sóc trăng

Danh mục: Giáo dục

Nguồn: https://anhvufood.vn
Danh mục: Giáo Dục