Sơ đồ tư duy bài Việt Bắc đầy đủ nhất ✔

Sơ đồ tư duy bài Việt Bắc đầy đủ nhất ✔

Sơ đồ tư duy việt bắc 8 câu đầu

Sơ đồ tư duy Việt Bắc tác giả hệ thống toàn bộ kiến ​​thức trọng tâm của tác phẩm như: tác giả, tác phẩm, nội dung chính của bài thơ, sơ đồ tư duy Việt Bắc trong 8 câu đầu, Tác giả, tác phẩm, nội dung chính của bài thơ, sơ đồ tư duy Việt Nam, tranh tứ bình Sơ đồ tư duy Việt Nam.

Bạn Đang Xem: Sơ đồ tư duy bài Việt Bắc đầy đủ nhất ✔

Sơ đồ tư duy lớp học Tiếng Việt Dễ đọc, dễ viết, kích thích sự hứng thú, sáng tạo trong học tập của học sinh, phát huy tối đa khả năng học thuộc lòng nội dung chính của bài văn. Sử dụng sơ đồ tư duy tiếng Việt trong lớp học giúp học sinh ghi nhớ những kiến ​​thức đã học một cách logic và trình bày nội dung bài học một cách khoa học, dễ nhớ. Sau đây là nội dung chi tiết của văn bản, mời các bạn xem tại đây.

sang hữu bản đồ tư duy tiếng Việt

Sơ đồ tư duy thơ Việt Nam

Bản đồ tư duy Việt Nam

Bản đồ tư duy Việt Nam

Xem thêm: Phân Tích Thơ Việt Nam

Bản đồ tư duy Việt Nam sau Việt Nam

Xem thêm: Phân tích đoạn 3 bài thơ Việt Bắc

Bản đồ tư duy Việt Nam (học sinh vẽ)

Sơ đồ tư duy về 4 bình luận về bài báo tiếng Việt

Xem thêm: Phân tích thơ tứ tuyệt Việt Nam

Sơ đồ tư duy để cảm nhận chất thơ Bắc Bộ

Xem thêm: Cảm nhận thơ Bắc Bộ

Phân tích sơ đồ tư duy 8 câu đầu tiếng Việt

Bản đồ tư duy Vietnam Post – Bản đồ tổng hợp, Mẫu 1 (Chuẩn)

Thơ Việt Nam Tứ Binh Bản Đồ Sơ Đồ Tư Duy (Chuẩn)

Sơ đồ tư duy 8 câu đầu tiếng việt bắc (chuẩn)

Sơ đồ tư duy Việt Bắc – Portfolio, mẫu 2 (học sinh vẽ):

Sơ đồ tư duy Thơ Việt Nam được trình bày đơn giản dưới dạng sơ đồ giúp các em học sinh dễ dàng học tập và ghi nhớ hơn.

Phân tích Sơ lược thơ Du bạn ở Việt Nam

Tôi. Phân tích bài mở đầu ở Việt Nam

“Chín năm làm nền, ren đỏ nên kim sử”.

(có thể).

– Chặng đường chống Pháp gian khổ đã kết thúc thắng lợi, tháng 10.1945, Trung ương Đảng và chính phủ từ Chiến khu Việt Nam về thủ đô Hà Nội. Trong một buổi chia tay lưu luyến với người Việt Nam ở phương Bắc, Tuyou đã viết một bài thơ về Việt Nam.

– Bài thơ này là một bản tình ca, thể hiện tình cảm, nỗi nhớ nhung của người đã khuất. “Việt Bắc” là một trong những bài thơ thể hiện đỉnh cao tài năng và phong thái của Đỗ Hữu…

Hai. Nội dung bài văn phân tích bài Việt Bắc- Sơ đồ tư duy Việt Bắc

1.Hai mươi dòng đầu của bài thơ:Hồi tưởng về cuộc kháng chiến chống Nhật, qua đó thể hiện tình cảm quân dân

– Thông điệp của người Việt Bắc:

+ Trong bốn câu đầu của bài thơ có hai câu hỏi tu từ, người ở lại hỏi người ra đi có nhớ “ta” kẻ đến, hỏi có nhớ “núi nguồn” để nhớ những người sống với nhau trên đất liền. 15 năm tình bạn. Câu hỏi này tuy là ngụy biện nhưng thực chất là một lời nhắc nhở nhắc nhở người đời đừng quên đường lối của thế gian.

→ Sự việc đời thường, tình cảm đạo đức. Tác dụng của nghệ thuật đặt câu hỏi tu từ là bộc lộ tình cảm của người nói, người ở lại thể hiện sự nhớ nhung, yêu thương, kính trọng đối với người ra đi.

+Lời bình của nhà thơ, tự nhắc mình

– Ai về từ tiệc chia tay xin giữ bí mật

  • Bốn dòng tiếp theo là cảnh chia tay. “Bên cồn cát gợi nhớ một cuộc chia tay ở một bờ sông nào đó. Nền tiếng hát, người đi và người trên bãi biển, tay nắm chặt không nói nên lời. Tạo không khí chan chứa yêu thương, tình cảm gia đình, tình quân dân.
  • “Băn khoăn, trằn trọc” diễn tả sự bồn chồn, bứt rứt do bị đè nén. Thể hiện tình cảm của người ở lại đối với đồng bào, người Việt Nam.
  • Hình ảnh ẩn dụ “Áo dài” của miền Bắc Việt Nam. Nó tượng trưng cho sự giản dị, chân chất và tâm hồn sâu lắng của người Việt Nam.
  • – Chia tay nhớ lại những năm tháng gian khổ nơi chiến khu

    • “Ngập trong mưa”: Rầm rầm, nhấn chìm bởi những cơn mưa xối xả, sự khắc nghiệt của mùa mưa Việt Nam khiến cuộc sống trong rừng càng vất vả hơn.
    • Thủ pháp đan xen “mây và mây” nhấn mạnh bầu trời u ám và gian khổ, là hình ảnh ẩn dụ cho những gian khổ trong những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống Nhật
    • “Cơm muối trong bát”: miêu tả chân thực cảnh thiếu thốn mọi mặt của chiến khu.
    • Khi đau khổ dồn lại, khi hạnh phúc, khi người đi, khi chia tay, lòng người ở lại bỗng đầy tiếc nuối, hoài niệm. Hoán dụ “núi rừng” chỉ miền Bắc Việt Nam, nỗi nhớ da diết hơn, đại từ “ai” là phong tục dân dã mộc mạc
    • Người Việt Nam tự hào về mảnh đất anh hùng này, bồi hồi nhớ lại những ký ức lịch sử không thể nào quên.
    • ⇒ Bằng hình thức đối thoại, đoạn thơ diễn tả tình cảm của đồng bào miền Bắc đối với cán bộ, chiến sĩ.

      2. Tâm sự của người chết

      -“Anh ở bên em, em ở bên anh” là lời khẳng định tấm lòng trung nghĩa, là để giữ lấy lòng người.

      – Người ra đi là nỗi nhớ, nhớ thiên nhiên, nhớ vầng trăng sáng buổi trưa, nhớ sương chiều nắng, nhớ rừng trúc… nhớ bốn mùa bên nhau

      – Nhớ con người Việt Bắc: không quản ngại khó khăn gian khổ, sẻ chia vui buồn với nhau. Dùng tiếng hát để nhớ về những kỷ niệm ấm áp với bộ đội, đồng bào “một ca một mình”… hình ảnh thôn quê của “chị cả” di cư

      – Ghi nhớ hình ảnh giúp đỡ lẫn nhau, dũng cảm đánh giặc

      – Ghi nhớ chiến công lừng lẫy, niềm vui chiến thắng

      ⇒ Tình yêu con người Việt Nam, quê hương của người lính cũng chính là tình yêu con người, quê hương của nhà thơ, là tình yêu cuộc sống trong chiến tranh

      3. Bộ tứ dưới con mắt nhân từ của chủ nhân

      – Tâm sự của một người đàn ông nghiêm túc và sâu sắc.

      • “Hoa và người”: hoài niệm về một đối tượng cụ thể
      • Đại từ nhân xưng “tôi-tôi” thể hiện tình yêu sâu sắc, bền chặt với người đã khuất
      • Từ “tôi về” ở đầu câu bộc lộ nỗi băn khoăn, nhớ nhung, đọng lại, gợi về quá khứ.
      • -Trong hoài niệm, bức tranh hiện lên một vẻ đẹp chan hòa với con người

        • Cảnh sắc thiên nhiên bao bọc bốn mùa được ghi lại như một bức tranh tứ bình xen lẫn thơ cổ điển
        • Vẻ đẹp của mùa đông: Trong tự nhiên có một chút màu đỏ thắm của hoa chuối và sự tương phản của các màu sắc làm nổi bật vẻ rực rỡ. Không gian bỗng bừng sáng, ấm áp bởi sắc đỏ khiến nỗi nhớ da diết thêm da diết.
        • Mùa xuân về, thiên nhiên Việt Nam phủ một màu xanh của núi rừng, điểm xuyết sắc trắng tinh khôi của hoa mai. Động từ “nở” và tính từ “trắng” biểu thị hoa nở vào mùa xuân. Cảnh mùa xuân, con người chăm chút tạo nên bức tranh hài hòa
        • Mùa hè, Việt Bắc mang một màu vàng tuyệt đẹp của rừng hổ phách. Phong cảnh mùa hè trông cổ điển, quyến rũ, tươi sáng và lấp lánh
        • Cuối cùng là khung cảnh mùa thu và vẻ đẹp của đêm trăng. Một tính năng kỳ diệu, yên bình, tuyệt vời. Người đẹp mang bao ước mơ đẹp cho tương lai
        • – Đoạn thơ kết thúc bằng “Bài Ca Chung Tình”. Đó là bài ca của người ở lại và cũng là bài ca của người ra đi. Một bài ca thiết tha hy vọng và tình người sâu nặng.

          ⇒ Đoạn thơ mở ra thế giới của cái đẹp: cảnh thiên nhiên đẹp, người đẹp, giữa họ có một trái tim đẹp và một nỗi nhớ đẹp. Nó thể hiện tình quân dân, tình yêu đất nước cao cả của nhà thơ.

          4. Phần còn lại: miền bắc rộng lớn của tháng chiến hào hùng.

          – Bằng bút pháp sử thi, tác giả miêu tả những đoàn quân sôi sục trên chiến trường.

          • Từ “đêm” gợi tả một khoảng thời gian dài, từ “rầm rầm” và âm thanh kết hợp với nhịp thơ 2/2 gợi những bước chân vững chãi, xuôi ngược.
          • Những biện pháp “kinh thiên động địa” phóng đại, minh chứng cho sức mạnh phi thường của quân đội.
          • Một bức chân dung quân nhân đại diện cho một dân tộc anh hùng.
          • – Chặng đường gian khổ, nguy hiểm nhưng người lính vẫn cảm nhận được vẻ đẹp của thiên nhiên, biển mây, niềm vui khi được ngắm cảnh: thể hiện sự yêu đời, lạc quan, tin tưởng vào tương lai.

            • Nghĩa là “người đội mũ”: người lính ra chiến trường với tình yêu dành cho người lính khiến anh ta có thêm động lực chiến đấu
            • Hình ảnh cây súng và ngôi sao cụ thể giàu tính biểu tượng. Mũi súng gợi cảnh chiến tranh, ngôi sao gợi cảnh hòa bình, tương lai tươi sáng hay ánh sao là ẩn dụ cho con mắt của kẻ si tình.
            • – Hình ảnh đám đông

              • Ánh sáng của chiếc đèn pin gợi lên không khí lao động hăng say, phá đá mở đường. Hình ảnh tươi sáng ấy toát lên sức mạnh, sức sống, gieo niềm tin tươi sáng.
              • Hình ảnh “không thấy đâu” nêu bật sức mạnh to lớn của quần chúng nhân dân.
              • Quân đoàn mang vẻ đẹp của những anh hùng trong trận mạc và sức mạnh của chiến tranh nhân dân
              • – Đội quân ra trận đánh bao trận lẫy lừng, chấn động thiên hạ.

                • Liệt kê các địa điểm xem Tưng bừng Chiến thắng
                • Từ “Xi” thể hiện niềm phấn khởi vô biên, niềm hân hoan chiến thắng
                • ⇒ Đoạn thơ tái hiện chân dung thời chiến tranh Việt Nam, nhằm ca ngợi đất nước Việt Nam anh hùng, quê hương anh hùng.

                  Ba. Phân tích tiếng Việt Kết luận

                  “Yue Bei” là một bài thơ xuất sắc mang dấu ấn ném hồ. Không chỉ có cổ điển và hiện đại, cảnh và nhân vật, hài hước có tình có lý, mà còn có thơ ca dân gian đặc sắc của ngôn ngữ địa phương, và cả những sử thi anh hùng ca đặc sắc

                  Phân tích toàn cảnh thơ ca Việt Nam

                  Bài văn mẫu 1 – Sơ đồ tư duy Việt Nam

                  Văn học kháng chiến chống Nhật vẫn chiếm một vị trí quan trọng trong nền văn học Việt Nam. “Việt Bắc” của Dư Hữu được đánh giá là một tác phẩm đồ sộ, có ý nghĩa sâu rộng, là tiếng nói của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến trường kỳ. Phân tích Việt Bắc, chúng ta sẽ thấy được tình cảm trớ trêu và tình đoàn kết của những con người từ ngòi bút trữ tình tài tình của tác giả.

                  Tử Hữu là nhà thơ lớn hiện đại, được mệnh danh là ngọn cờ đầu của phong trào thơ ca cách mạng Việt Nam. Cuộc đời hoạt động nghệ thuật của ông luôn bắt nhịp với giai đoạn cách mạng của dân tộc, làm cho thơ ông trở thành một trang sử, hào hùng nhưng vô cùng sâu sắc. Lời thơ giản dị, ấm áp nhưng đậm chất chính luận.

                  Bài thơ “Việt Bắc” viết sau khi đánh thắng thực dân Pháp là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của Du. Đầu những năm 1940, Việt Nam là căn cứ quan trọng của chiến tranh. Nơi đây quân dân ta cùng chung sống, bảo vệ và chiến đấu. Năm 1954, Trung ương Đảng và Chính phủ rời căn cứ địa Việt Bắc về Hà Nội sau thắng lợi hoàn toàn. Vào giờ phút trọng đại của dân tộc, nhà văn Dư Hữu đã sáng tác bài thơ “Việt Bạn”. Qua bài thơ này, tác giả gợi nhớ lại tình anh em, tình cảm gắn bó, thắm thiết giữa quân và dân trong kháng chiến chống Nhật cứu nước và những khát vọng của quân và dân ta trong máu lửa, gian khổ.

                  Trước hết, tác giả đưa ra lời của những người ở lại, tiếng nói của những người cán bộ, chiến sĩ Việt Nam khi họ trở về. Với thể thơ lục bát, lời ca như tâm tình, thủ thỉ, hoài niệm:

                  “Khi trở về, mười lăm năm yêu em có nhớ không? Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn không?”

                  Phân tích Việt Bắc, bài thơ nói về người ở lại bền bỉ và nỗi niềm luyến tiếc khi chia tay. Họ phải xa người chiến sĩ cách mạng đã gắn bó bao năm. Tác giả sử dụng các đại từ “mình”, “ta” rất tài tình. Nó là hiện thân của tình cảm gia đình, lòng trung thành thủy chung của người cán bộ và quần chúng nhân dân. Ở đây, bạn này đưa ra một khoảng thời gian cụ thể là “mười lăm năm đó”. Đó là một thời gian dài, quân và dân ta đã chiến đấu ác liệt chống thực dân Pháp tàn bạo. Đó cũng là thời đại mà tình quân dân vô cùng nồng ấm, thắm thiết. Giờ đây, người ra đi lẫn người ở lại đều đầy hoài niệm, nhìn đâu cũng thấy bóng dáng xưa cũ, lòng vẫn nguyên vẹn, trong sáng. Tác giả dường như đã gieo vào lòng người đọc một cảm giác lạ lùng.

                  Nỗi nhớ nhung, khắc khoải của người ở lại làm cho người ra đi không khỏi bồi hồi. Có vẻ như không ai muốn rời đi :

                  <3

                  Xem Thêm: Đặt tên con gái năm 2022 hợp tuổi bố mẹ hay & Ý nghĩa

                  Lời người ở lại khiến người về không đành lòng ra đi. Những lời đầy tự tin ấy giờ đây khiến cho nỗi nhớ, kỉ niệm ấy như tràn về, không thể nào quên. Tất cả tâm trạng được tác giả tổng kết bằng từ “buồn”. Giống như giằng co, níu kéo không muốn rời, giống như nhớ nhung cái thê lương của ly biệt. Cảm giác đó không thể dễ dàng diễn tả bằng lời.

                  Lúc này đây là tâm trạng của kẻ ra đi và kẻ ở lại, không thể giải thích được tại sao lại như vậy. Có lẽ tình yêu quá lớn và kỉ niệm quá đầy nên không thể quay đầu lại. Suốt 15 năm sống bám trụ trên mảnh đất này, đồng chí, đồng bào cùng vui cùng khổ, cùng ăn cùng ngủ. Những năm tháng khó khăn ấy không chỉ khó diễn tả bằng lời, mà mỗi lời đều chan chứa yêu thương, vô vàn nhớ nhung và mong đợi. Người ra đi đáp lại tình người ở lại:

                  “Em và anh, em và trái tim anh, chúng ta luôn bằng lòng”

                  “Tôi” và “tôi” dường như là một, không thể tách rời. Người quá cố khẳng định mình “mặn mà chắc”. Chữ “ăn” như gửi gắm vào trái tim người đọc một tấm lòng son sắt, chung thủy trước sau như một. Đây là một tình cảm vô cùng thiêng liêng và cao quý.

                  Chỉ khi nghĩ đến núi rừng Bắc Bộ, tác giả mới nghĩ đến tất cả thiên nhiên và con người nơi đây. Mọi thứ hiện ra đều rất sống động, đầy ý nghĩa, tràn đầy tình yêu thương. Chỉ cần vài bước là lập dàn ý về tứ tuyệt đầy đủ, ý nghĩa và đẹp đẽ nhất của con người và thiên nhiên tại đây:

                  “Anh về em nhớ ta, nghĩ đến hoa và người, rừng xanh, hoa chuối đỏ tươi, đèo cao nắng thắt lưng, ngày xuân mơ nở, Rừng trắng nhớ người đan nón Mỗi ngày làm một sợi chỉ, tiếng rừng như rừng sập, nhớ em tôi hái măng một mình, trong rừng thu trăng soi bình yên, nhớ tôi chị hái măng một mình”

                  Bức tranh đẹp, sinh động, nguyên bản miêu tả tứ bình và núi rừng Việt Nam. Trong bức tranh ấy không chỉ có những hình ảnh thiên nhiên tươi đẹp, hùng vĩ mà còn có cả những bóng dáng con người chân chất, giản dị, tình cảm và trường tồn với thời gian. Đây có lẽ là bài thơ hay nhất, đẹp nhất, trữ tình nhất trong toàn bộ nền thi ca Việt Nam. Tràn đầy niềm tin yêu lạc quan là nét nổi bật của cả bài thơ.

                  Tác giả sử dụng từ “nhớ” lặp đi lặp lại xuyên suốt tác phẩm. Nỗi nhớ của cả bài thơ như trào ra, và cảm xúc của tác giả cũng trào ra, dội mạnh, tràn cả con chữ.

                  Nhà thơ Daoyou không chỉ nhớ đến cảnh vật và con người miền Bắc Việt Nam, mà quan trọng hơn, ông còn nhớ đến cuộc chiến tranh khốc liệt và gian khổ đã diễn ra trong một thời gian dài:

                  “Ta nhớ khi quân giặc đến xâm phạm núi rừng, ta cùng nhau đánh núi xây làng sắt, núi rừng che quân rừng vây giặc”

                  Ở đây, giọng thơ không còn thiết tha, thủ thỉ nữa mà đậm đà, vang dội về vinh quang của quân và dân ta trong chiến tranh. Những trận đánh đó diễn ra ở núi rừng Việt Bắc, để lại dấu ấn nơi đây. Không chỉ con người đồng tình, mà thiên nhiên dường như cũng đang “bao vây, trấn áp” sát cánh cùng người lính.

                  Qua những câu thơ này, tâm hồn Dong Ah như trỗi dậy, mạnh mẽ và đầy kiêu hãnh. Những chiến công hiển hách và tinh thần đoàn kết nhất trí sẽ mãi được ghi nhớ và nhắc mãi cho muôn đời sau.

                  Bằng thể thơ lục bát, giọng trữ tình và hình ảnh độc đáo, “Việt Bắc” đã khắc họa thành công những sự kiện trọng đại của đất nước. Hơn hết, bài thơ tái hiện chặng đường hào hùng, tình cảm sắt son son sắt của quân và dân – những nhân tố quan trọng làm nên thắng lợi vẻ vang của dân tộc ta. Họ là những con người nhỏ bé nhưng phi thường, hết lòng vì dân, vì nước, vì cách mạng, đoàn kết một lòng, trung thành với lý tưởng cao đẹp.

                  Bài văn mẫu 2 – Sơ đồ tư duy Việt Nam

                  Tử Hữu là nhà thơ lớn của nền văn học Việt Nam, đặc biệt là văn học cách mạng, ngọn cờ đầu của thơ ca cách mạng và kháng chiến. Đời cách mạng và đời thơ hòa quyện. Vì vậy, có thể nói qua các tác phẩm của ông, ta không chỉ thấy được thế giới tinh thần đầy cảm xúc, mà còn thấy được phong cách nghệ thuật độc đáo trong ngòi bút thi pháp của tác giả, qua đó nhà văn như được đáp lại. Phản ánh rõ nét nhất những mốc lịch sử quan trọng của thời đại. Cuộc kháng chiến chống Nhật bảo vệ nền độc lập dân tộc cho người đọc thấy trọn vẹn chương huy hoàng của lịch sử Tổ quốc như một thước phim. chuyển động chậm. Hãy phân tích bài thơ Việt Bắc bạn sẽ hiểu.

                  Bài thơ được viết vào tháng 10 năm 1954, khi cuộc kháng chiến chống Pháp vừa kết thúc, các cơ quan trung ương của đảng và chính phủ từ Hà Nội trở về Hà Nội, thủ đô của nhân dân. Tố Hữu cũng là một trong những cán bộ kháng chiến chống Nhật, từng gắn bó với con người và thiên nhiên Việt Bắc, nay trở về trong niềm tiếc thương nhớ nhung, nhà thơ đã viết bài thơ này với niềm xúc động.

                  Xem Thêm : Truyền thuyết là gì? | Soạn văn 6 chi tiết – Loigiaihay.com

                  Bài thơ được viết theo thể lục bát, là một thể thơ cổ truyền dân tộc, với giọng điệu mềm mại, uyển chuyển, đượm chất trữ tình của ca dao. Trong nỗi buồn sâu xa của cuộc chia tay, việc dùng thể thơ này để bộc lộ cảm xúc, khơi dậy nỗi nhớ núi rừng, con người Việt Nam là rất thích hợp.

                  Tác giả mở đầu bằng một loạt câu hỏi tu từ:

                  Về với em Anh có còn nhớ em Mười lăm năm rồi Em có nhớ anh Nhìn cây nghĩ nước chảy Nhìn nguồn sông Tiếng ai chân tình Bên cồn cát, trong bụng cồn cào bước đi Tà áo dài cho tôi biết nói gì hôm nay… Đi tôi nhớ ngày mưa suối lũ mây mù mịt người nhớ chiến tranh cơm chấm muối ân oán Khi về già tôi nhớ những nhà xưa, lau sậy xám xịt, giàu lòng trai, có nhớ núi cao thời chống Nhật, còn Việt Nam, có nhớ ta tân trao, hồng thái, mái đình cây đa?

                  Những kỉ niệm ấy giờ chỉ còn là kỉ niệm trong dòng kí ức… trôi chầm chậm… hết câu hỏi này đến câu hỏi khác cứ hiện ra, tạo thành một điệp khúc đầy ắp nhân vật trữ tình. Cũng chính qua mấy dòng này mà phong cảnh núi rừng Việt Nam được hiện lên sống động. Đó là sông núi hùng vĩ, là ngọn nguồn của những cơn mưa xối xả trên mây… nhưng giữa bức tranh ấy, nổi bật hơn cả là cuộc sống và những trận chiến vô cùng khó khăn, gian khổ nhưng vô nghĩa. Đoàn kết như con một nhà kháng chiến cùng chung dòng máu với dân tộc Việt Nam. Cuộc sống chiến đấu tuy gian khổ, khó khăn nhưng nhờ sự đùm bọc, giúp đỡ tinh thần của những con người chân chất nơi núi rừng, tất cả đã trở thành một kỉ niệm đẹp, khó quên trong lòng tôi. Cả hai trái tim.

                  Chân đi mà lòng không yên… Tấm lòng đã hơn mười năm nay thuộc về đất, người, núi nơi đây, giờ phải chia xa để được giúp đỡ. Người lính bước đi với vẻ mặt thương hại. Câu hỏi của người Việt Bắc không chỉ thể hiện nỗi nhớ mà còn muốn khắc sâu những kỉ niệm ấy.

                  Cách xưng hô “ta-ta” cũng là một cách xưng hô rất thân mật, thể hiện sự mật thiết gắn bó máu thịt giữa quân và dân, nên lời ca như thủ thỉ, giọng thơ có kiểu hưởng thụ nhẹ nhàng mà sâu lắng. sự nhiệt tình. Hình ảnh áo xanh trong bài thơ: “Áo xanh đưa tiễn…” là hình ảnh ẩn dụ cho cuộc chiến đấu của người Việt ở phía Bắc. Nắm tay nhau đi, người ta cứ đi, mình chẳng biết nói gì đành phải nhiệt tình bắt tay. Chúng ta cũng đã thấy kiểu bắt tay này trong thơ của người chính trực:

                  Áo anh rách, vai em cũng rách, quần rách mấy bức tường thiếu giày, yêu nhau nắm tay…

                  Phải, giữa trời đêm lạnh giá, họ chẳng có gì để trao cho nhau ngoài tình đồng chí trong vòng tay. Một cái bắt tay giản dị đã giúp những người lính vượt qua gian khổ, thiếu thốn của những ngày đầu chiến tranh. Cái bắt tay này được thực hiện trong hoàn cảnh chia cắt, mang ý nghĩa thắm thiết tình quân dân.

                  Trước tình cảm gia đình nồng nàn và nỗi nhớ da diết ấy, người lính dần mở lòng nói ra từng lời:

                  Ta với ta, rốt cuộc là ta và lòng ta, tưởng đã ra đi, ta lại nhớ ta, như nguồn bao nhiêu ân tình, chẳng nhớ gì người yêu, trăng trên đỉnh núi, trăng trên ta. nhớ lại nắng chiều nhớ từng mảnh khói sương sớm mai người nhà bên bếp lửa nhớ từng lũy ​​tre rừng bên sông Rihe Lixi đầy ta. Ngày tháng ta đây, đắng cay ngọt bùi.. thương nhau chia củ sắn, chia bát cơm manh chăn, nhớ mẹ địu con ra đồng bẻ từng bắp ngô giữa trưa nắng, nhớ sao lòng mình. lớp Báo cáo giám đốc tối, sáng đuốc, dự tiệc, nhớ sao những ngày khó khăn cơ quan vẫn hát vang núi đèo.

                  Ký ức ùa về như thủy triều, ký ức nào cũng rất rõ ràng, như thể mới xảy ra ngày hôm qua. Người lính khẳng định lòng thủy chung, chan chứa nghĩa tình, sâu nặng như nguồn gáo nước lạnh dội vào làng. Người lính còn nhớ trăng rằm sau núi sau bản, ruộng bậc thang thơm mùi lúa chín vàng như mật, buổi sáng mây phủ, từng con suối trong rừng… cảnh sắc thiên nhiên núi rừng phương Bắc , và Nó đã từng hiện lên trong từng câu thơ nên thơ và đẹp như tranh vẽ, để người đi xa không nguôi nhớ nhung.

                  Nghĩ đến mùi vị của củ sắn, anh cũng rạo rực, anh vốc lấy nửa nắm cơm, tuy đơn giản nhưng chứa chan tình cảm. Hình ảnh người mẹ địu con đi làm đồng là hình ảnh tiêu biểu của phong trào Nghĩa quân núi rừng Việt Nam. Nhớ lớp, nhớ đến những câu hát dân quân… Những kỉ niệm đó thật đẹp, đã trở thành một phần máu thịt của anh. Không cần phải nói lời từ biệt nhưng qua hàng loạt câu hỏi như thế mới thấy được tình đồng đội sâu nặng và nỗi nhớ da diết giữa cán bộ và quần chúng nhân dân.

                  Về rồi nhớ ta, nghĩ đến hoa và người, rừng xanh, hoa chuối đỏ tươi, đèo cao, nắng thắt lưng, xuân về mộng nở, núi rừng trắng xóa, nhớ ai đan nón, khâu từng đường khâu. Một mình ở Qiulin, trăng lặng lẽ chiếu sáng, nhớ ai trung thành với bản tình ca.

                  Chỉ bằng mấy dòng thơ, nhà thơ đã tái hiện khung cảnh thiên nhiên bốn mùa xuân, hạ, thu, đông ở Việt Nam một cách chân thực và rõ nét nhất mà nhà thơ đã chọn để miêu tả mùa đông trước đó, chỉ như người lính Mùa đông đến, mùa đông cũng ra đi, mùa đông là mùa phôi pha gặp gỡ, chia xa nên khắc sâu trong lòng người. Mùa đông – mùa của những rừng cây xanh tốt và hoa chuối đỏ rực. Những con người xuất hiện trong cuộn tranh nên thơ ấy đang chuẩn bị chinh phục thiên nhiên: “Dao thắt lưng, Rigaoguan”. Mùa đông qua đi, mùa xuân đến, diện mạo đất nước Việt Nam đã khoác lên mình một diện mạo mới. Đó là màu trắng tinh khôi của hoa mai, của những người lao động cần mẫn. Mùa thu, rừng mơ trắng chuyển màu hổ phách nghe tiếng ve kêu như giục giã lòng người. Hình ảnh cô gái Việt Nam hái măng một mình thật nên thơ và đẹp như tranh vẽ. Kết thúc cuộn tranh bốn mùa là ánh trăng êm ả và tiếng hát say đắm, thủy chung.

                  Có thể nói chỉ trong vài dòng ngắn ngủi nhưng mỗi chữ như thể hiện cả dòng đời. Trong bức ảnh bốn mùa đó, con người và thiên nhiên Việt Nam là trung tâm. Những nàng tiên tượng trưng cho sắc màu của bốn mùa như đang lướt trên dòng chữ.

                  Sau đoạn thơ tả thiên nhiên, người lính nhắc đến hoạt động cách mạng sôi nổi của mình:

                  Nhớ khi giặc đến xâm phạm núi rừng Ta cùng nhau hành quân tây tiến, làng sắt xây bên núi, quân lâm rừng che, giặc vây, sương giăng , và toàn bộ nhà hát của chúng tôi, ai còn nhớ tôi? Đi qua hải quan Giang Quan nhớ Lạc Hà, nhớ phố xá, nhớ từ Cao Lãng đến Niha…

                  Những kỷ niệm hiện lên trong tâm trí tôi đều là khi những người lính chiến đấu chống lại kẻ thù. Giặc đến, không chỉ quân ta, mà cả núi rừng hoang vu đều hợp sức đón giặc. Đối với quân và dân ta, rừng dang rộng vòng tay yêu thương che chở, bảo vệ, màu xanh của lá rừng như màu quân phục ngụy trang, để các chiến sĩ yên tâm đánh giặc, đánh giặc. Đối với địch, rừng nguy hiểm như một trận thế bao vây, bẫy chúng trong muôn vàn cạm bẫy. Khi ấy, núi rừng Việt Bắc đã tự nhiên góp phần làm nên chiến thắng, viết nên trang sử vẻ vang của dân tộc.

                  Nhưng trên hết, tình quân dân thể hiện rõ nhất trong bài thơ này:

                  Đường Việt Bắc ta rung như đêm, điệp trùng tiếng súng, đuốc sao, bậc là đá sỏi, ngàn than hồng bay trong sương khói mịt mù Như ngày mai tin vui hòa bình 100 huyện Chiến Thắng, Tây Bắc, Điện Biên sẽ vui vẻ trở lại Núi Hồng, Bắc Sơn, Việt Nam từ Ankaiwei, Chùa Đông.

                  Khí thế của đoàn quân vô cùng mạnh mẽ được thể hiện qua hình ảnh qua hình ảnh tương phản “tiếng lục lạc đêm khuya như đoàn quân đất nung” và qua từ gợi tả gợi tả “ điệp trùng”. Hoán dụ Đầu Súng Ánh Sao Trên Mũ – Hình ảnh tượng trưng cho quân và dân Việt Bắc. Ngọn đuốc trên tay quân và dân ta không chỉ soi sáng cả bầu trời Việt Nam lúc bấy giờ mà còn soi sáng bao thế hệ, soi sáng tương lai, thắp lên niềm tin và hy vọng ngày chiến thắng không xa. Sức mạnh của toàn quân mạnh đến mức có thể khiến đá bay, và không thế lực nào có thể ngăn cản được. Nghệ thuật cường điệu, phóng đại của nhà thơ như tái hiện lại bối cảnh lịch sử lúc bấy giờ, giờ đây qua vài dòng ngắn ngủi, ta như được trở về thời đại hào hùng của tiền nhân. Trong bóng tối bao trùm bởi những ánh đèn pha dường như thắp lên niềm tin và hy vọng của mọi người về một tương lai tốt đẹp hơn.

                  Cuối cùng, sau những tháng ngày chiến đấu gian khổ, ác liệt, quân và dân ta đã giành được thắng lợi hết sức vẻ vang. Không từ ngữ nào có thể diễn tả được niềm hạnh phúc ngập tràn. Hòa bình từ Tây Bắc hay Điện Biên, lòng người như hòa làm một. Đây là minh chứng cho tinh thần đoàn kết không gì lay chuyển được giữa quân và dân ta khi đất nước gặp khó khăn.

                  Trong nỗi nhớ chia tay, nhà thơ đã hát lên khúc ca hào hùng ca ngợi quê hương, ca ngợi đảng và chính phủ Việt Nam:

                  Ai còn nhớ Cờ đỏ thắm cửa hầm gió trưa Trung ương nghị án Thu đông về quê vận động giao thông mở đường đắp đê chống hạn thu lương phát lương Giặc ngước nhìn phương Bắc trong bóng tối hồ núi Người Việt Nam trong nỗi đau dân tộc gắn bó Mười năm năm ai quên lập Tổ quốc cách mạng Dân quốc nhớ quê hương cây đa thời thượng Hồng Đài.

                  Ngày hôm qua ấy sẽ mãi ở trong trái tim những người chiến sĩ cách mạng như một phần ký ức không thể tách rời. Hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng như minh chứng cho chiến thắng oanh liệt của dân tộc. Hình ảnh Bác Hồ tượng trưng cho lòng dũng cảm, nghị lực của quân và dân ta tiếp tục chiến đấu và chiến thắng. Bác như truyền cho chúng tôi dũng khí và ý chí, bởi chỉ có ý chí mới vượt qua được những chông gai, thử thách, khó khăn phía trước.

                  Nếu đi xa vào thành phố, bạn có còn nhìn thấy những ngọn núi nhấp nhô? Nhớ ngôi làng rực rỡ ánh sáng? Nhớ Lin Zhongyue?

                  Bài thơ này như nỗi niềm của nhân dân Việt Nam đối với người chiến sĩ cách mạng lúc chia tay. Những hình ảnh ẩn dụ như nhà cao, núi non, phố xá, đèn sáng, trăng trong rừng đều là những hình ảnh biểu thị cuộc sống nơi phố thị, núi rừng.​ So sánh giữa một bên là cuộc sống giàu sang, đủ đầy, một bên là cuộc sống nghèo khó nhưng đầy ắp kỷ niệm của núi rừng thiên nhiên, tác giả thể hiện nỗi băn khoăn trong lòng người dân, liệu cuộc sống có đổi thay, cán bộ có thay đổi tư duy, quá khứ đã quên, còn những người sát cánh trong những ngày khó khăn Những người đã đi qua, ngày đêm nhớ nhung, mong ngày trở về. Về vấn đề này, quan chức này cho biết:

                  Hôm nay đường đến nơi này đã gần, ra khỏi thôn vào thành, nhà cao cách đồi xanh không xa, Đông Thành khuyên ngươi ngày mai nhanh lên, trở về thôn, rừng già và núi xưa, ngày mai lại yêu, rộn ràng sơn ca tàu xuống núi vây quanh…

                  p>

                  Người cán bộ lão thành cách mạng hồn nhiên khẳng định: Dù môi trường sống có đổi thay nhưng trái tim ông vẫn luôn hướng về Việt Nam, trong lòng ông luôn khắc khoải nỗi nhớ nhung con người và thiên nhiên nơi đây. Dù sống trong cao ốc cũng không quên được núi non xanh nước biếc. Một ngày nào đó họ sẽ trở lại ngôi làng này một lần nữa, và mối quan hệ của họ sẽ tươi mới và trọn vẹn như khi nó bắt đầu.

                  Xem Thêm: Có nên đặt tên con gái là Khánh Vy không, ý nghĩa thế nào?

                  Vào giờ phút chia tay cuối cùng, thông điệp mà những người con đất Việt muốn gửi gắm nhất đó là:

                  Tôi cùng chú trên đường về Việt Nam không khỏi nhớ ông cụ có đôi mắt tinh anh Áo nâu sánh đôi túi vải vừa đẹp vừa tươi Tôi nhớ chú. Người đi dưới chân đèo, người đi xuyên núi rừng, soi bóng.

                  Hình ảnh người chú lại xuất hiện trong bài thơ. Chỉ là anh hiện lên không phải là một biểu tượng cao đẹp để tiếp thêm ý chí và niềm tin của người chiến sĩ cách mạng, không phải là biểu tượng của sức mạnh chiến thắng quân thù, mà anh hiện lên trong những câu thơ này như một con người rất đỗi bình thường: mắt sáng, da nâu. ung dung đặt chiếc áo sơ mi trong túi vải của mình vào mỗi buổi sáng trên yên ngựa. Thật vậy, hình ảnh cô chú trong truyện cổ là hình ảnh của một ông tiên, rất giản dị nhưng cũng cao đẹp lạ thường. Giờ người ấy đã xa núi rừng như dõi theo từng bước chân anh.

                  Cuối bài thơ là hai câu rõ ràng:

                  Nắm tay nhau cùng hát, cùng thủ đô hát vang ngày mai.

                  Hai dòng cuối bài thơ chứa đựng tiếng cười sảng khoái nên dù chủ đề là cuộc chia tay nhưng không làm cho người đọc xót xa, xót xa hay nuối tiếc mà trái lại tươi vui, phấn khởi, mở ra một tương lai tươi sáng, tương lai triển vọng phát triển không ngừng của đất nước. Câu hát cuối bài, như một lời ngợi ca sức sống của đất nước, cũng là một khúc tiễn biệt đầy tự tin.

                  Kết thúc câu thơ của Việt Nam Buck để lại dư vị khó phai trong lòng người đọc. Để có được thành công như vậy trước hết phải kể đến sự độc đáo về nghệ thuật. Chất thơ dân tộc được thể hiện khá rõ nét xuyên suốt bài thơ. Thể thơ lục bát, một thể thơ quen thuộc trong văn học dân gian đã được nhà thơ vận dụng rất thành công, giọng điệu tinh tế, mềm mại đã in sâu trong tâm trí mỗi người. Bài thơ còn chứa đựng khí chất của văn xuôi, được vận dụng linh hoạt sáng tạo, ẩn dụ, so sánh cũng góp phần tạo nên giọng điệu của cả bài thơ.

                  Thơ Việt Bắc không chỉ tái hiện không khí kháng chiến chống Pháp mà còn dẫn người đọc du hành xuyên thời gian, không gian để tìm về vẻ đẹp trong lòng người: vẻ đẹp của trái tim, vẻ đẹp của lòng trung thành, vẻ đẹp của đoàn kết.trách nhiệm của nhân dân. Cũng chính từ đó, ta thấy được tài năng và khả năng đồng cảm trước vẻ đẹp của thiên nhiên và sự đồng cảm tinh tế của con người Việt Nam. Để có được điều này, ông đã trải qua một thời gian dài sống cùng người dân, hòa nhập với môi trường thiên nhiên núi rừng Việt Nam.

                  Bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu, cũng như những bài thơ cùng thời, cùng chủ đề như “Đồng chí bên hữu” của Phạm Tiến Duật và những bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật, đã góp phần rất lớn vào chủ đề này. Thơ ca cách mạng không chỉ có chức năng cổ vũ tinh thần người chiến sĩ mà còn phản ánh một thời đại vẻ vang của dân tộc, làm cho thế hệ sau mãi mãi tự hào.

                  Bài văn mẫu 3 – Sơ đồ tư duy Việt Nam

                  Năm 1954, cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi, hòa bình lập lại. Chủ tịch Hồ Chí Minh, Ban Chấp hành Trung ương Đảng, các đồng chí cán bộ, chiến sĩ rời Việt Nam trở về thủ đô Hà Nội. Trong không khí lưu luyến chia tay giữa nhân dân Việt Nam với các cán bộ cách mạng, nhà thơ Du You đã viết bài thơ “Việt Bắc”. Dưới góc nhìn của một nhà thơ, nhà tư tưởng, người bạn cách mạng, nó phản ánh sâu sắc hiện thực 15 năm kháng chiến của Việt Nam, đồng thời dự báo sự phát triển tư tưởng trong thời bình.

                  Đoạn trích trong bài thơ “Việt Bắc”, diễn tả nỗi nhớ nhung chia ly của Việt Bắc và cán bộ kháng Nhật, gợi lại những ký ức hào hùng và đau buồn trong cuộc kháng chiến chống Nhật. Tác giả đã chọn thể thơ lục bát, song ca trong ca dao để hình dung người Việt Bắc và cán bộ kháng Nhật là ta. Cuộc chia ly của những người dân Việt Nam với những người chiến sĩ cách mạng cũng giống như cuộc chia tay của một đôi tình nhân đầy khắc khoải, nhớ nhung, nhớ nhung.

                  Nó bắt đầu bằng từ Việt Nam. Để Việt Bắc—người ở lại nói trước là điều rất tế nhị, vì khi chia tay, người ở lại thường áy náy với người ra đi:

                  “Khi em đi về anh có nhớ 15 năm yêu em không? Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn có còn nhớ không?”

                  Bài thơ “Việt Bắc” có hai chủ đề chính. Câu thơ mở đầu “Em ơi em nhớ anh” là chủ đề chính thứ nhất. Bài thơ tôi vừa đọc dường như không có ý nghĩa sâu sắc. Hàng trăm cặp đôi đã chia tay cũng vậy. Yếu tố mượn màu yêu thương để thể hiện tình cảm cách mạng. Đại từ ta và ta đứng ở hai đầu câu thơ, ta thấy xa vời vợi. Từ “nhớ” được lặp lại ba lần tạo nên âm hưởng chủ đạo của cả bài thơ: nỗi nhớ, nỗi nhớ triền miên, ân tình, tri ân. Người trở về im lặng trước những vấn đề nặng nề và đầy ý nghĩa của Việt Nam:

                  “Hôm nay mình nói gì với nhau…”

                  Việt Nam hỏi lại:

                  “Khi em đi, anh có nhớ những ngày sông suối mưa, mây cuộn mây thong dong? Anh có nhớ chiến tranh lúa mặn, ân oán nặng nề?”

                  Hỏi người Việt Nam là cách nhà thơ hồi tưởng lại những năm tháng gian khổ của cuộc Kháng chiến. Chỉ một vài cảnh “mưa nước chảy, mây mù bao quanh” là khung cảnh u ám của núi rừng những ngày đầu kháng chiến chống Nhật. Ta đã cùng ta ăn vị đắng của “cơm mặn”, cùng nhau chiến đấu với kẻ thù chung của “giặc nặng”.

                  Vẫn là câu hỏi từ Việt Nam, nhưng bài thơ đã lay động:

                  “Anh về, núi rừng nhớ mai rụng, mai già. Anh đi, nhớ lau sậy úa, tô son”

                  Phép tu từ nhân hóa “nỗi nhớ núi rừng” thể hiện tình cảm gia đình của người Bak ở Việt Nam đối với những người tham gia Kháng chiến. Khi tôi về, núi rừng Bắc Bộ vắng “đầy mơ rụng, mơ già”. Nhồi (nhồi xanh và nhồi đen) và quả mơ là hai món ăn hàng ngày của binh lính và sĩ quan kháng Nhật. Mượn nhiều hơn nói nợ là tốt! Sự đối lập giữa hình thức bên ngoài (sầu xám xịt) và tấm lòng (sâu trong lòng son) thể hiện hiện thực cuộc sống của người dân Việt Nam tuy bần hàn, nhưng sâu thẳm, họ chân chất với lối sống của mình. Internet.

                  Cuối câu, việt bắc hỏi người ta về:

                  “Anh đi rồi, em còn nhớ anh tân niên, Hồng Tài, mái đình bên gốc đa?”

                  Chủ đề chính thứ hai của bài thơ xuất hiện: “Ta đi ta nhớ ta”. Nếu chủ đề thứ nhất là đạo lý dân tộc với lòng biết ơn thì chủ đề thứ hai là cách mạng. Việt Bắc nhắc người về không chỉ “nhớ anh” mà còn “nhớ em”, trong những lời thân thương không chỉ “nhớ anh” mà còn “nhớ em”. Các “bạn” với tôi. Bạn đã ở bên tôi mười lăm năm thật trìu mến và anh hùng biết bao! Chúng ta đã viết “tân tiêu, hồng thái, mái đình, cây đa” trên trang sử của các anh hùng dân tộc. Giờ mình chia tay nhau về lại thành phố nhớ đừng thay lòng đổi dạ về em chứ đừng nói đến mình nhé :

                  “Ta đi thành phố xa, núi có còn thấy không? Đông nhớ làng sáng đèn, trăng giữa rừng?”

                  Làm Việt thận trọng như vậy là cách tài tình của nhà thơ để đón đầu sự phát triển tư tưởng trong thời bình.

                  “Anh đi em nhớ anh”

                  Đây là câu hay nhất của bài thơ “Việt Bắc”, cũng là sáng tác tuyệt vời của Du. Cảm ơn vì tất cả những lời tốt đẹp khi chào đón Việt Nam, và bây giờ người mới đã lên tiếng. Lời người ta cũng thật lòng :

                  “Em với anh, anh với lòng, trước sau mặn nồng, anh sẽ ra đi, anh nhớ bao nhiêu nước non, bao nhiêu tình ta…”

                  Xem Thêm : Truyện cười Nhưng nó phải bằng hai mày

                  Hai đại từ ta – ta đã xoắn xuýt xoay vần “ta và ta, ta và ta” say đắm. Ý nghĩa không đủ rõ ràng, được hợp nhất thành một:

                  “Anh đi em nhớ anh”

                  (Trả lời câu hỏi: “Anh về có nhớ em không?”)

                  Ngôn ngữ của tình yêu là “bạn sẽ nhớ tôi khi bạn ra đi”. Nỗi nhớ người đi da diết, tình yêu con người Việt Nam vô bờ bến. Ai trả lời thế này chắc làm yên lòng người ở lại – viet bac.

                  Vì vậy, đây là một biến thể của giai điệu đã được hình thành và mở rộng đến vô tận. Tất nhiên, đây chỉ là cách để nhà thơ diễn tả mối quan hệ gắn bó giữa Việt Nam và cách mạng, diễn tả bản hùng ca kháng chiến giữa quân và dân Việt Nam.

                  Để xóa tan nghi ngờ của người ở lại, người về phải nói những lời ấm áp, sánh với tình cảm cao siêu nhất trên đời:

                  “Không gì bằng nghĩ đến người yêu, trăng treo đầu núi, nắng chiếu sau lưng”

                  Từ “nhớ” được lặp đi lặp lại, mỗi từ gợi lại biết bao kỷ niệm đẹp cho tôi và bạn. Chi tiết nhỏ đã được nhớ lại (chi tiết nhỏ trong tình yêu là chi tiết lớn).

                  “Thương nhau thì chia củ sắn, bưng bát cơm chung chăn”

                  Người Việt trở về dễ thương và đáng quý biết bao:

                  “Nắng mẹ vắng” Địu con ra đồng bẻ từng bắp ngô.

                  Tiếng còi trâu trong rừng chiều, tiếng chày bên suối đêm còn vang vọng trong lòng người ra đi:

                  <3

                  Xem Thêm: Ví Dụ Về Tập Tính Bảo Vệ Lãnh Thổ

                  Tóm lại, một người nhớ vẻ đẹp thơ ca và thiên nhiên hữu tình của Việt Nam (1); nhớ những con người Việt Nam giản dị, tình cảm và trung thành. Tiếng nói của một anh hùng. Tôi và cuộc kháng chiến anh dũng của tôi hiện lại trong ký ức của bạn:

                  “Nhớ giặc đến lấn rừng núi đá, ta cùng nhau tiến quân tây, xây làng sắt, bọc lính trong rừng, vây giặc trong rừng.”

                  Nhờ tác giả sử dụng phép nhân hóa mà thiên nhiên Việt Nam dường như cũng có linh hồn. Núi rừng Việt Bắc tươi đẹp đã trở thành hàng rào sắt che chở, chở che cho các đoàn quân đi “phát hiện” và “đánh” địch. Mỗi ngọn núi, mỗi dòng sông, mỗi con đường, mỗi tên làng đều là những chiến tích anh hùng của quân và dân Việt Bắc. Rồi đêm hành quân, dòng người tấp nập, đoàn xe tấp nập:

                  “Trên đường Việt Bắc của ta đêm ầm ầm như đất rung, tin trùng trùng ánh sao trên đầu súng mũ đỏ Nandan, đuốc dưới chân sỏi, lửa ngàn than hồng bay. Ngàn đêm sương thẳm, sáng như sáng.”

                  Tác giả sử dụng thể thơ trang trọng, thiêng liêng để bày tỏ nỗi nhớ trung ương – cố nhân. Hình ảnh Việt Nam trong ký ức của mọi người là quê hương cách mạng, căn cứ địa kháng chiến, là niềm tin và hy vọng của cả dân tộc.

                  Những người trở về cũng không quên trả lời những câu hỏi hóc búa của Việt Nam:

                  “Vừa về lại nhớ công điền Khang Đài, cây đa tan truân” (2)

                  (Trả lời câu hỏi “Tôi sẽ nhớ bạn nếu tôi đi”)

                  Nghĩa là những người trở về muốn nói với những người con đất Bắc rằng dù ở xa nhau, dù ở thành phố xa xôi nhưng những người của Cục kháng Nhật năm xưa vẫn giữ và phát huy những phẩm chất cao đẹp của người cán bộ cách mạng.

                  Như vậy với sự biến tấu của nhạc điệu thứ hai, tác giả đã kết thúc phần đầu của bài thơ “Việt Bắc”. Và chủ đề về lòng trung thành – trung thành với cách mạng, bài thơ “Việt Bắc” đạt đến chiều sâu ở phần đầu.

                  “Bei Yue” là tác phẩm tiêu biểu của Du Hu, đồng thời là tác phẩm tiêu biểu của thơ ca cách mạng và thơ ca kháng Nhật. Bài thơ này thể hiện nhiều tài năng của nhà thơ. Thể thơ lục bát thể hiện tình cảm, ý tưởng mới mẻ của tác giả nhưng vẫn đậm đà bản sắc dân tộc. Song ca tạo nên nhạc điệu phong phú cho bài thơ. Tác giả khéo léo sử dụng nhiều biện pháp tu từ. Ngôn ngữ trong sáng, giàu sắc thái, có nhiều nét cách tân (đặc biệt là hai đại từ ta-tôi). Tiếng thương – một nét riêng trong phong cách thơ Tố Hữu – không bài nào da diết hơn bài “Việt Bắc”. Bài thơ còn thể hiện những lời tiên tri rõ ràng bằng những hình ảnh giàu hình ảnh, thể hiện những tư tưởng mới, được phát trên băng nhạc gây xúc động lòng người.

                  Bài văn mẫu 4 – Sơ đồ tư duy Việt Nam

                  Thơ phải đúng, đó là thơ thể hiện khát vọng của dân tộc, thể hiện tâm hồn gắn bó sâu nặng của nhân dân với sự nghiệp cách mạng, với Tổ quốc, với Tổ quốc. Trong những bài thơ đó, chúng ta gặp những tình cảm sâu lắng, trữ tình, nảy sinh từ một trái tim trung thành với đất nước và con người, tiêu biểu là Thơ Việt Bắc, một trong những bài thơ nổi tiếng nhất thế giới. Tốt nhất của các yếu tố.

                  Hu Shi (1920-2002), tên cũ là Ruan Weiqing, sinh ra ở xã Quảng Thủ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế, cái nôi của văn học dân gian. Toàn Hư là nhà thơ lớn, người tiên phong của nền thơ cách mạng Việt Nam, thơ ông luôn gắn liền với giai đoạn cách mạng của dân tộc. Phong cách thơ giàu chất trữ tình chính trị, hướng đến cái tôi chung của lẽ sống lớn, niềm xúc động lớn, niềm vui lớn, cái tôi trong thơ ông luôn đứng trước danh nghĩa của đảng, của cộng đồng dân tộc. mang đậm tính dân tộc.

                  Ngày 7-5-1954, chiến thắng Điện Biên Phủ chấn động địa cầu, mở ra một trang mới, một kỷ nguyên mới trong lịch sử nước ta. Sau khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết (7/1954), miền Bắc hoàn toàn giải phóng, Pháp rút quân. Tháng 10 năm 1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lệnh cho các cơ quan Trung ương Đảng và Chính phủ rời Việt Nam về thủ đô. Từ đây, những người chiến sĩ cách mạng tạm biệt núi rừng bạt ngàn, ngược xuôi hành quân, lật sang một trang mới của cách mạng quê hương Việt Bắc ra đời trong hoàn cảnh đặc biệt ấy.

                  Nhà thơ mở đầu bằng một giọng trữ tình nhẹ nhàng, thể hiện những suy nghĩ của mình đối với những người đã khuất.

                  “Ngoảnh lại nhớ mười lăm năm ấy. Ngoảnh lại chẳng phải nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn sao?”

                  Tác giả sử dụng cặp đại từ “ta ta” không phải nói đến tình nhân hay xưng hô giữa đôi trai gái mà là sự đáp lại của người cách mạng đối với nhân dân. Bắc Việt Nam. Lời nói đó không chỉ mang đậm màu sắc dân tộc mà còn thể hiện chất trữ tình chính trị sâu sắc trong bài thơ, như tiếng lòng lứa đôi trong tình yêu, thể hiện tình cảm gắn bó, ngậm ngùi, nhớ nhung sâu sắc giữa con người với nhau. “Mười lăm năm ấy đầy đam mê.” Loại hoài niệm này không chỉ có thời chống Pháp mà còn có cả thời chống Nhật, ví dụ điển hình là Khởi nghĩa Bắc Sơn (1940). Cuộc chiến đấu trường kỳ, gian khổ càng làm cho mối quan hệ giữa người chiến sĩ cách mạng và nhân dân Việt Nam thêm son sắt, mặn nồng, thắm thiết. Mười lăm năm, không dài cũng không ngắn, đủ để biến những suy nghĩ thành nỗi nhớ, không thể nào quên, như Chế Lan Văn đã viết “Khi tôi ở đất này chỉ là nơi ở/Khi tôi đi đất bỗng trở thành tâm hồn”. “Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?”, nhất là nỗi nhớ mang đậm chất núi rừng, phải yêu thương, bền bỉ, có tấm lòng chân thành mới có được tình cảm nồng nàn như vậy?

                  “Tiếng người bên sông xôn xao trong lòng, bước đi không yên, người chàm nói với nhau, nắm tay nhau, nói điều muốn nói hôm nay…”

                  Từ tưởng tượng “ai” tác động đến nhiều cảm xúc. “ai” ở đây có thể là người ra đi hoặc người ở lại. Từ “khẩn” được lấy từ từ “khẩn” khắc họa rõ nét hơn tâm trạng của kẻ ra đi và kẻ ở lại. một phần từ vùng đất của tình yêu. “chiếc áo chàm đưa chia ly” hình ảnh chiếc áo mang hơi hướng cổ điển, truyền thống thể hiện sự gắn bó, là hình ảnh hoán dụ của người dân Việt Bắc.Áo nâu giản dị, nhẹ nhàng thể hiện nét đẹp của con người Việt Nam . Tâm hồn cao đẹp, tâm hồn của con người, của núi rừng Tây Bắc đang tiễn đưa các chiến sĩ cách mạng. Câu “Tay trong tay, biết nói gì hôm nay…”, 3/4 khổ thơ như tạo nên một khoảng ngừng trong sự chia ly đau buồn, nhìn nhau mà nghẹn ngào, ngập ngừng không nói nên lời, và để cảm xúc lang thang. , Đi sâu vào tâm hồn và trở thành một ký ức khó quên.

                  “Khi em đi, anh có nhớ ngày suối mưa mây mù về, có nhớ ngày bưng bát cơm chấm muối chiến trận, bao mối thù truyền kiếp”. thế giới? Em về, núi rừng nhớ người xưa bỏ trái mơ.”

                  Sau mỗi câu “Em đi” và “Em về”, nhà thơ đã khéo léo đặt một dấu phẩy, đó là một khoảnh khắc, một khoảnh khắc đọng lại khiến bao kỉ niệm ùa về trong tâm trí. Những kí ức ấy ngự trị trong từng khoảnh khắc của “bầu trời” thời gian và “chiến khu” không gian. Những hình ảnh như “mưa xuân”, “mây sương”, “lúa muối” gợi lên sự gian khổ của những người cách mạng nơi núi rừng Việt Nam trong những ngày đầu kháng chiến. tình đoàn kết quân dân thêm thắm thiết. Biện pháp nhân hóa “Núi nhớ ai” như thổi vào núi rừng nỗi nhớ da diết, sâu lắng và từ “ai” chứa đựng nhiều tình cảm. Những cụm từ như “quả sắp rụng”, “quả mơ sắp già” thể hiện nỗi xót xa, sự lặng lẽ của những người cách mạng khi xuống núi khiến núi rừng Tây Bắc trở nên thất thường khi nhịp sống thay đổi đột ngột. , từ niềm vui mùa đông đến nỗi cô đơn. Sa mạc.

                  “Khi anh đi em có nhớ những túp lều lau sậy xám xịt đầy tấm lòng không? Em có nhớ núi non thời anh đánh Nhật, anh còn ở Việt Minh, có nhớ tan trao của em không, Hồng Tài, mái đình, cây đa?”

                  Nỗi nhớ nhung ấy được thể hiện rõ nét hơn qua từ “nhà”, nghệ thuật tương phản ở dòng “xương xám, thắm đỏ” khẳng định một chân lý càng gian khó càng đoàn kết quân dân và nhân dân lại càng đoàn kết nhất trí. Những người ở lại nhớ lại buổi đầu làm quen, những năm tháng kháng chiến chống Nhật, khiến tâm hồn người ra đi càng thêm khó quên. Sự xuất hiện lặp đi lặp lại của từ “ta” trong câu thơ “Anh đi anh nhớ em” làm ta liên tưởng đến câu ca dao “Dù ta với ta một thể” khẳng định sự gắn bó nồng cháy. Địa danh “Tấn Cháo, Hồng Tài, mái đình, cây đa?” rất quen thuộc với người đã khuất và người ở lại, gợi lại những ký ức xa xưa, hào hùng, sâu sắc và xúc động của người Việt. Mọi người. Chiến sĩ cách mạng và đồng bào Tây Bắc.

                  “Ta với ta, ta dùng tấm lòng, trước sau tưởng mình đi, ta nhớ bao ân tình cội nguồn… không gì bằng nhớ thương ta, trăng lên non đỉnh núi, nắng chiều sau lưng, nhớ từng làn khói, sương sớm, bếp lửa gia đình, nhớ từng cánh rừng bên bờ sông Thiên Hà, sông Lệ Hoa đầy.” /p>

                  Tiếp theo lối đối đáp “ta-ta”, cấu trúc “ta với ta, ta với ta” tạo nên một âm vang chân thành. Thôi nào, tôi là tôi, tôi là tôi. Dòng chữ “Lòng ta mãi mặn nồng” thể hiện lòng thủy chung son sắt của người cách mạng với non sông đất Việt, như một lời thề son sắt giữa đôi lứa. “Bao nhiêu nước là nguồn bao nhiêu tình…” Phép so sánh trong câu này đã nói lên một điều hết sức thiêng liêng và sâu sắc: lòng biết ơn của người Việt Nam thật trong sáng và đong đầy, không bao giờ cạn được. Như tình yêu dịu dàng của người mẹ dành cho đứa con của mình. Nhà thơ so sánh nỗi nhớ ở đây với nỗi nhớ người yêu, thể hiện tình cảm cách mạng, tình quân dân khiến mọi thứ trở nên thật hơn, ngọt ngào hơn. Cũng chính vì nỗi nhớ trong tình yêu là nỗi nhớ sâu sắc nhất, chân thành nhất.Từ nỗi nhớ ấy hiện lên một không gian rất thơ.Việt Nam là một không gian vô cùng thơ mộng.Những nỗi nhớ ấy cứ lan tỏa và quy luật mọi khoảnh khắc của thời gian, đêm và ngày. Hình ảnh “Đêm đầu tiên lửa tình trở về”. Gợi nhớ về miền Bắc Việt Nam chan chứa yêu thương, thiết tha và ấm áp. Câu “từng người một” cho ta cảm giác nhà thơ đang giở từng trang để nhớ, và người bạn liệt kê địa danh “Thiên Hà, Lệ Tây”, kết thúc bài thơ tròn hai tiếng, ngay tại đây. Đó không chỉ là một nơi, mà là một nơi chứa đầy kỷ niệm: biết bao đất nước, biết bao kỷ niệm, biết bao tình cảm ấm áp ngọt ngào.

                  “Đi mà nhớ những tháng ngày nay đây mai đó, đắng cay ngọt bùi… thương nhau chia củ sắn chia bát cơm, đắp chăn nhớ mẹ phơi nắng. cõng lũ trẻ trên cánh đồng, đập vỡ từng hạt ngô trong lớp, tờ báo của tôi và ngọn đuốc được thắp sáng trong bữa tiệc.

                  “Ta đi ta nhớ…” Câu văn này là lời bộc bạch, lời nhắn gửi chân thành của người ra đi với người ở lại, là lời tâm sự chân thành của người cách mạng với mảnh đất Việt Nam anh hùng, “Ta ở đây, tôi ở đây Ở đây “…” được kết hợp với “đắng cay, ngọt bùi” càng nhấn mạnh tình cảm. Con người “cùng nhau” thể hiện tình cảm đùm bọc, sẻ chia, tình quân dân gắn bó, sức mạnh đoàn kết làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy Nhà thơ đã miêu tả hình ảnh người mẹ “đem con ra đồng đập từng bắp ngô” là một hình ảnh đẹp gợi nhiều cảm xúc. hình ảnh, nhấn mạnh sự gian khổ của người mẹ. Chiến tranh. Tác giả sử dụng “đuổi theo những vì sao” như một sự hồi tưởng đầy cảm xúc, và phối hợp với các hoạt động trong Chiến khu Việt Nam: các lớp học, các bữa tiệc, Yamaguchi hát và thiết lập tâm trạng. Tràn ngập niềm vui của tình đoàn kết quân dân thể hiện tinh thần lạc quan cách mạng ấy, niềm tin cách mạng sẽ thắng lợi: Dù bom đạn chiến tranh, đau thương gian khổ quân dân vẫn đoàn kết chiến đấu. lạc quan Nhạc điệu của bài thơ giàu nhạc điệu, là khúc ca ca ngợi lẽ sống tốt đẹp, nghĩa tình còn ở trong lòng người cách mạng, ở núi rừng Bắc Bộ.Khổ thơ cuối kết thúc bằng tiếng con la , tiếng chày, tiếng suối xa. Lòng người.

                  “Anh về em có nhớ anh, anh nhớ hoa và người, rừng xanh hoa chuối đỏ tươi, đèo cao nắng thắt lưng. Mùa xuân hoa mơ trắng nở trong rừng nhớ người đan nón vò lụa trong rừng Em Thu Lâm hái măng một mình trăng lặng, nhớ ai câu chung tình.”

                  Bức tranh tứ bình trông thật đẹp, và câu hỏi tu từ “Về mình có nhớ em không” chứa đựng nhiều cảm xúc và là cái cớ để người ta bày tỏ niềm nhớ nhung, nhớ thương. Cấu trúc thành ngữ “hoa cũng là người”, trong tưởng nhớ người đã khuất, hoa là biểu tượng của thiên nhiên và là bức tranh thiên nhiên đẹp đẽ, thơ mộng. Mở đầu bức tranh là mùa đông ở Bắc Bộ, vào mùa đông những “hoa chuối đỏ tươi” điểm xuyết trên nền xanh bạt ngàn của núi rừng tạo nên một bức tranh vô cùng sinh động, nhiều màu sắc và tạo cảm giác ấm áp. Đất Việt Nam.

                  Người đàn ông xuất hiện trong vị trí của tác phẩm, rất đẹp và tráng lệ, người đàn ông dường như chiếm vị trí hàng đầu, hình ảnh được tạo nên bởi nghệ thuật chụp ảnh hội tụ ánh sáng. Mùa xuân đi cùng với khung cảnh “Rừng mơ trắng” thật thơ mộng, tạo nên một bức tranh đẹp lung linh, ấm áp và các nhân vật cũng trong tư thế lao động “bươn chải từng dấu sông”. Từ “chuốt” thể hiện sự chăm chỉ, kiên nhẫn, tỉ mỉ và khắc họa vẻ đẹp của con người Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Nhật. Tiếp đến là mùa hè sôi động, cảnh sắc thiên nhiên lại càng nhộn nhịp hơn với tiếng ve kêu râm ran khắp núi rừng, tràn ngập sắc vàng của rừng hổ phách. Hình ảnh “cô em gái hái măng một mình” thật đẹp và nên thơ. Bức tranh kết thúc là cảnh mùa thu, mùa thu thanh bình, mùa thu Cách mạng tháng Tám thành công, mùa thu năm 1954, tất cả đều tượng trưng cho một vầng trăng rất đẹp. Câu thơ “Nhớ ai khúc tình chung thủy” vừa kết thúc cảnh tứ tuyệt về cảnh và người Việt Nam, đồng thời cũng kết thúc khúc tình ca hào hùng về Kháng chiến.

                  Trong ký ức của người ra đi và người ở lại, chúng ta phải nhắc đến những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống Nhật, khi “giặc đến ta đi”, từ “truy” cho thấy đội quân nguy hiểm, kẻ thù. “Núi núi rừng núi ta cùng tiến về tây” và “Thiên hạ vạn vật một lòng chiến đấu” thể hiện tình yêu sâu nặng giữa thiên nhiên và con người trong cuộc kháng chiến chống Nhật. Ở đây, thiên nhiên đã trở thành một sự hiện hữu có linh hồn, canh gác cho quân vây giặc, hình ảnh “núi chồng vách sắt” kết hợp với cấu trúc tầng lớp “rừng che quân, rừng vây giặc” thật đầy hấp dẫn và giúp thể hiện sức mạnh của đất nước, một lực lượng không thể phá hủy. Từ “nhớ” kết hợp với “nhớ từ này” và “nhớ về” những địa danh liên quan đến công lao ấy, tất cả cho ta một cảm giác hoài niệm chạy dài khắp Chiến khu Việt Nam. Giọng thơ hùng tráng, hình ảnh thơ sinh động và việc sử dụng các biện pháp tu từ giúp nhà thơ khẳng định sức mạnh của dân tộc, đồng thời bày tỏ nỗi nhớ da diết, lòng biết ơn đối với Đại Sơn. Rừng Việt Bắc thắm đượm nghĩa tình.

                  “Con đường Beiyue của chúng tôi trong đêm ầm ầm như mặt đất rung chuyển, tin tức trùng trùng với súng và sao, mũ đỏ của công dân Nandan, một đội giẫm trên sỏi, hàng ngàn than bay. Hàng ngàn đêm dày đặc đèn pha sương Thắp lên như ngày mai Tin vui trăm huyện Chiến Thắng, Tây Bắc, Điện Biên Vui từ Chùa Đông, An Khai Vệ về Việt Bắc, ngang qua, núi hồng.”

                  Câu thơ “Đường Việt Nam ta đi” thể hiện tình cảm gắn bó sâu nặng của mảnh đất Việt Bắc, của chiến khu Việt Bắc và của người dân với Tổ quốc, bởi đây là quê hương của cách mạng, là trái tim của cả nước. Kháng chiến chống Pháp. Biện pháp tu từ “kinh thiên động địa” kết hợp với hình ảnh “vạn quân đồng loạt ra trận” cho thấy sức mạnh của đoàn quân nơi tiền tuyến. .và anh hùng.

                  Câu thơ “Gun Xing đội mũ” kết hợp ẩn dụ, nhân cách hóa và hoán dụ.” và “Gun Wentian” trong thơ Quảng Đông đều thể hiện tầm cao của người lính, là một hình ảnh đẹp và giàu chất thơ. Hình ảnh đoàn quần chúng hùng hậu, đông đảo “đoàn đuốc đỏ”, “hòn đá tảng” gợi nhớ thành ngữ “chân cứng, đá mềm”, khẳng định sức mạnh, sự rắn rỏi, bền bỉ của trẻ thơ. Chiến tranh Việt Nam trước cơn bão. Trong đêm đen chiến tranh, quân và dân ta luôn hướng về ngày mai, luôn có niềm tin vững chắc ngày mai nhất định thắng lợi. Cuối cùng thì tin vui cũng đã lan đi khắp cả nước, những người lính đã trở về Hà Nội, về với miền xuôi nhưng với bao kỷ niệm, bao yêu thương và niềm vui chiến thắng trong lòng. Chiến tranh đã chấm dứt.

                  “Còn ai nhớ? Lá cờ đỏ thắm hướng gió, cửa hang gió thổi. Giữa trưa nắng chói giữa ngôi sao vàng, trong phủ thảo luận chính sự. Vào thu và mùa đông ra quân ở nông thôn, giao thông thông suốt, đê điều được canh giữ, như thu hoạch lúa đưa dao về miền ngược, đắp thêm trường học… …mặt tối của quân thù, hãy nhìn lên Về Bắc Việt: nơi đau thương, nòi giống hướng về Bắc Việt giữ vững ý chí Mười lăm năm ai quên quê hương cách mạng đã thành lập Nên khi về nước tôi lại nhớ nhà công đỏ cây đa mới cây đa.

                  Khổ cuối của đoạn trích là cảnh đất nước Việt Nam sau chiến thắng Điện Biên Phủ, khắp nơi hân hoan trong màu cờ đỏ sao vàng rực rỡ tươi vui. Trung ương Đảng và chính phủ thu xếp trở lại Bắc Kinh, trong không khí sôi nổi khi Đảng và nước “gác đê gặt lúa/ Đưa dao sang miền ngược, miền thêm trường học…” . Đồng thời, bài thơ này cũng là lời tri ân đến những công lao to lớn của Bác Hồ kính yêu, là lòng biết ơn sâu sắc đối với núi rừng Việt Nam thân yêu, dù mai sau về lại thủ đô nhưng Người vẫn ở trong trái tim của Người. chiến sĩ cách mạng. Mạng luôn dành một góc cho đất nước Việt Nam trong trái tim mình, như “mái nhà quan Hồng Thái, cây đa xoan đào”.

                  Toàn bộ tuyển tập như một bản nhạc nhịp nhàng, tình cảm, ngân vang những bản tình ca, bản hùng ca về thời chống Pháp, chống Nhật anh dũng của nhân dân ta. Qua bài ca đẹp đẽ mà hào hùng, nhà thơ đã bày tỏ tình cảm chân thành của mình với núi rừng Bắc Bộ, ca ngợi tình đồng chí, tình đồng bào. Qua đó, tác giả cũng nhắc nhở người đọc đừng quên những trang sử hào hùng của dân tộc, những trang sử đẫm máu và nước mắt, những trang sử thắm đượm nghĩa tình cách mạng và lòng yêu nước sâu sắc.

                  Bài văn mẫu 5 – Sơ đồ tư duy Việt Nam

                  Nhà thơ lớn của nền văn học Việt Nam với tinh thần thi ca dân tộc. Có thể nói, các tác phẩm của ông không chỉ thể hiện tư tưởng, nguyên tắc sống của ông mà chúng ta còn thấy được từ đó những sự kiện trọng đại của cách mạng nước nhà.

                  Tháng 10 năm 1954, sau chiến thắng Điện Biên Phủ, quân đội ta phải chuyển quân từ Thủ đô vào đoạn tuyệt với Chiến khu Việt Nam. Những ai đang yêu nhau không khỏi cảm nhận được tình cảm quân dân trong 15 năm kháng chiến chống Nhật. Nhân dịp này, với cảm nghĩ này, ông đã viết một bài thơ về Việt Nam.

                  Đoạn thơ mở đầu Việt Bắc là lời tiễn biệt người kháng chiến và đồng bào nơi đây:

                  <3

                  Tám câu đầu là khung cảnh và tâm trạng lúc chia tay. Lúc nào cũng vậy “Ta ở chỉ là nơi ở/Khi ta đi, đất trở thành tâm hồn”. Sau bao nhiêu năm cùng chung sống trên mảnh đất Việt Nam, giữa tình quân dân nồng hậu, giờ đây những người lính phải ra đi. Mảnh đất gắn bó nay phải tách ra. Vợ chồng gọi nhau là ta, thể hiện mối quan hệ gia đình giữa chính quyền và nhân dân.

                  Giới thiệu về Hội gia sư Đà NẵngTrung tâm gia sư Family

                  Chúng tôi tư vấn miễn phí cho phụ huynh thuê gia sư dạy kèm tại nhà ở Đà Nẵng. Chúng tôi luôn đặt chất lượng giảng dạy lên hàng đầu và giới thiệu gia sư uy tín dạy các môn học. , Từ lớp 1, lớp 2, lớp 3, luyện thi vào lớp 10, luyện thi đại học Phụ huynh không phải quá lo lắng về địa chỉ Hội Gia Sư Đà Nẵng xa nhà. Trong danh sách sinh viên đi làm gia sư, bất cứ lúc nào chúng tôi cũng có hàng trăm gia sư đáp ứng các điều kiện sau:

                  • Để thuận tiện cho việc dạy kèm, ở khu vực gần nhà phụ huynh
                  • Đáp ứng các yêu cầu của phụ huynh về giới tính, kỹ năng, kinh nghiệm và chuyên môn
                  • Người hướng dẫn vui vẻ, nhiệt tình, thân thiện.
                  • Tìm gia sư cho học sinh dài hạn dựa trên yêu cầu của phụ huynh.
                  • Hội Gia Sư Đà Nẵng tự hào là trung tâm gia sư nổi tiếng được quý phụ huynh và gia sư yêu thích

                    Phụ huynh được tư vấn, thuê gia sư miễn phí, giới thiệu gia sư nhiệt tình, hiệu quả. Điện thoại: 0934490995 Địa chỉ: 159 yên g.page/hoigiasudanang

                    Tư vấn Gia đình Đà Nẵng

Nguồn: https://anhvufood.vn
Danh mục: Giáo Dục