Top 11 bài phân tích đoạn 3 Tây Tiến hay chọn lọc

đoạn 3 tây tiến

đoạn 3 tây tiến

Video đoạn 3 tây tiến

Phân tích đoạn 3 của phương TâyBài viết dưới đây do người bảo vệ quyền chia sẻ, gồm đoạn 3 của dàn ý phân tích phương Tây, đoạn 3 là phân tích ngắn gọn, phân tích về sự tiến bộ của phương Tây và phân tích đoạn thứ ba học sinh giỏi, phương Tây Phân tích đoạn thứ ba, nâng cao… sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích cho các em học sinh khi học tập tác phẩm phương Tây, giúp các em nắm được cách phân tích tác phẩm phương Tây. Văn bản phương Tây của Quảng Đông rất chi tiết.

Bạn Đang Xem: Top 11 bài phân tích đoạn 3 Tây Tiến hay chọn lọc

  • 4 món ăn ngon nhất miền Tây với 3 bài đánh giá
  • phân tích top 6 phương tây của quang dũng
  • 8 bình luận đầu tiên của tuyển tập thơ ca phương Tây
  • Phân tích top 10 bài báo có hình ảnh lính Tây chọn lọc
  • 10 bài phân tích Best Western của quang dũng
  • 27 siêu thẻ đầu tiên
  • Đoạn thứ hai top 9 phương Tây hay phân tích chọn lọc
  • 5 bài đánh giá hàng đầu cho Best Western Đoạn 3
  • Đoạn thơ Tây Tây thứ ba là bức chân dung tự họa của người lính Tây Phương phóng khoáng, lãng mạn và kiêu sa. Dù khó khăn, gian khổ nhưng ta vẫn thấy được tinh thần, ý chí quyết tâm của những người lính miền Tây luôn tràn đầy tự tin, quyết tâm trong những năm tháng khó khăn. Có thể nói “Tây du ký” là một khúc quân ca lớn được ghi vào lịch sử thơ ca dân tộc. Sau đây là tuyển tập chi tiết các bài văn mẫu về bài văn hay của học sinh tiểu học miền Tây, mời các em tham khảo.

    Bạn được mời tham gia nhóm của mình Bạn có học được điều gì mới và hữu ích khi học với hoatieu không?

    1. Phân tích phác thảo phương Tây, Phần 3

    I. Lễ khai trương

    – Giới thiệu tác giả bài thơ Quảng Đông Tây

    -Giới thiệu vấn đề cần phân tích và trích đoạn thơ trên.

    Hai. Nội dung bài đăng

    1. Tổng quan

    -Hoàn cảnh sáng tác: Là bài thơ được tác giả viết sau khi rời đơn vị cũ. Cuối năm 1948, tại Lulu, Quảng Đông nhớ lại Tây quân và làm bài thơ về việc đi Tây.

    – Nội dung bài thơ: Là nỗi nhớ của tác giả về chiến trường, con người và thiên nhiên Tây Bắc.

    Vị trí trích dẫn: Là đoạn thứ ba trong mạch cảm xúc của cả bài thơ.

    Trích đoạn: Chân dung những người lính Tây Phương chết thảm.

    2. Nội dung cần phân tích

    – Chân dung: Chi tiết hiện thực khắc họa một diện mạo rất đặc sắc đồng thời phản ánh hiện thực gian khổ, thiếu thốn, bệnh tật nơi chiến trường. Tác giả không trốn tránh hiện thực, điều đó thể hiện lòng yêu nước, căm thù giặc Tây mãnh liệt của các chiến sĩ.

    – Tâm hồn phóng đại, lãng mạn và hào hùng: Từ những vần thơ “cay đắng dữ dội” và “ngắm giấc mơ” ta thấy được lòng dũng cảm, ý chí kiên cường của những người lính miền Tây.

    Lí tưởng cao đẹp: không trốn chạy hiện thực “Áo ảnh nước nhà”, tác giả miêu tả sự hi sinh của những người lính với một thái độ thanh thản, thầm lặng và cao cả, thật cảm động và tự nhiên. 3. nghệ thuật

    – Nét bút hiện thực khắc họa chân dung người chiến sĩ, miêu tả hiện thực khắc nghiệt của chiến trường; sử dụng ngôn ngữ Hán Việt cổ để tăng thêm sự kính trọng, thành kính đối với người đã khuất; thể hiện nhẹ nhàng lý tưởng cao cả của người chiến sĩ nơi chiến trường, miêu tả sự hi sinh, nhấn mạnh chiến trường Tổn thất trên

    – Nhận xét: Với giọng thơ trang trọng, có lúc trầm lắng, chan chứa tình cảm, hình ảnh người lính Tây Tiến hiện lên với vẻ đẹp bi tráng, như một tượng đài quân sự bất tử, khắc sâu vào lòng người, không thể nào quên.

    Ba. Kết thúc

    Khẳng định và đánh giá đoạn kinh trên.

    Câu hỏi mở rộng: Hãy cho biết cảm nghĩ của em về hình ảnh người lính Tây Tiến trong khổ thơ cuối.

    2. Phân tích Sơ đồ Tư duy Đoạn 3 Đi về phía Tây

    Sơ đồ tư duy phân tích đoạn 3 Tây Tiến

    3. Phân tích ngắn gọn về lần mở rộng thứ ba về phía Tây

    quang dũng là một trong những nghệ sĩ đa năng nhất. Anh ấy có thể vẽ tranh, làm thơ và sáng tác nhạc. Thơ Quang dũng nổi bật với tâm hồn lãng mạn, hoành tráng, chan chứa tình yêu và tinh thần dân tộc. Bài thơ tay tiền là một trong những bài thơ bày tỏ tình cảm với quang dũng

    Lúc đầu, bài thơ này có tên là “Yi Xi”. Bỏ “nhớ” và giữ “tây tiến”, bởi Quang Dũng tin rằng bản thân bài thơ đã chứa đầy nỗi nhớ mà người đọc sẽ cảm nhận được. Bài thơ ra đời trong những năm tháng không thể nào quên, từ cuộc sống và môi trường chiến đấu không thể nào quên của người lính

    Bài thơ này được viết tại Thung Lũng Sông Chanh (miền Nam) năm 1948 khi ông chuyển sang đơn vị khác và nhớ lại đơn vị cũ là Bộ Đội Miền Tây. Đoạn thơ này thể hiện nỗi nhớ của tác giả về thiên nhiên Tây Bắc và đơn vị cũ. Trong tác phẩm, hình ảnh người lính miền Tây hiện lên rất rõ nét ở khổ thơ thứ ba:

    Đội quân không mọc lông… Hà mã gầm lên!

    Binh đoàn Miền Tây là đơn vị được thành lập từ năm 1947, hành quân về nơi lưu giữ những tư tưởng đẹp đẽ nhất của tuổi trẻ trong trái tim người dũng sĩ do Quang Dũng làm đại đội trưởng. Nhiệm vụ của đơn vị là hiệp đồng với bộ đội Lào bảo vệ biên giới Việt Lào. Các chiến sĩ trong đội chủ yếu là học sinh, sinh viên, công nhân thành thị thuộc mọi tầng lớp, tạo thành một đội quân rất đoàn kết. Cuộc sống nơi chiến trường gian khổ, thiếu thốn nhưng ở họ, phẩm chất của người lính luôn tỏa sáng với tinh thần lãng mạn, lạc quan, không quản ngại gian khổ. Hình ảnh những người lính Tây Phương hiện lên với một vẻ đẹp bi tráng:

    Tây chinh, quân không mọc tóc. Quân Thanh hung dữ, giương mắt đưa mộng qua biên ải. Đêm mơ Hà Nội người đẹp đẹp

    Hình ảnh “xõa tóc” gợi lên sự thật phũ phàng về sự sinh tồn và chiến đấu của những người lính Tây Tiến nhưng không làm mất đi khí chất hiên ngang. Hình ảnh “binh đoàn xanh” và nghệ thuật tương phản “quân xanh” trụi lông – “đáng sợ” gợi tả dáng vẻ xanh xao vì sốt rét nhưng trong sâu thẳm họ vẫn toát lên thần thái của loài hổ rừng. oai phong lẫm liệt thể hiện bản lĩnh dũng cảm của người lính.

    Sự uy nghiêm còn thể hiện qua đôi mắt. “Nhìn chằm chằm” là cái nhìn quyết liệt, hừng hực lòng căm thù, với ước mơ giết được kẻ thù. Họ dũng cảm, kiên cường, vẫn hiên ngang đứng trước họng súng quân thù nhưng vẻ đẹp lãng mạn vẫn còn rất rõ và in sâu trong tâm trí họ: “Đêm mơ Hà Nội đẹp người”, Quang dũng không tiếc lời . , Nói về vẻ đẹp của người con gái Hà Nội, ông dùng những từ rất trang trọng: dưới vẻ ngoài uy nghiêm, dữ dội là trái tim, tâm hồn khát khao sống:

    Tránh xa chiến trường bên nấm mồ đừng tiếc tuổi thanh xuân. Quần áo không phản ánh sự trở lại của đất, Ma Anh hát và gầm

    Là đoạn thơ thể hiện sâu sắc vẻ đẹp của sự hy sinh của người lính. Từ Hán Việt “biên giới, mộ xa” cổ kính, trang trọng tạo nên không khí trang trọng, giọng điệu hào hùng làm loãng đi hình ảnh những nấm mồ liệt quân hoang vắng nơi biên cương. Vẻ đẹp bi tráng còn thể hiện ở chí khí của người lính, ở lí tưởng lãng mạn của người anh hùng, coi cái chết là nhà, quyết chí phụng sự Tổ quốc:

    Chạy ra chiến trường không tiếc thanh niên mặc áo bào đi sau lưng, hà mã gầm thét độc tấu

    Từ láy “áo bào” thường gợi vẻ đẹp bi tráng của sự hy sinh: biến cái chết của người đồng đội giữa sa trường thành một sự hy sinh vô cùng trang nghiêm của người anh hùng chiến đấu. Câu nói tắt: “Anh về đất liền” làm vơi đi nỗi đau trước cái chết của người lính Tây. Từ ngữ phóng đại: “Mã Giang độc tấu gầm vang”, có nghĩa là thiên nhiên đã tấu lên một khúc Tây ca hùng tráng để cử binh. Người lính Tây tiến đi nhạc muôn đời.

    Bài thơ đã khắc họa người lính từ ngoài vào trong với những đường nét bi tráng, đặc biệt là nét hào hoa, lãng mạn mà không chút lưu luyến. Những con người tạo nên vẻ đẹp của thời đại. Họ có những phẩm chất chung của những người lính vĩ đại.

    Bài thơ này là một khúc ca bi tráng và lãng mạn miêu tả hình ảnh người lính Tây Tiến những ngày đầu kháng chiến chống Pháp. Tuy vất vả, khó khăn nhưng không mất đi khí chất hào hùng, lãng mạn.

    4. Phân tích đoạn thứ ba nâng cao của phương Tây

    quang dung (1921-1988) là một nghệ sĩ đa năng, có hồn thơ tự do, giàu tình cảm, lãng mạn và tài hoa, đặc biệt là ở những miêu tả về người lính Tây và quê hương xứ đoài. Trong số các tác phẩm của ông, “Tây Du Ký” là bài thơ hay nhất, tiêu biểu cho đời thơ và phong cách sáng tác của ông. Bài thơ được viết theo phong cách lãng mạn, sự sáng tạo về hình ảnh, ngôn ngữ, giọng điệu đều bộc lộ nỗi nhớ da diết của tác giả đối với những người lính miền Tây anh hùng và núi rừng miền Tây. Có thể nói, nỗi nhớ đồng đội ở miền Tây sâu sắc của Quang Dũng được chất chứa trong 8 bài thơ về chân dung người lính miền Tây:

    “Quân đội phương Tây không mọc tóc

    Đội quân xanh hùng mạnh

    Mắt sáng gửi ước mơ qua biên giới

    Xem Thêm: Hiệu ứng ASMR là gì? Những lợi ích của ASMR bạn cần biết

    Một đêm Hà Nội mộng đẹp và thơm

    Xem Thêm : [GIẢI ĐÁP] 1 lít dầu ăn nặng bao nhiêu kg? – Đời sống ba miền

    Biên giới xa xôi

    Sống xanh không tiếc chiến trường

    Chiếc áo choàng sẽ đưa bạn trở lại trái đất

    Ma He hót vang”

    Thơ Tây được đăng trong tuyển tập thơ “Chiếc ô đầu mây” (xuất bản năm 1986) nhưng trước đó đã được bạn thơ nhiều thế hệ tìm đọc. Bài thơ này được tác giả sáng tác tại Làng vôi đá bọt khi rời Tây quân năm 1948 để vào bộ đội chiến đấu. Binh đoàn Tây tiến được thành lập năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới Việt Lào, đánh thắng quân Pháp ở Thượng Lào và Tây Bắc Việt Nam. Phạm vi hoạt động của quân Tây rất rộng, lính Tây đa phần là thanh niên Hà Nội, nhiều bạn là sinh viên, trong đó có Quảng Đông. Các anh đã sống và chiến đấu trong hoàn cảnh gian khổ, đói nghèo, sốt rét nhưng các anh vẫn lạc quan, chiến đấu dũng cảm. Sau hơn một năm chiến đấu, đoàn quân di cư về phía tây đã bình yên trở lại, đoàn 52 được thành lập, ban đầu nhà thơ đặt tên tác phẩm là “Hoài Tây”, sau đổi thành “Tây Dương”. Bài thơ này viết dựa trên nỗi nhớ của Quảng Đông, những hồi ức và kỉ niệm về đơn vị cũ. Vì vậy cả bài thơ là một nỗi nhớ da diết, chân thành.

    Cả bài thơ chia làm 4 đoạn. Đoạn đầu bộc lộ nỗi nhớ đoàn quân viễn chinh gian khổ và khung cảnh thiên nhiên miền tây hoang sơ, hùng vĩ, hoang sơ. Đoạn hai kể về những kỉ niệm đẹp đẽ của quân dân trong đêm hội và cảnh sắc thơ mộng của sông Tây Giang. Đoạn thứ ba tái hiện hình ảnh đoàn quân hành quân về phía Tây. Đoạn thứ tư là lời thề gắn bó với Xixi. Cả bài thơ in đậm dấu ấn tài hoa, lãng mạn và đậm đà của hồn thơ Quảng Đông. Bằng tài năng và tâm hồn ấy, Quảng Đông đã xây dựng thành công hình tượng người lính miền Tây lãng mạn, bi tráng trên nền thiên nhiên hùng vĩ, dữ dội và tươi đẹp của núi rừng miền Tây.

    Nhớ tây, Quang Dũng không chỉ nhớ núi rừng, mà còn nhớ đồng đội vượt đèo, vượt sông Shexi, trải qua bao gian khổ, trải qua sinh tử. Các nhà thơ nhớ lại và vẽ lại chân dung của họ với vẻ đẹp bi thảm. Quang Dũng đã chọn lọc những nét tiêu biểu nhất của những người lính Tây tiến, dựng nên một tượng đài tập thể, tổng kết diện mạo của toàn quân. Người lính ấy đã sống trong điều kiện sống và chiến đấu khắc nghiệt. nên:

    “Quân đội phương Tây không mọc tóc

    Đội quân xanh hùng mạnh”

    Hai câu thơ nói lên thực trạng người lính thường xuyên mắc phải những căn bệnh sốt rét hiểm nghèo. Nhà thơ chính trực cũng đã đề cập đến căn bệnh này trong bài Đồng chí: “Tôi và anh đều biết nóng lạnh, mồ hôi vã ra, trán lấm tấm”. Vinh quang trong bài thơ không giấu được gian khổ, gian khổ, căn bệnh quái ác và sự hy sinh cao cả của những người lính Tây Tiến, mà nhìn hiện thực phũ phàng qua tâm hồn lãng mạn. Những cái đầu cạo trọc để chiến đấu tay đôi, những cái đầu trụi tóc, những người lính với khuôn mặt nhợt nhạt, khát nước và sốt rét, dưới cái nhìn của ánh sáng, trở nên oai phong, hung dữ, hung dữ như hổ. Trong rừng thiêng. Những người lính ấy vừa oai hùng vừa nghĩa tình:

    “Mắt đẹp gửi mộng qua biên giới

    Trải qua một đêm mơ màng trong hương thơm tuyệt đẹp của Hà Nội.

    Trai Tây mở to mắt quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ nhưng vẫn nhường chỗ cho người đẹp Hà Nội, anh em, bạn gái quê. Bằng hình ảnh đa chiều, Quang Bạo đã khắc họa chân dung tinh thần lãng mạn, mơ mộng của người lính không chỉ ở hình thức bên ngoài, mà cả thế giới nội tâm.

    Trong chiến tranh, mất mát, hy sinh là điều không thể tránh khỏi. Quang dũng nói thẳng thực tế này:

    “Biên giới xa xôi và lăng mộ”

    Ra chiến trường không tiếc đời xanh.

    Từ Hán Việt cổ kính, trang trọng: sự kết hợp giữa “biên”, “mộ”, “xa”, “chiến trường” và “san” làm dịu đi yếu tố bi tráng, xoa dịu nỗi đau mất mát. Điều nổi bật là vẻ đẹp lãng mạn của những người lính Tây Tiến xả thân, xả thân vì lý tưởng của đất nước. Câu nói “Đời xanh không hối tiếc” hùng hồn khẳng định dáng vẻ hào hùng của những chàng trai miền Tây. Hai bài thơ:

    “Chiếc áo phản chiếu anh về với đất

    Ma He hót vang”

    Nó đề cập đến một sự thật bi thảm: trong mắt người Quảng Đông, những người lính phương Tây đã ngã xuống bên đường và liều mạng chiến đấu, khoác trên mình bộ áo bào lộng lẫy, xưa nay có vẻ oai hùng, coi cái chết như lông hồng. Câu nói “anh trở về Trung Quốc” đã cuốn đi nỗi buồn, bi kịch hoàn toàn chìm trong tiếng rống giận dữ của Mã He. Quang Dũng dùng âm thanh của dòng sông, âm thanh của thiên nhiên, tâm hồn Tây Bắc để nói lời tiễn biệt, tri ân và ca ngợi đồng đội của mình. Những câu thơ hùng tráng, hào hùng và hào hùng khiến cho sự hi sinh của người chiến sĩ không hề buồn mà mang đầy ý nghĩa bi tráng. Cả bài thơ kết thúc bằng bốn khổ thơ, nhịp điệu chậm rãi, âm điệu trầm buồn nhưng hồn thơ vẫn toát lên vẻ hào hùng. Quân đội Quảng Đông và Quân Tây đã đưa ra lời thề “linh hồn sẽ không trở lại” để thể hiện quyết tâm gắn bó với những năm tháng quân đội đã đi qua. Mùa xuân năm ấy đã trở thành khoảnh khắc ngàn đời có một không hai trong lịch sử. Lịch sử dân tộc sẽ không bao giờ lặp lại một thời mộng mơ, lãng mạn và hào hùng như thế trong một hoàn cảnh đầy khó khăn, gian khổ và ác liệt như thế.

    Đoạn thứ ba thể hiện niềm tiếc thương vô hạn của nhà thơ với chủ đề trang nghiêm, thể hiện lòng thành kính, ngưỡng mộ của nhà thơ đối với những người đồng đội đã hy sinh trong vòng tay. Với cảm hứng lãng mạn, nét bút sắc sảo, phóng khoáng, trên nền hiện thực khắc nghiệt, bài thơ đã khắc họa một bức chân dung tập thể đầy ấn tượng của những người lính Tây Nguyên. Qua bài thơ này, Quang Dũng đã thể hiện sâu sắc nỗi nhớ da diết, nỗi nhớ quê hương, nỗi nhớ đồng đội trong những năm tháng gian khổ nơi núi rừng miền Tây.

    Phân tích đoạn 3 Tây Tiến

    5. Phân tích 3 miền Tây – mẫu 1

    Thơ hay thường tạo được trong lòng người đọc những tình cảm thẩm mỹ đa dạng, thậm chí xoay quanh ngôn từ, hình ảnh, cảm xúc… Những bài thơ như thế đã gây ra không ít tranh cãi. Hơn nửa thế kỷ đã trôi qua, miền Tây không chỉ có chỗ đứng vững chắc mà còn tỏa ra sức sống kỳ diệu. Trong tâm thức nhà thơ, miền tây là miền yêu thương, miền ký ức, miền ký ức về những ngày chiến sĩ sống và chiến đấu trong quân ngũ, nhớ về núi rừng Tây Bắc hiểm trở mà hùng vĩ. Nó cũng đầy chất thơ, nhớ những năm tháng hành quân gian khổ, nhớ những kỷ niệm đẹp, nhớ thời ở quê ấm áp, nhớ tình quân dân…

    Nếu như ở hai đoạn đầu của bài thơ, người đọc gián tiếp tiếp xúc với hình ảnh người lính thì khổ thơ thứ ba lại trực tiếp khắc họa chân dung người lính Tây Tiến:

    Quân đâu mọc tóc… Ma He gầm lên, một mình hành quân.

    Khi đó, ngoài Quang Dũng còn có những gương mặt quen thuộc như bác sĩ Phạm ngọc khê, đại úy Trang, nhà thơ Trần Lê Văn. Họ đều là những người còn rất trẻ. Đoàn Tây chủ yếu là trí thức trẻ Hà Nội (các trường: sư phạm, Bưởi, Thăng Long, Phạm Lang…). Những gì họ mang vào chiến trường không chỉ là tinh thần “quyết tử vì nước, sống chết”, mà còn là sự hào hoa, phong nhã của người dân Trường An. Cuộc sống chiến đấu gian khổ, vất vả không ngăn được những người lính đi miền Tây vui tươi, tràn đầy năng lượng, yêu đời và theo đuổi ước mơ. Phẩm chất người Hoa thấm đẫm máu thịt, là người đa tài (thơ, họa, sáng tác…), từng là đại đội trưởng của một đại đội Tây quân nào đó là quang dũng. Rất thành công trong việc khắc họa những người lính miền tây, mang đến cho người đọc một hình ảnh thẩm mỹ về một người lính anh dũng nhưng rất hào hoa. Hình ảnh người lính trong thơ Quang Dũng cho ta thấy bóng dáng của những kẻ chinh phạt trong văn học xưa, hay những anh hùng liệt quốc dứt áo ra đi vô định.

    Thời chống Pháp, thơ quân đội chủ yếu viết về những người nông dân mặc quân phục, với vẻ đẹp bình dị, chân phương.

    Vậy thì các “đồng chí” của chính nghĩa và cá của Youguo đều mô tả những người lính là “chính hiệu”:

    Áo anh rách vai

    Quần của tôi có miếng vá

    Xem Thêm: Giải bài 32,33,34, 35,36,37, 38 trang 61, 62: Ôn tập chương 2 Toán

    chế nhạo

    Giày chân không.

    (đồng chí, công lý)

    Những người lính ở phía tây Quảng Đông có những đặc điểm và phong cách độc đáo của riêng họ. Quang Dũng đã dựng lên một tượng đài thi ca cho người lính Tây Phương bằng bút pháp lãng mạn và tinh thần bi tráng mở ra trên nền ký ức (hoài niệm).

    Đây là một bức chân dung dũng cảm và anh hùng:

    Đội quân không mọc tóc

    Đội quân xanh hùng mạnh

    Một số người cho rằng đây là hình ảnh cuối cùng của bản gốc. Ngược lại, cũng có người cho rằng những hình ảnh “đội quân cạo lông”, “tàn bạo” là không chân thực, thậm chí còn làm cho hình ảnh người lính chống Pháp trở nên “quái dị”. Điều này không phù hợp với đặc điểm của văn học Lãng mạn, chưa hiểu hết hiện thực của Kháng chiến. Trên thực tế, không chỉ có những người lính “ngụy quân như gió thổi lá cây” đánh Pháp và kháng chiến, thậm chí còn có cả những “cận vệ trọc đầu” nổi tiếng một thời cũng có những tác phẩm cảm hứng khác. Thư pháp lãng mạn.

    “Đội quân không tóc” là hình ảnh đội quân bị rụng hết tóc, do bị sốt rét rừng hoặc phải sống trong “rừng Thủy thần”; “Lục quân” là đội quân có nước da xanh như lá Lá – vốn là hậu quả của những trận sốt rét rừng rú vì gian khổ, thiếu thốn, tuy nhiên ở đội quân này vẫn toát lên khí chất “dữ dội”, tức là vẫn hung dữ như mãnh hổ giữa rừng xanh. Đây là một ẩn dụ anh hùng thời xưa chứ không phải “làm hỏng hình tượng người lính” như một số người vẫn nghĩ.

    Giọng thơ hào hùng càng nhấn mạnh sự oai phong, lẫm liệt của “quân quân”. Cách miêu tả chân dung của những người lính phương Tây khiến chúng ta nhớ đến một bài thơ của Fan Wulao ngày xưa, cũng mô tả một anh hùng có “tinh thần phương Đông”:

    đường hoàng sóc giang sơn ký thủ

    <3<3

    Nắm con trâu bằng ba vũ khí sắc bén.

    Vẻ đẹp của bài thơ nằm ở sự oai hùng, trang trọng của đoàn quân Tây tiến, một vẻ đẹp âm vang truyền thống và tinh thần thời đại, giữa sĩ phu xưa và người xưa. Chú He Bing hôm nay.

    Hai câu thơ tiếp theo miêu tả sinh động đời sống tinh thần của những người lính Tây Tiến:

    Mắt sáng gửi ước mơ qua biên giới

    Xem Thêm: Hiệu ứng ASMR là gì? Những lợi ích của ASMR bạn cần biết

    Một đêm Hà Nội mộng đẹp và thơm

    “Hai câu như một chiếc khóa, hai thế giới” (vũ quan phương), “Tôi thấy câu hát đơn ca của một chàng trai Hà Nội” (Đặng Anh Đào) vừa thẳng thắn vừa tự phụ. Hình ảnh “giận mở to mắt” thể hiện khí thế nồng nàn quyết tâm bảo vệ biên cương. Hình ảnh này cũng nói lên hoài bão, khát khao lập công và lòng căm thù giặc Tây Phương cháy bỏng của những người lính đánh Tây. Ngay cả trong cuộc sống chiến đấu gian khổ, những người lính vẫn để lại trong hồn mình những bức tranh nhẹ nhàng, dễ thương như “Đêm mơ Hà Nội, Mei Mei Da”.

    Chiến tranh tàn khốc, nhưng chiến tranh không thể lấy đi vẻ hào hoa của một cậu bé thành thị. Không gì có thể ngăn được khoảnh khắc mộng mơ trong tâm hồn người lính. Xưa nay, người ta gán cho phương Tây “ngã mộng”, “ngã sầu” vì những dòng chữ như vậy. Thực ra bài thơ này đã lột tả được vẻ đẹp tâm hồn của những người lính Tây Tiến rồi. Nguyễn Đình Thi cũng thể hiện rất thành công vẻ đẹp này trong bài thơ “Đất nước”:

    Đêm dài hành quân nóng bỏng

    Chợt xao xuyến trong mắt người tình.

    Khác với nỗi nhớ người lính trong thơ của các thi nhân như Nguyễn Đình, Quảng Dũng thể hiện tình cảm của người lính qua những giấc mơ khiến nỗi nhớ cũng lãng mạn như tâm hồn. Ước mơ nâng tầm tâm hồn con người. Thật sang trọng và hào hoa!

    Khi nói về chiến tranh, không thể nói đến người lính mà không nói đến cái chết. Quang dũng không trốn tránh, nhà thơ nói theo cách của mình:

    Xem Thêm : [GIẢI ĐÁP] 1 lít dầu ăn nặng bao nhiêu kg? – Đời sống ba miền

    Biên giới xa xôi

    Sống xanh không tiếc chiến trường

    Chiếc áo choàng sẽ đưa bạn trở lại trái đất

    <3

    “The Fantastic Singer” thể hiện phong cách anh hùng nhưng bi thảm. Nhà thơ mượn thể thơ cũ (ngâm ngâm chinh phục) nhưng tình cảm thì rất mới. Hai từ “mồ đất” gợi lên nỗi buồn thầm lặng – sự hy sinh thầm lặng của người chiến sĩ vô danh. “Xa đất” không vòng hoa, không nhang khói, hoang vắng lạnh lẽo, bức tranh chiến tranh sẽ trở nên u ám nếu nhìn nó một cách bi quan, nhưng mỗi khi chạm đến bi kịch, hồn thơ lại bừng sáng. Dưới sự nâng đỡ của đôi cánh lý tưởng, câu thơ sau như có một sức mạnh vô hình nâng bổng câu thơ trước. Tình nguyện, quãng đời thanh xuân tươi đẹp nhất của họ một khi cống hiến hết mình cho lý tưởng cao đẹp nhất, họ đã ngã xuống một cách thanh thản, không chút lưu luyến, không một chút luyến tiếc, và cái chết cũng “nhẹ tựa lông hồng”.

    Viết về chiến tranh, nhiều nhà thơ đã tránh cái chết. Quang dũng cảm đón nhận cái chết như một thực tế tất yếu của chiến tranh. Người lính chết trước con mắt thi ca vinh quang, trang trọng và không khoa trương. Những dòng bi tráng khẳng định phương châm sống của cả thế hệ cha ông ta trong những năm kháng chiến gian khổ: “Xây đời vì Tổ quốc”. ánh sáng .

    Hai câu sau tiếp tục nói về cái chết với giọng điệu hào hùng đó:

    Chiếc áo choàng sẽ đưa bạn trở lại trái đất

    <3

    Nhà thơ nói lên một sự thật đau lòng là những người lính chết trên đường đưa tang cũng như mất tích. Đôi mắt thơ dũng cảm treo trên đồng đội trong bộ áo dài sang trọng. “Ao Dai” là sự kết hợp của từ “áo vải” và “áo choàng chiến”, khiến cho “Ao Dai” vừa đơn giản vừa sang trọng. Theo Guangyong, đây là một cách nói, để “an ủi tâm hồn của những người lính”. Xuất phát điểm là tình bạn. Chính tình yêu ấy đã khiến hồn thơ hào hoa tìm đến một hình ảnh đẹp đẽ để làm “sang trọng hóa” cái chết của người lính. Một người lính đã ngã xuống trong chiếc áo choàng đỏ thẫm trong hào quang của một chiến binh cổ đại. “Chiếc áo choàng sẽ đưa bạn trở lại Trái đất”. Thơ có sức ngợi ca. Không có từ nào tốt hơn cho từ “đất” trong câu thơ này. “Đi Đất” không chỉ thể hiện sự hy sinh của người lính mà còn thể hiện sự trân trọng, yêu thương đối với những người đồng đội còn lại trong vòng tay. “Trở về với đất” cũng là để hòa vào hồn đất nước, bất tử với hồn sông núi, sống mãi với đất nước. Mahe đã chơi một bản “độc tấu” nồng nàn và oai hùng để tiễn đưa linh hồn người lính đang vô cùng đau buồn và được mọi người ngưỡng mộ. Những mất mát như chấn thương dồn nén dồn nén trong tiếng gầm rung chuyển núi rừng Mã Giang. Các anh đã hy sinh cho mảnh đất đầy thi ca, nhạc họa, cộng sinh với thiên nhiên, hồn các anh vẫn hát hành khúc.

    Nét đặc sắc của thể thơ này không chỉ ở thủ pháp đảo ngữ mà còn ở cách dùng từ, đặc biệt là cách dùng động từ. Nhà thơ vũ quan phương nhận xét “cảm hứng trong thơ quang dũng thường vang vọng ở động từ”. Động từ “gầm” trong bài thơ tạo nên âm hưởng vang vọng trong lòng người đọc như vang vọng cả núi rừng miền Tây, vang vọng rất lâu. Âm hưởng các động từ Hán Việt (biên giới, xa xứ, chiến trường, áo dài, hà mã, song ca). Nhà thơ đưa người đọc vào một không gian cổ kính, trang trọng. Tất cả những thủ pháp nghệ thuật ấy bộc lộ sự hài hòa giữa bi kịch và anh hùng, tạo nên bi kịch của những tượng đài oai hùng của người lính Tây Tiến.

    Đây là bài thơ cao trào trong toàn bộ Onion Solo. Phẩm chất bi tráng đã tạo nên một tượng đài độc đáo về người lính ở miền tây. Bài thơ đã kết thúc, nhưng với tiếng Mã He độc ​​ca, Xi-ta còn vang vọng núi rừng, vang vọng cùng năm tháng.

    6. Phân tích đoạn 3 bài thơ Tây – văn mẫu 2

    “Tây tiến” là bài thơ hay nhất của Quang Dũng, đồng thời cũng là một trong những bài thơ hay nhất viết về “Bác Hồ” trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Quang Dũng là nhà thơ, chiến sĩ vừa cầm súng giết giặc, vừa làm thơ. Thơ ông luôn mang đậm tinh thần chiến trường.

    Lâu ngày xa đơn vị, xa chiến hữu, nhà thơ viết bài thơ Tây du này vào năm 1948 tại một nơi bên dòng sông Đại Hà êm đềm. Cảm xúc chủ đạo của bài thơ này là nỗi nhớ và niềm tự hào về cuộc hành quân về phía Tây, sông Mã Giang và những ngọn núi xa xôi ở phía Tây. Nó như “chơi vơi” với bao kỉ niệm đẹp đẽ, xúc động của những năm tháng chiến tranh đầy gian khổ, hy sinh. Đây là khổ thơ thứ ba của bài “Tây Tiến”, khắc họa khí chất anh hùng và tâm hồn lãng mạn của người lính trong máu lửa:

    Đoàn quân tiến về tây mà tóc chưa mọc… Hà mã gầm rống đi một mình.

    Trên đường chiến đấu, vượt qua bao đèo dốc, đoàn quân Tây tiến hiện ra giữa rừng xanh, vừa tự hào vừa cảm động. Một chiến sĩ mặc áo giáp xanh màu lá rừng, da xanh tái vì sốt rét rừng, thiếu thuốc, thiếu ăn: “tóc chưa mọc”. “Tóc chưa mọc” là hình ảnh phản ánh sự tàn khốc của chiến trường:

    Đội quân không mọc tóc

    Đội quân xanh hùng mạnh

    Hình khối đơn giản, không cầu kỳ: “Lục quân”, “Tóc dài” và “Hùm xám” đối lập hoàn toàn, được chạm khắc khéo léo, thể hiện thần thái uy nghiêm, thần thái tròn trịa. Tinh thần chiến đấu của các chiến binh phương Tây từng khiến kẻ thù khiếp sợ. “Ra trận” là hình ảnh ẩn dụ, thể hiện tinh thần người lính được dũng sĩ xứ Quảng kế thừa và sáng tạo. Sát thế giới: “Tam quân, kiếm sáng trường thương” (trương hán siêu) Phản quân lam sơn với “tinh thần chiến đấu” Thái Bình ngô công”: “quân thiện nhặt tay hổ – nô nhặt vuốt nanh” ( thuốc cáo) dân tộc anh hùng Thời đại nào cũng có những chiến binh “khủng khiếp” và “bạo lực” như vậy trên tuyến đầu chống kẻ thù! Người Quảng Đông hào hoa đã viết một bài thơ rất hay: “Lục quân hung hãn”, sử dụng chữ “sheng” và “mộc” để làm nổi bật vẻ đẹp và lòng dũng cảm ẩn chứa trong tâm hồn.

    Khó khăn, hung dữ, khó khăn, bệnh tật… Vô vàn khó khăn, thử thách nhưng họ vẫn có những “ước mơ” và “ước mơ” thật đẹp:

    Mắt sáng gửi ước mơ qua biên giới

    Xem Thêm: Hiệu ứng ASMR là gì? Những lợi ích của ASMR bạn cần biết

    Một đêm Hà Nội mộng đẹp và thơm

    Những ước mơ và ước mơ được gửi về hai phía chân trời: biên giới và Hà Nội, nơi còn quân thù. “Lườm nguýt” – khắc họa sinh động sự dữ dội, uy nghiêm, tinh thần cảnh giác cao độ của người lính nơi khói lửa. “Ước mơ vượt biên” – ước mơ diệt giặc, bảo vệ biên cương, lập bao chiến công, tô thắm truyền thống anh hùng của Quân đội miền Tây, có một ước mơ đẹp. Học sinh, sinh viên, thanh niên Hà Nội “xếp bút cúi theo gươm”, đầy khí thế yêu nước, hào hùng: “Từ lúc cầm gươm giữ nước – Đất Thăng Long ngàn năm yêu Kính trọng” (huynh huynh art). Sống giữa núi rừng miền Tây gian khổ, ác liệt, bủa vây bởi chết chóc, sương khói nhưng anh vẫn mơ về Hà Nội. Làm sao quên được quán me, hàng sấu, phố cũ, trường cũ, “thân em may mắn”… Làm sao quên được tà áo dài trắng, thiếu nữ dễ thương, “hoa khôi thơm” đã từng hát hò hẹn hò. Hình ảnh “thanh niên xa xứ” trong thơ Quang Dũng gây nhiều thích thú cho người đọc: những từ ngữ này vốn có trong thơ Lãng mạn thời “tiền chiến”, nhưng lại trở nên trìu mến dưới ngòi bút của nhà thơ lính, miêu tả sự hào nhoáng, hào nhoáng. khí chất trẻ trung, lãng mạn của những người lính trẻ từng chiến đấu trong Tây quân.

    Nếu trong thơ chính nghĩa, người nông dân mặc áo lính thì nhớ “giếng nước cây đa”, mái đình, ruộng nương…; trong thơ Hồng Nguyên, nhớ cái “ thiếu nữ” – “canh mài thức khuya”, v.v…, người lính trong thơ Quảng Đông, nỗi nhớ gắn liền với “mộng” và “ước mộng”, ước mơ về hưu sau thành công, ước mơ về “mỹ nhân hương sắc”. Liên Luân trong bài thơ “Hoa sim dã quỳ” cũng viết rất hay về nỗi nhớ của những người lính chống Pháp:

    …từ chiến trường xa xôi

    Ghi nhớ sự sợ hãi

    Kết hôn thời chiến

    Quay lại

    Nếu em không quay lại

    Tôi chiều cô vợ bé nhỏ của mình…

    Quảng Đông viết về những “ước mơ”, “ước mơ” của những người lính phương Tây, ca ngợi tinh thần lạc quan của những người đồng đội trong vòng tay yêu đời, đó là điều mà nhà thơ đã phát hiện ra khi vẽ chân dung những “anh em nhà binh”. Bác Hồ sinh ra trong giai cấp tiểu tư sản trong thời kỳ chín năm chống Pháp.

    Bốn câu cuối là nét bổ sung, làm nổi bật chân dung người lính:

    Xem Thêm : [GIẢI ĐÁP] 1 lít dầu ăn nặng bao nhiêu kg? – Đời sống ba miền

    Biên giới xa xôi

    Sống xanh không tiếc chiến trường

    Chiếc áo choàng sẽ biến bạn trở lại đất liền,

    <3

    Trong cuộc chiến đấu gian khổ, nhiều đồng chí đã ngã xuống trên chiến trường miền Tây. Họ trụ lại dưới chân đèo. Ngôi mộ của những người lính “Sanbian”. Đoạn thơ này để lại cho chúng ta bao niềm cảm thương, biết ơn và tự hào:

    Xem Thêm : [GIẢI ĐÁP] 1 lít dầu ăn nặng bao nhiêu kg? – Đời sống ba miền

    Biên giới xa xôi

    Nếu tách câu thơ trên ra khỏi câu thơ, nó giống như một bức tranh lạnh lẽo, đìu hiu, hiu quạnh, gợi nhiều xót xa. Nhưng trong ngữ cảnh, hết vòng này đến vòng khác, câu tiếp theo: “Ra trận không tiếc đời trai” càng nâng cao tinh thần và tầm vóc của người lính. Anh ra trận vì một lý tưởng rất cao đẹp. Đó là lẽ sống của những người thanh niên, “Tuổi trẻ chưa nợ anh hùng…” Thanh niên sinh viên Hà Nội, họ nhập ngũ vì nghĩa lớn, họ quyết chí làm người, họ “quyết tử”. vì Tổ quốc, quyết góp phần “ra đời”. Chiến trường Câu thơ “Không tiếc đời xanh” vang lên như một lời thề thiêng liêng, cao cả. Hai anh em quyết bảo vệ nền độc lập, tự do của Tổ quốc bằng máu của mình, và đối mặt với khó khăn với quyết tâm sắt đá: “Thà hy sinh tất cả chứ không chịu mất Tổ quốc, quyết không chịu làm nô lệ. “quang dũng ghi lại cảnh tang thương giữa chiến trường miền Tây lúc bấy giờ.:

    Chiếc áo choàng sẽ đưa bạn trở lại trái đất

    <3

    Những chiến binh già giữa chiến trường, kiêu hãnh khoác trên mình tấm da ngựa. Người lính miền Tây hành quân với chiếc chiếu đơn sơ và mặc “bộ quần áo” giản dị ấy: “Anh về với đất”. Một cái chết nhẹ nhàng, thanh thản. Anh ấy đã ra trận và giết kẻ thù cho đất nước của mình. Anh đã ngã xuống: “Trở về nhân gian”, nằm trong vòng tay của quê hương thân yêu. Nhà thơ không dùng từ “chết” hay “hy sinh” mà dùng từ “về với đất” để ca ngợi sự hy sinh cao cả, giản dị, thầm lặng và thanh thản, nhẹ nhàng coi cái chết nhẹ như lông hồng. Người chiến binh phương Tây đã sống và chiến đấu cho đất nước của mình, chết cho đất nước của mình. “Anh Về” có tấm lòng chân chất của người lính, giọng Mã Anh “gào thét” núi rừng miền Tây như tiếng kèn trong bài “Gọi Hồn Tử Sĩ” gửi “Mã Giang Và Con Sói Cô Đơn Gầm Gừ” Chất thơ, vì gợi được không khí thiêng liêng, trang trọng, đồng thời tạo được âm điệu hào hùng, bi tráng. Phong cách ngôn ngữ của quang dũng rất độc đáo, ngoài những từ ngữ đời thường giản dị trong đời sống quân ngũ như: rơi xuống, không mọc tóc, trở về với đất, giao phối, rống… Còn có một số từ Hán Việt như: mộng, mơ ước. , biên ải , dáng kiều , phương xa , áo bào , đơn ca – bởi vậy cái giản dị thể hiện cái thiêng liêng, cái bình thường thể hiện cái anh hùng, cái vĩ đại. Màu sắc bi tráng và lãng mạn trong bài thơ lan tỏa trong không gian và dòng sông dài của lịch sử.

    Bài thơ miêu tả chân dung người lính trong “Tây Du Ký” là độc đáo nhất. Nhà thơ đã kết hợp khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn, vận dụng một cách sáng tạo trong miêu tả và bộc lộ cảm xúc, tạo nên những câu thơ “tình cảm”. Một người lính sinh ra dũng cảm và chết trong danh dự. Tây binh sẽ mãi là một tượng đài nghệ thuật bi tráng in sâu trong tâm hồn dân tộc.

    Vệ binh quốc gia của tôi

    Sao em yêu anh nhiều thế!

    7.Phân tích đoạn 3 bài thơ Tây – văn mẫu 3

    Có thể nói, nếu chọn ra năm tác giả tiêu biểu của văn học thời kỳ đầu chống Pháp thì có thể không quang dũng, nhưng nếu chọn ra năm bài thơ tiêu biểu thì nhất định phải nhắc đến họ và đứng hàng danh dự. Đọc về miền tây, ta sống lại những năm tháng huy hoàng của đội quân lừng danh đã được sử sách ghi lại, có thể quên vài câu thơ trong bài thơ, nhưng không thể quên hình ảnh của đội quân ấy:

    Đội quân không mọc tóc

    Đội quân xanh hùng mạnh

    Mắt sáng gửi ước mơ qua biên giới

    Xem Thêm: Hiệu ứng ASMR là gì? Những lợi ích của ASMR bạn cần biết

    Một đêm Hà Nội mộng đẹp và thơm

    Xem Thêm : [GIẢI ĐÁP] 1 lít dầu ăn nặng bao nhiêu kg? – Đời sống ba miền

    Biên giới xa xôi

    Sống xanh không tiếc chiến trường

    Chiếc áo choàng sẽ đưa bạn trở lại trái đất

    Ma He gầm lên!

    Nếu như ở khổ thơ đầu, hình ảnh đoàn quân mới được thể hiện bằng những nét gián tiếp – ám chỉ những gian khổ, hy sinh, địa bàn chiến đấu – thì ở đây hình ảnh đoàn quân ấy được thể hiện bằng những nét đứt. Vẽ cụ thể, mạnh mẽ và rõ ràng. Nó đã trở thành sáo rỗng khi nhắc đến bản lĩnh của những chiến binh. Ở đây, dường như chúng ta đã gặp một mô-típ như vậy:

    Đội quân không mọc tóc

    Đội quân xanh hùng mạnh

    Nhưng trước hết, đó là những bài thơ miêu tả hiện thực một cách trần trụi: Lính Tây thời ấy đánh giặc nơi núi hiểm, rừng thiêng nước độc, ít khi chết vì bệnh tật. Có nhiều bệnh, có suối gội đầu rụng tóc, dầu gội trị rụng tóc. “Quân xanh” ở đây có thể hiểu là những chiếc áo màu xanh, màu xanh rằn ri, da xanh do thiếu máu. Những hình ảnh rất thực đó, kết hợp với giọng điệu lãng mạn và cách diễn đạt Quảng Đông trong bài thơ, dường như mang một ý nghĩa tượng trưng và rất du dương. Mười bốn chữ thơ, đã khắc ghi vào lịch sử hình ảnh một đội quân phi thường, có một không hai, cả trong đời và trong thơ. Những chàng trai Hà Nội hào hùng, hào hoa “xuất trận” ngày ấy.

    Khó khăn, gian khổ là vậy nhưng những chiến binh miền Tây vẫn không nguôi được cảm xúc lãng mạn:

    Mắt sáng gửi ước mơ qua biên giới

    Một đêm Hà Nội đẹp như mơ.

    Những “ước mơ”, những “ước mơ” của người lính được gửi về hai phương trời: nơi biên cương, nơi còn bóng quân thù – ước mơ giết giặc lập công, và Hà Nội thân yêu quê hương – con số thân yêu trong mơ.. “Tương tưng”, đó là ánh sáng lóe lên trong kí ức, “lên án” tác phong quân tử. Nhưng với những người lính Tây, nỗi nhớ ấy chính là sự cân bằng, thư thái trong tâm hồn sau mỗi cuộc hành quân gian khổ, để họ không nản lòng. Thế nhưng, đã có lúc, câu thơ “lãng mạn và đẹp đẽ” này đã khiến chính tác giả và bài thơ bị “phong sương vùi dập”.

    Cổ nhân đánh với người đương thời – xưa đi đánh ít người về, Tây binh không tránh khỏi mất mát hy sinh.

    Xem Thêm : [GIẢI ĐÁP] 1 lít dầu ăn nặng bao nhiêu kg? – Đời sống ba miền

    Biên giới xa xôi

    Sống xanh không tiếc chiến trường

    Sau câu thơ chắc và đẹp, giọng điệu của câu thơ bỗng trở nên trầm bổng, trùng xuống khiến người đọc thấy rõ bản chất của sự vật. Đây dường như là một cảnh chuyển động chậm có chủ ý. Không có gì thiêng liêng và cao quý hơn sự hy sinh, chấp nhận gian khổ của người lính. Trong cuộc hành quân, những người lính miền Tây gặp rất nhiều “mồ đất” của những đứa trẻ “thất cư”. Nhưng những người lính mà chúng tôi thấy có đôi mắt bình thản vì họ đã chấp nhận điều đó. Một trong những động lực thôi thúc họ là hình ảnh người anh hùng da bọc ngựa mà họ có được trong văn chương, sách vở. Niềm đam mê thuần túy đan xen với sự lãng mạn.

    Hai câu thơ cuối tiếp tục mang âm hưởng bi tráng, làm nổi bật sự hy sinh mất mát, nhưng là cái chết cao cả, cái chết bất tử của người lính Tây Tiến.

    Chiếc áo choàng sẽ biến anh ta thành trái đất.

    <3

    Hai câu cuối tôi đọc tưởng như chỉ miêu tả và thông báo sứ mệnh một cách bình thường, nhưng lại có sức gợi rất lớn. Đâu đó, vẫn còn những giọt nước mắt đằng sau những con chữ. Hai câu thoại mạnh mẽ và sâu sắc về tình cảm, nhân ái. Làm sao bạn có thể dửng dưng trước cảnh “người ấy về”? “Ông về với đất” là hiện thân của vị khai quốc công thần đã làm tròn bổn phận vẻ vang của mình. Tiếng gầm của Mahe như một loạt đại bác, tiễn biệt những người con yêu dấu của dân tộc.

    Trước đây, khi nhắc đến những câu thơ này, người ta chỉ thấy các thành ngữ “Luomeng”, “Luobei”… Nhưng thời gian đã cho phép chúng ta nhìn nhận bản chất một cách thẳng thắn hơn, và chỉ có những tài liệu ở thời đại đó.

    Tây Du Ký là một bài thơ, là tiếng lòng của kẻ sĩ đi Tây Phương. Thơ có nhạc có hình, bên cạnh bi thương là anh hùng, bên cạnh đau thương mất mát là hào hùng. Nửa thế kỷ đã trôi qua, tiếng thơ ngày càng da diết, Bài thơ tả Tây quân đã trở thành ký ức khó quên về giai đoạn lịch sử hào hùng những ngày đầu kháng chiến chống Pháp.

    8. Phân tích Đồng hồ đo 3 miền Tây – Mẫu 4

    Dưới bối cảnh núi rừng hùng vĩ, hung dữ cùng nét thơ mộng hữu tình của vùng Tây Bắc, Quảng Đông đã khắc họa thành công hình ảnh đẹp tập thể của những người lính Tây Bắc. Bi kịch:

    Đội quân không mọc tóc

    Quân xanh ôm tôm hùm

    Mắt sáng gửi ước mơ qua biên giới

    Xem Thêm: Hiệu ứng ASMR là gì? Những lợi ích của ASMR bạn cần biết

    Một đêm Hà Nội mộng đẹp và thơm

    Bạn thấy đấy, cách miêu tả phong cảnh ở Quảng Đông rất lạ, nhưng khi đến đây, cách miêu tả con người lại càng lạ hơn. Khi các nhà thơ trong Chiến tranh chống Nhật Bản viết về những người lính, họ thường đề cập đến căn bệnh sốt rét chết người. Người chính trực trong bài thơ “Đồng chí” tả trực diện căn bệnh:

    Anh và em biết mỗi khi giá lạnh

    Sốt, đổ mồ hôi trán

    Cũng ở đây, nhắc đến hình ảnh “đội quân không mọc tóc”, tác giả tạm nhắc lại hình ảnh anh “hồng vệ binh”. Nhưng câu thơ cũng là sự miêu tả chân thực hiện thực phũ phàng: suối độc, sốt rét rừng khiến người lính xanh xao tóc rụng. Hình ảnh kỳ lạ, nhưng không đáng sợ. Các chiến sĩ tuy gầy gò, xương xẩu nhưng vẫn có tư thế hiên ngang, hào hùng: “tóc không dài” chứ không phải “tóc không dài”. “Không mọc tóc” dường như có nghĩa là không cần mọc tóc, không cần mọc tóc… Nó thể hiện một thái độ không sợ hiểm nguy, vượt lên hoàn cảnh của một người lính Tây.

    Ba chữ “dũng” cuối câu như một đòn dằn vô cùng mạnh mẽ, khẳng định ý chí vô song và tinh thần chiến đấu sục sôi của người lính. Câu thơ như một cái gật đầu đầy kiêu hãnh, tự hào của người lính miền Tây đã vượt qua gian khổ, vượt qua khó khăn để trở thành anh hùng. Trong thơ có một tên thành phố tráng lệ: Hà Nội, nhưng không phải là một địa danh có thật ở đường Tây, nhưng nó đã trở thành một địa danh có thực ở đường Tây, nhưng nó đã trở thành một địa danh của độ cao, bởi vì giấc mơ đó là một đỉnh cao. Bài thơ này miêu tả tâm lý của những người lính rời Bắc Kinh một cách tinh tế và chân thực. Hình ảnh Hà Nội và Phương Kiều hiện ra trong đêm mộng không làm họ nản lòng mà ngược lại còn khích lệ, thôi thúc những người lính. Một thoáng ký ức trong trẻo và êm đềm ấy đã tiếp thêm sức mạnh để họ chiến đấu hết mình. Đó là động lực tinh thần giúp những người lính sống sót qua những năm tháng khó khăn của chiến tranh.

    Bốn câu cuối, tác giả nhìn thẳng vào viên đá cẩm thạch nhưng lại mang đến cho người ta cảm giác uy nghiêm, sang trọng:

    Xem Thêm : [GIẢI ĐÁP] 1 lít dầu ăn nặng bao nhiêu kg? – Đời sống ba miền

    Biên giới xa xôi

    Sống xanh không tiếc chiến trường

    Chiếc áo choàng sẽ đưa bạn trở lại trái đất

    <3

    Những chữ Hán Việt cổ kính và trang trọng của chữ “jie” và “xa” làm cho những ngôi mộ của những người lính được chôn cất vội vã nơi hoang vu nơi biên ải trở thành một ngôi mộ thiêng. Viên bi của câu nói trên được thăng hoa đến bi tráng bởi tính cách “ra trận không tiếc tuổi thanh xuân” của người đã khuất. Đời xanh non biết bao hoa ước mơ mà vui dâng hiến cho đất nước. Họ chết như thể đang trong một giấc ngủ rất nhẹ nhàng và yên bình. Nếu như hình ảnh ông già “quấn ngựa bọc thây” rạng ngời thì những người lính Tây Tiến tiến quân với hình ảnh “áo thay tấm lót” biểu dương sức mạnh. Trên thực tế, những người lính tử trận trên chiến trường thường không có gì, chứ chưa nói đến “quần áo”. Nhưng thái độ trân trọng, yêu thương và cảm hứng lãng mạn đã hun đúc nên ở Quang Dũng hình tượng anh hùng cổ điển của người chiến sĩ hi sinh. Nhìn dưới ánh sáng này, cái chết của người lính Tây Phương không bị che phủ trong giá lạnh như trong bài thơ của Đặng Trần Côn: “Gió cuốn hồn tử sĩ” mà trong âm hưởng oai hùng của “tiếng sông gầm”. đến bài hát solo”.

    Câu thơ này nghe như một bản nhạc tuyệt vời. Âm điệu hùng tráng của bài ca anh hùng liệt sĩ vang lên từ từ “gầm”. Thiên nhiên đã tấu lên bản nhạc say đắm và hùng vĩ, không chỉ đưa linh hồn người chiến sĩ về cõi vĩnh hằng mà còn nâng cái chết lên tầm sử thi bất tử. Hai anh em đã đi xa, trở về với đất mẹ, về với anh hùng dân tộc đã ngã xuống, nối tiếp truyền thống cha mẹ. Chẳng phải tiếng gầm của dòng sông là trái tim của người sống hay sao? Vì cái chết của đồng đội không làm họ chùn bước mà càng tăng thêm dũng khí và lòng căm thù.

    9. Máy phân tích Westward 3 – Mẫu 5

    Ai đó đã từng nói rằng “thơ chỉ tràn đầy khi cuộc sống của chúng ta đủ đầy”. rất đúng! Chiến tranh kết thúc, hòa bình lập lại, nhưng miền Tây Bắc ấy lại mang trong mình nỗi nhớ Quảng Đông không thể tách rời, phải chăng đã để lại trong lòng tác giả biết bao kỉ niệm? Chính nỗi nhớ này đã thôi thúc ông làm thơ Tây phương. Binh lính Tây tiến qua các đồn Quảng Đông, tỏ ra muôn vàn khó khăn trở ngại, qua đoạn trước có thể thấy:

    Trong cuộc Tây chinh, quân không tóc dài, quân Thanh hung hãn, vượt mộng. Đêm mơ Hà Nội, thơm hương mồ, xa chiến trường, không tiếc tuổi thanh xuân. Bộ quần áo phản ánh sự trở lại của anh ấy với đất. một mình.

    quang dũng là một nghệ sĩ đa tài, vừa làm thơ, vừa vẽ tranh, vừa sáng tác nhạc. Thơ anh tự do, lãng mạn. “Hướng Tây” được sáng tác trên lưu vực sông khi ông được chuyển đến một đơn vị khác vào năm 1948 và nhớ đơn vị cũ. Dù hoạt động của ông đã dời đi nơi khác nhưng hình ảnh về mảnh đất và con người ấy vẫn còn in đậm trong tâm trí ông. Khi Tây tiến mới ra đời, cấm lưu hành, dần dần thấy được sự độc đáo, sáng tạo, hay của thơ nên được đưa vào sách giáo khoa ngày nay.

    Điều kiện thời tiết phía Tây Bắc rất xấu, ảnh hưởng trực tiếp đến các chiến sĩ hành quân tại đây:

    Tây quân không mọc tóc, quân xanh dữ tợn

    “Tóc không dài” có thể hiểu là bị ảnh hưởng bởi thời tiết, bị sốt rét và gây đau đớn về thể xác cho người lính. Tác giả nói “không mọc tóc” thay vì “không mọc tóc” cho thấy lúc bấy giờ binh lính cho rằng cạo đầu là để tiện cho việc chiến đấu chứ không phải vì bệnh tật để bớt đau. Kết nối với độc giả. “Quân xanh” nếu sự thật trần trụi là do sốt rét thì Quang Dũng cho rằng đó là màu xanh hóa thân của những người lính, màu xanh khiến kẻ thù khó nhận biết và thường xuyên bị vô hiệu hóa, nhưng qua lăng kính tác giả, đoàn quân thể hiện tình yêu thương cho cuộc sống, bất chấp khó khăn.

    Dù khó khăn nhưng điều đó không làm cho sự lãng mạn của những người lính miền Tây lên một tầm cao hơn. Hai câu thơ tiếp theo miêu tả vẻ đẹp và sức mạnh của con người:

    Xem Thêm : Các số oxi hoá có thể có của photpho là : –3 ; +3 ; +5

    Đôi mắt tuyệt vời gửi ước mơ xuyên biên giới Hà Nội Mạnh Diệp Phương Hoa

    Dù ngày đêm chiến đấu với quân thù, nhưng tâm hồn người chiến sĩ luôn mơ màng. Những giấc mơ họ gửi ra bên kia biên giới, nơi vẫn còn bóng dáng của quân thù, giấc mơ giết được kẻ thù và thành danh. Một “cái nhìn” gợi sức mạnh, nội lực, quyết tâm với đất nước, đâu đó trong họ luôn có lòng căm thù giặc sâu sắc. Đoàn quân tiến về phía Tây chủ yếu là học sinh, sinh viên đến từ Hà Nội, thủ đô văn hiến, trái tim của cả nước nên lấy đó làm động lực chiến đấu. “Người đẹp thơm” là vẻ đẹp yêu kiều, duyên dáng của người con gái Hà Nội, cũng là vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam. Vẻ đẹp của quê hương đã thôi thúc những người lính đánh đuổi giặc ngoại xâm, bảo vệ từng tấc đất quê hương tươi đẹp. Đó là động lực lớn để tinh thần chiến đấu mạnh mẽ hơn. Hình ảnh một vẻ đẹp thanh xuân là ngọn đèn soi sáng trong ký ức họ, là thứ giúp họ tìm lại được sự cân bằng, an tâm sau mỗi chặng đường gian khổ.

    Ra biên ải là chấp nhận hy sinh, biết đi là chết, xung phong chiến đấu, mong thu lại chiến thắng:

    <3

    Bao nhiêu anh hùng ngã xuống nơi biên cương. Chiến tranh luôn đi kèm với chết chóc, nhưng tinh thần tự nguyện chiến đấu thì luôn sống mãi. Thanh xuân là thời đẹp nhất, là thời đẹp nhất trong cuộc đời mỗi người, nhưng họ cũng phải gác lại, đặt trách nhiệm nặng nề của đất nước lên hàng đầu, “tử là sống”. Tình nghĩa vợ chồng, những ích kỷ đã bị dẹp bỏ, những người lính vẫn đồng hành cùng nhau trên mọi nẻo đường để bảo vệ từng cánh đồng lúa, mùa ngô, nhịp tim của người dân, của cả dân tộc.

    Tiếp tục giọng bi tráng, hai câu thơ cuối tô đậm sự hy sinh mất mát, thể hiện cái chết cao cả, cái chết bất tử của người lính:

    Áo không phản chiếu nơi khác, Mã Giang đơn ca

    Khi viết dòng thơ này, Quảng Đông như đang khóc. Đây là cái chết nhưng tác giả nói ít đi để bớt đi nỗi đau mất mát của những người ở lại. Thời chiến là thời thiếu thốn, đói nghèo của cả dân tộc ta. “Áo dài” thay cho “chiếu”, vì người đã hy sinh quá nhiều chỉ còn biết khoác áo qua vai về với đất mẹ. Anh ấy đã trở về đất liền, nghĩa là anh ấy đã hoàn thành nghĩa vụ vinh dự của mình và giờ đây anh ấy là hiện thân của hình ảnh của đất nước này. Phần cuối mô tả tiếng gầm của Mahe như một loạt đại bác vang lên, tiễn biệt những người con trai và con gái yêu quý của dân tộc.

    Sử dụng các biện pháp nghệ thuật như nói giảm nói tránh, hoán dụ và ẩn dụ. Quang dũng miêu tả một nhóm binh lính trong cuộc viễn chinh phương Tây và nhiều vẻ đẹp khác nhau, dù là ngoại hình hay nhan sắc, dù là đôi mắt hay tính cách, và cả những đức hy sinh cao cả. Tất cả là vì lòng yêu nước, vì sống và làm việc trong hòa bình và mãn nguyện, không đau khổ và mất mát. Bài thơ này đầy nhạc và hình, táo bạo và không gò bó. Những hình ảnh khắc họa cuộc tiến công của quân đội phương Tây trở thành ký ức đầy ám ảnh về một thời hào hùng trong lịch sử.

    10. Phân Tích Lễ Hội Thơ Tây 3

    Chiến tranh rồi sẽ qua, lớp bụi năm tháng có thể phủ lấp hình ảnh những người anh hùng thầm lặng, nhưng văn học sẽ luôn khắc ghi trong lòng người đọc sứ mệnh thiêng liêng của nó. lịch sử. Trong bài thơ của mình, Quang Dũng cũng đã dựng lên một tượng đài bất tử như thế về các chiến sĩ cách mạng đã đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược nước ta lâu dài. Đó là tượng đài khiến những chiến sĩ yêu nước đã ngã xuống trong những năm tháng gian khổ cùng thời gian trở nên bất tử:

    “Tây quân không mọc tóc

    <3"Tiến về miền Tây" của Quang Dũng là một kỉ niệm da diết về những người đồng đội trong vòng tay của nhà thơ, những người đã sống, đã chiến đấu và đã hi sinh để trở về với đất liền. Tình thương của mẹ, nhưng dù sao những người ấy đã mãi mãi ở lại nơi biên cương hay những miền đất xa xôi. Vì vậy, Quảng Đông không chỉ tái hiện hình ảnh Tây quân hành quân qua gian khổ, hy sinh mà còn “sức sống còn tươi” như 14 dòng đầu bài thơ đã nói đến. Và quang dũng không chỉ dựng nên hình tượng người lính với đời sống tình cảm vô cùng phong phú, mà tình cảm lớn nhất chính là tình cảm quân nhân. Quang dũng đặc biệt tâm đắc với ý tưởng xây dựng hình tượng người lính miền Tây trong tác phẩm của mình. Nhà thơ sử dụng hệ thống ngôn ngữ giàu hình ảnh tạo ấn tượng mạnh bằng hàng loạt thủ pháp so sánh, nhân hóa, ước lệ nghệ thuật, khắc sâu hình ảnh người anh hùng liệt quốc, anh hùng dân tộc vào tâm trí người đọc. . dân tộc. Như chúng ta thấy trong câu thơ, đó là một tượng đài đứng giữa núi cao và nước sâu, giữa không gian hùng vĩ:

    “Tiến quân tây… hành quân một mình”

    Trước hết, nó khắc họa hình tượng những người lính miền tây giữa chiến tuyến, làm nổi bật cuộc sống gian khổ của họ. Nếu như ở câu thơ trước, người lính chỉ hiện ra trong đoàn quân mỏi: “Sài mong sương che đoàn quân mỏi” thì bây giờ trong đêm tiệc, một khung cảnh thật lãng mạn, đêm lửa trại đầy cá và nước. , đây là quân Hình cây không mọc lông xanh như lá rừng. Cảm hứng thực sự để Quang Dũng không ngại miêu tả cuộc sống gian khổ mà người lính phải chịu đựng. Bệnh sốt rét rừng khiến lông của họ không mọc được (không phải họ cố tình cạo để dễ chiến đấu như nhiều người khẳng định). Cũng vì những trận sốt rét rừng mà da họ xanh như lá (không hóa trang), nét có vẻ phờ phạc. Nhưng thế giới tinh thần của những người lính cho thấy họ là những chiến binh anh dũng, họ cũng chứa đựng sức mạnh chiến thắng kẻ thù, họ dũng mãnh như hổ báo. Cái tài của Quang Dũng nằm ở chỗ miêu tả người lính, gầy guộc nhưng lại gợi được một giọng điệu rất hào hùng của cuộc sống. Vì tiếng “Tây quân không mọc tóc” rơi vào trọng âm đầu của khổ thơ như “tiến lên”, “mọc tóc”. Nhờ những phong vũ biểu đó mà giọng thơ vang lên. Không chỉ vậy, nhưng họ là một đội quân. Từ tiếng Việt của “Đại bác” trong âm Hán Việt gợi lên một khí chất rất oai hùng và hào hùng. Đặc biệt, từ “xingxing” ở đầu bài thơ không còn là tên đoàn quân mà gợi nhớ nhiều hơn về hình ảnh đoàn quân đầu trọc vẫn dũng mãnh tiến về phía Tây. Thủ pháp tương phản được Quảng Đông sử dụng trong bài thơ “Tuổi trẻ xung phong” không chỉ làm nổi bật sức mạnh tinh thần của người lính mà còn thấm sâu vào màu sắc văn hóa của dân tộc. Ở đây, nhà thơ không chỉ muốn nói lính Tây như chúa sơn lâm, không muốn “động vật hóa” lính Tây mà muốn dùng những hình ảnh quen thuộc trong bài thơ để miêu tả sức mạnh vô địch, văn cổ. Fan Wulao cũng ca ngợi các anh hùng Vệ binh Quốc gia trong bài thơ của mình:

    <3

    Bò làng Sanjue Huqi”

    Ngay cả Hồ Chí Minh trong “Đường Sơn” đã viết:

    “Chiến binh Ngưu Hải

    Bộ mặt của kẻ xâm lược Cylon”

    Có thể nói, Quảng Đông đã sử dụng mô típ đậm nét phương Đông để làm nên những vần thơ vang vọng với lịch sử, đó là hình ảnh người chiến sĩ cách mạng gắn liền với sức mạnh truyền thống của dân tộc. Đọc bài thơ: “Quân xanh dữ oai hùm” ta như nghe thấy tiếng vọng của một âm thanh nào đó của thiên nhiên.

    Hình ảnh những người lính miền Tây bỗng trở nên thật đẹp, khi ánh đèn chiếu sáng tượng đài tráng lệ và lãng mạn này:

    “Mắt trong veo gửi mộng qua biên giới

    Một đêm tuyệt vời ở Hà Nội”

    Trước hết, cô ấy là một phụ nữ xinh đẹp, quan tâm đến đất nước và thủ đô. Những người lính luôn ở biên giới, luôn ở xa nhưng trái tim luôn hướng về Hà Nội. Chợt nhớ đến bài thơ của Hoàng Văn Nghĩa:

    Xem Thêm: Văn tự sự là gì? Hướng dẫn cách làm bài văn tự sự hay nhất

    “Từ khi cầm gươm đi mở nước

    Nỗi nhớ ngàn năm đất rồng bay lên

    Người lính Tây tiến sải bước Dù “ngắm mắt nhìn” nỗi nhớ vẫn hướng về một “thơm”. Xưa nay người ta phê phán tiểu tư sản bằng con mắt trẻ thơ, thực ra nhờ vẻ đẹp tâm hồn mà người chiến sĩ mới có nghị lực vượt qua mọi khó khăn, người chiến sĩ đã trở thành biểu tượng cho vẻ đẹp của con người Việt Nam. Quang dũng tạo thành một sự tương phản vô cùng độc đáo – con người chiến đấu dũng cảm với ý chí sắt đá cũng là con người có đời sống tinh thần phong phú. Người lính miền Tây không chỉ biết xách súng vác gươm theo tiếng gọi của sông núi mà còn rất hào hoa, giữa muôn vàn gian khổ vẫn dạt dào cảm xúc, hoài niệm về cái đẹp. và dáng người thơm tho. .Vẻ đẹp Hà Nội – Thăng Long xưa.

    Được chạm khắc từ những nguồn ánh sáng tương phản, bức tượng Người lính hướng Tây vừa chân thực vừa lãng mạn. Mỗi dòng nổi bật như nhau để tạo ấn tượng tuyệt vời. Đây cũng là nét đặc sắc của thơ ca Quảng Đông.

    Nếu nói ở bốn câu thơ trên, những người lính Tây tiến hiện ra như một đội quân vang dội khắp dấu chân tây, đầy khí thế hào hùng và một thế giới tinh thần rất lãng mạn, thì bức tượng ở đây khắc ghi những dòng họ hi sinh. Nếu chỉ đọc từng đoạn và phân tích từng hình ảnh riêng biệt, người ta dễ cảm nhận được cái bi tráng về sự hy sinh của những người lính mà thơ ca kháng Nhật thời bấy giờ ít nhắc đến. Vì thơ kháng chiến hầu như chỉ quan tâm đến anh hùng, không quan tâm đến bi kịch. Nhưng nếu đặt hình ảnh và câu thơ cạnh nhau, chúng ta sẽ hiểu rằng Quảng Đông dùng cảm hứng lãng mạn để miêu tả chân thực sự hy sinh của những người lính, vì vậy hình ảnh này không những không rơi vào bẫy mà còn bi tráng và có sức bay bổng.

    Có thể thấy câu thơ: “Rải rác nơi biên ải xa” Nếu tách ra dễ cảm thấy nặng nề, bởi đây là câu thơ nói về cái chết, về mộ người lính đi về nơi “xa” từng chữ. , Dường như những nốt trầm buồn hơn của những khúc hát tâm hồn liệt sĩ, chẳng phải thế sao, những ngôi mộ là những ngôi mộ “rải rác”, dễ thu hút sự lạnh lẽo, và “rải rác” ở “xa”, những ngôi mộ ấy hàm ý sự lẻ loi, hiu quạnh Quang dũng muốn nói đến nơi yên nghỉ của đồng đội:

    “Bạn không thể đi được nữa

    Ném súng”

    Trong phụ đề:

    “Linh hồn của gió chết đang thổi trong không khí

    Khuôn mặt của kẻ chinh phục mặt trăng đang theo dõi

    Bạn là người chinh phục

    Ai trốn, ai gọi hồn”

    Tuy nhiên, đến câu thứ hai, ta lại thấy hình ảnh những nấm mồ nằm rải rác bên kia biên giới, trở về trong hơi ấm tình nghĩa của đồng bào, của đất nước. Bởi đó là nấm mồ của những người con, người con gái của những anh hùng “ra trận không tiếc tuổi thanh xuân”. Đồng thời, cũng là câu thơ thứ hai nâng những ngôi mộ rải rác lên cao, trở thành đài tưởng niệm, thành quê hương cho những người lính đã hy sinh tuổi thanh xuân theo tiếng gọi của chiến trường. Trong thơ Quang Dũng luôn có nhiều hình ảnh hỗ trợ nhau như vậy.

    Sự hy sinh của người lính còn được khuếch đại trong câu thơ “Áo đưa anh về đất”. Tình cảm dành cho quang dũng sâu đậm biết bao trong câu thơ viết về một người đồng đội của mình. Ai bảo quang dũng không thương xót đồng đội mới chết như thế này, tiễn đưa giữa bao nhiêu thiếu thốn gian khổ, lính Tây chết sốt rét còn hơn chết chiến đấu.

    Hai câu thơ bi tráng, nhấn mạnh sự hy sinh mất mát là cái chết cao cả – cái chết bất tử của người lính Tây Tiến:

    Chiếc áo choàng sẽ biến anh ta thành trái đất.

    <3

    Hai câu cuối tôi đọc tưởng như chỉ miêu tả và thông báo sứ mệnh một cách bình thường, nhưng lại có sức gợi rất lớn. Đâu đó, vẫn còn những giọt nước mắt đằng sau những con chữ. Hai câu thoại mạnh mẽ và sâu sắc về tình cảm, nhân ái. Làm sao bạn có thể dửng dưng trước cảnh “người ấy về”? “Ông về với đất” là hiện thân của vị khai quốc công thần đã làm tròn bổn phận vẻ vang của mình. Tiếng gầm của Mahe như một loạt đại bác, tiễn biệt những người con yêu dấu của dân tộc.

    Từ sự kết hợp hài hòa giữa hình ảnh hiện thực và cảm hứng lãng mạn, lượng dung đã dựng nên một tượng đài người chiến sĩ cách mạng vừa hiện thực, vừa khái quát. Đứng lên lập công thần kỳ chống thực dân Pháp. Đó là một tượng đài kết tinh trong tiếng nói bi tráng của cuộc kháng chiến chống Nhật. Đây là một tượng đài khắc ghi tình yêu của Guangyong đối với đồng đội của mình trong vòng tay và đối với quê hương. Vì vậy, các nhà thơ và nhân dân cả nước đã hát ca ngợi những người con, người con gái anh hùng trên tượng đài.

    11. Cảm nghĩ về đoạn thứ ba của thơ ca phương Tây

    Nói đến thơ ca thời Kháng Nhật không thể không nhắc đến các nhà thơ như Tô Du, Nguyễn Quang Sinh, Nguyễn Thị và có lẽ không thể không nhắc đến các nhà thơ. Ông là một nhà thơ đa năng, có thể sáng tác thơ, tranh và kịch. Trong sự nghiệp thơ ca của mình, ông đã để lại nhiều tác phẩm, nhưng nổi tiếng nhất có lẽ là các tác phẩm phương Tây. Bài thơ này là sự tưởng nhớ tha thiết của Quang Dũng về Lãnh thổ Tây Bắc thân yêu và đồng đội của mình. Đoạn thơ này làm nổi bật hồn thơ lãng mạn, sâu sắc, chan chứa tình cảm và tinh thần dân tộc của người Quảng Đông, đặc biệt đoạn thơ khắc họa hình ảnh người lính rất độc đáo:

    “Tây quân không mọc tóc

    Quân xanh ôm tôm hùm

    Mắt sáng gửi ước mơ qua biên giới

    Xem Thêm: Hiệu ứng ASMR là gì? Những lợi ích của ASMR bạn cần biết

    Một đêm Hà Nội mộng đẹp và thơm

    Xem Thêm : [GIẢI ĐÁP] 1 lít dầu ăn nặng bao nhiêu kg? – Đời sống ba miền

    Biên giới xa xôi

    Sống xanh không tiếc chiến trường

    Chiếc áo choàng sẽ đưa bạn trở lại trái đất

    <3

    “Tây Du Ký” được Quang Dũng tạo ra vào năm 1948 để tưởng nhớ quân đội và đồng đội trong vòng tay. Chính trong nỗi nhớ da diết ấy, ông đã vẽ lên hình ảnh những người lính Tây Tiến những bức tranh đẹp vừa hào hùng vừa lãng mạn.

    Khi đọc đến dòng đầu tiên của bài thơ, hình ảnh người lính anh dũng, hiên ngang và bi tráng hiện ra trước mắt người đọc:

    “Tây quân không mọc tóc

    Quân xanh ôm tôm hùm”

    Quang Dũng là đội trưởng của Tây tiến đoàn, một đội quân được thành lập năm 1947 để phối hợp với quân đội Lào đánh chặn các cuộc tấn công vào biên giới Việt Lào. Ở hai câu đầu, giữa khung cảnh núi rừng tươi đẹp và thơ mộng, vẻ đẹp của người cựu binh hiện lên một cách bi tráng. Đó không phải là một đội quân mạnh mẽ, với một thanh niên tóc xanh trên đầu, quân đội Quảng Đông trông kỳ lạ và kỳ lạ. Một nhóm thanh niên đông đảo nhưng ai cũng “không mọc tóc”. Làm thế nào có thể có sự bất thường như vậy trong một đội quân lớn như vậy? Phải chăng cái đói, cái khát và những cơn sốt rét kinh hoàng đã biến những người lính trẻ thành một “binh đoàn trụi lông” như vậy? Vẻ ngoài hốc hác, ốm yếu, đầu hói, da xanh xao gợi lên trong lòng chúng tôi bao nhiêu xót xa. Hình ảnh đó mạnh mẽ, nhưng nó là thực tế—một thực tế phũ phàng. Những người lính Tây Bắc ngày ấy phải công tác ở núi rừng Tây Bắc, nơi rừng thiêng nước độc, nơi có những cơn sốt rét kinh hoàng, có cả những ngày đói rét rét buốt. Chúng ta cũng đã từng thấy hình ảnh những người lính bị sốt rét mà vẫn kiên trì thực hiện nhiệm vụ trong thánh vịnh công lý:

    “Bạn và tôi biết từng cái lạnh

    Sốt, đổ mồ hôi trán”

    Tay Tây vẫn mang đến điều đặc biệt trong một chuyên mục. Phải chăng mái tóc xanh đã biến mất và những người lính trở thành cả một “đội quân rụng tóc”? Bộ đội đang khổ, cản bước tiến?

    Nhưng nếu ở câu trước, hình ảnh người lính trần trụi, bi tráng thì ở câu tiếp theo, cái mà người ta nhìn thấy là sự rực rỡ của hình ảnh người chiến sĩ:

    “Quân xanh ôm tôm hùm”

    “Quân xanh” ở đây là lá ngụy trang, là màu áo xanh của bộ đội, hay là làn da xanh xao của những người lính giải phóng vì ốm đau, đói rét? Một hình ảnh hiện thực trần trụi đã được Quang Dũng trực tiếp đưa vào bài thơ. Không có gì phóng đại hoặc cách điệu cả. Đây là thực tế, thực tế của những người lính quân đội phương Tây. Tuy nhiên, dù xanh xao, kiệt quệ, vất vả nhưng họ vẫn giữ vững tinh thần “cầm cương”. Dù là nơi rừng thiêng nước độc nhưng các anh hùng QĐNDVN vẫn giữ tư thế hiên ngang, bất khuất, toát lên vẻ oai phong của vị vua sơn lâm.

    Trong hai câu đầu, hình ảnh những người lính Tây Tiến thật sinh động. Đoàn quân ấy đã đi trong rừng xanh và giữa những ngọn núi dốc tối tăm, trải qua đủ mọi gian khổ, đau khổ, đói rét. Tuy nhiên, dù thế nào, các anh vẫn giữ tư thế “sảnh” đầy kiêu hãnh giữa chốn rừng thiêng nước độc. Có thể nói, quang dũng đã đưa vào đây chất liệu của hiện thực – hiện thực trần trụi, và thêm vào đó một chút lãng mạn thơ mộng.

    Bước sang phần tiếp theo, người ta thấy vẻ đẹp tâm hồn của những người lính ấy. Tâm hồn mộng mơ, căng tràn sức xuân:

    “Mắt trong veo gửi mộng qua biên giới

    Một đêm tuyệt vời ở Hà Nội”

    Tây Tân là một đội quân chủ yếu gồm người Heqing, họ là học sinh, sinh viên còn trẻ, tràn đầy xuân xanh tươi đẹp nên đằng sau vẻ ngoài nhợt nhạt là cả một vùng trời tinh thần lãng mạn. Những người lính ấy đến nơi biên cương với tuổi trẻ, hoài bão và khát vọng hòa bình. Họ nghe theo tiếng gọi của Tổ quốc và lên đường đi tìm nền độc lập dân tộc, bởi giặc ngoại xâm đã giày xéo quê hương họ thành bình địa. Vậy còn cặp “mắt trừng” kia, nhìn chằm chằm vào kẻ thù, quyết tử chiến với quân xâm lược? Đôi mắt sắc lạnh ấy cũng chứa đầy lòng căm thù giặc, sục sôi ý chí chiến đấu. Không chỉ vậy, ý chí chiến đấu toát lên trong họ, và đôi mắt ấy sẽ gửi ước mơ “vượt biên” về phương xa, về Hà Nội thân yêu, nơi có người thân, gia đình của những chàng trai Tây. “Giấc mơ bên lề” là giấc mơ hòa bình, giấc mơ được trở về quê hương, người thân, họ hàng trong chiến thắng. Đôi mắt ấy không chỉ phản chiếu dục vọng mà còn cả tình yêu, cảm giác yêu thương trong ánh mắt họ.

    “Một đêm Hà Nội mộng đẹp thơm hương”

    Đôi mắt đánh thức mùa thu, nhắc tôi về một Hà Nội xưa với những con phố, những gia đình với “dáng kiều thơm” trong ký ức. Đều là những người trí thức đã bỏ bút mực, vác súng lên đường bảo vệ quê hương, đất nước nên những người lính Tây phương luôn giữ được vẻ hào hoa, lãng mạn của người trí thức. Họ không giống như những người lính đơn giản trong thơ công lý:

    “Quê tôi chua mặn

    Làng tôi nghèo lắm, cày bừa đập đá”

    Chính “sắc đẹp hương thơm” là động lực để các anh hoàn thành sứ mệnh cao cả. đồng thời cũng là tâm nguyện của những người lính biên phòng.

    Sau mỗi chặng đường hành quân gian khổ, phải chăng nỗi nhớ quê hương, người thân là động lực mạnh mẽ khiến các anh tràn đầy sức sống, sức trẻ luôn ở đó, mang lại bình yên cho những “gương mặt thơm” ấy? Quang dũng cũng thật tinh tế, bởi chỉ trong hai câu mà vẻ đẹp tâm hồn của người lính Tây Tiến hiện lên thật phóng đại, thật lãng mạn. Ở bốn dòng đầu của khổ thơ thứ ba, Quảng Đông hiện lên rõ nét hình ảnh những người lính trong đoàn quân của mình. Những người lính ấy không chỉ có vẻ đẹp oai phong của vẻ đẹp của khí phách hiên ngang mà còn tiềm ẩn sự lãng mạn của vẻ đẹp tâm hồn.

    Trong chiến tranh, biết bao người lính đã ra đi mang theo tuổi trẻ và khát khao hòa bình, không bao giờ trở lại. Người ta thường nói chiến tranh là vô thường, làm sao tránh khỏi hy sinh, mất mát:

    “Mộ biên cương rải rác

    Sống xanh không tiếc chiến trường”

    Mất mát, hy sinh có thể là điều hiển nhiên trong mọi trận chiến. Tuy nhiên, đọc thơ Quang Dũng, người đọc không khỏi ngậm ngùi trước những mất mát, hi sinh đó. Bốn câu đầu giọng điệu thật hào hùng, vừa đến đây không khí lập tức chìm xuống. Trên mỗi chuyến đi, những người lính lần lượt nằm xuống. Mộ của họ vô danh, nằm rải rác nơi biên cương, giữa rừng thiêng nước độc. Ở đây, quang dũng đã chọn một từ Hán Việt là “mồ đất” để diễn tả cái chết của người con xa quê. Họ phải ở lại nước ngoài. Lấy từ “mồ đất” trong tiếng Hán Việt, “Ranh giới” tạo không khí trang trọng, hào hùng, như một bản anh hùng ca tiễn biệt người lính. Họ đã ngã xuống nơi đây và trở thành những người lính vô danh, góp phần làm nên nền độc lập của Tổ quốc:

    “Sinh ra và chết đi

    Đơn giản và bình lặng

    Không ai nhớ tên

    Nhưng họ đã tạo nên đất nước này”

    Nhưng dù phải đối mặt với cái chết, những người lính phương Tây vẫn quyết tâm ra đi vì hòa bình. Chính vì ước nguyện cháy bỏng ấy, họ đã nguyện hiến dâng tuổi trẻ và cuộc đời mình cho đất nước:

    “Sống xanh không tiếc chiến trường”

    Sầu lòng trước vẻ đẹp lãng mạn! “Sống xanh” chính là tuổi trẻ của bạn, tuổi trẻ nhiều hoài bão. Thế nhưng, nghe theo tiếng gọi của Tổ quốc, ra chiến trường quét sạch quân thù, hai anh đã kiên quyết ra đi không một chút “tiếc nuối”. “Không phàn nàn, không hối tiếc”—từ đó nghe giống như một câu trả lời có cho lời kêu gọi vừa táo bạo vừa đĩnh đạc của đất nước. Họ coi cái chết nhẹ tựa lông hồng, trong lòng chỉ có khát vọng hòa bình cháy bỏng. Đời cay đắng nhưng không buồn.

    Vẫn giọng hào hùng trầm lắng ấy, Quảng Đông tiếp tục nói lên nguyện vọng hiến thân cho Tổ quốc của những người lính Tây quân:

    “Chiếc áo phản chiếu anh về đất này

    <3

    Họ là những người trẻ, họ hiểu rõ giá trị của tuổi trẻ hơn ai hết, hiểu những ước mơ và khao khát được sống đời thường, “xác đẹp”, nhưng chết vì lý tưởng nước nhà cũng là sự thật. Nó là thiêng liêng và rất đẹp. Người lính chết không để lại gì. Tuy nhiên, ở đây, quang dung đã được biến thành “áo choàng”. Những chiếc áo choàng từng chỉ được mặc bởi các vị vua quý tộc giờ được mặc bởi những người lính. Chiếc áo ấy như một lời tri ân dành cho người lính vô danh đã ngã xuống và trở về với Tổ quốc thân yêu. “Áo thay chiếu” là câu tục ngữ vừa bi tráng, vừa tô đẹp cho sự hi sinh của những người lính Tây Tiến. Cụm từ “anh đã về Trung Quốc” nghe rất nhẹ nhàng nhưng thực chất lại là cách nói giảm nói tránh của Kuang Yong trước nỗi đau và niềm tiếc thương vô hạn đối với những người lính đã hy sinh. Với vinh quang, họ không chết mà trở về quê hương. Bởi vì chúng ta sinh ra trên trái đất, cuối cùng chúng ta sẽ trở về quê hương.

    Những người lính ngã xuống, những nấm mồ không tên, nhưng sự hy sinh không vô ích, vì nó đã tạo nên hòa bình cho đất nước và vinh danh cho lịch sử. .Đối với người lính phương Tây, Mahe là dòng sông lịch sử. Bởi nó là chứng nhân của thời gian và sự đồng hành của những người lính. Bây giờ, khi họ ngã xuống, nó “gầm lên” một bài hát vĩnh biệt đồng đội. Tiếng rống ấy như một khúc độc tấu của những người lính để sống mãi.

    Hai câu cuối của hồi 3, Quảng Đông dùng liên tiếp tiếng Hán và tiếng Việt. Nó không chỉ tạo nên không khí trang nghiêm, hào hùng, bi tráng về sự hy sinh của người chiến sĩ mà còn tạo nên vẻ đẹp bi tráng, lãng mạn, oanh liệt của những người anh hùng năm xưa. Có thể nói, hai câu thơ cuối làm đẹp cho cái chết của cậu bé, nhưng vẻ đẹp ấy cũng vừa đủ để tưởng nhớ đến sự hi sinh cao cả của những chàng trai 18 tuổi ấy.

    Trong đoạn thơ trên, Quảng Đông đã thể hiện thành công nỗi nhớ thiên nhiên Tây Bắc và nỗi nhớ đoàn quân. Ông cũng sử dụng một mảng hình tượng độc đáo, vừa mang tính nhạc, vừa mang tính hình, với những so sánh phóng đại tinh tế và cảm hứng lãng mạn để nói về đoàn quân của mình. Có thể nói đoạn này là đoạn đặc sắc nhất và là kết tinh của toàn bộ thi pháp Tây Phương.

    Nói chung, Lễ hội Xisan của Quảng Đông đã dựng lên một tượng đài bất tử cho Tây quân. Những người lính ấy không chỉ là những thanh niên đang độ tuổi sung sức mà còn là những anh hùng làm rạng danh non sông đất nước. Họ có tình yêu quê hương đất nước, tình nghĩa vợ chồng, khát vọng hòa bình và nguyện phụng sự Tổ quốc. Đây là một lí tưởng hết sức cao cả, trung thành, cao đẹp. Và Quang Dũng đã tạo hình thành công hình tượng người lính ấy!

    Vui lòng tham khảo thêm phần tài liệu của hoatieu.vn để biết thêm thông tin hữu ích.

Nguồn: https://anhvufood.vn
Danh mục: Giáo Dục

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *