NORMAL SALINE LÀ GÌ

NORMAL SALINE LÀ GÌ

Xử lý dung môi để pha chế và sử dụng là công việc hàng ngày của y tá. Vì vậy, việc lựa chọn dung môi pha chế dược phẩm thích hợp để nhân viên y tế tham vấn cũng là một trong những nội dung hàng đầu của công tác dược lâm sàng trong bệnh viện. Tuy nhiên, dường như không có tài liệu hoặc bài báo nào đề cập đầy đủ đến các dung môi thường được sử dụng trong thực hành lâm sàng. Vì vậy, bài viết này bước đầu nêu một số đặc điểm của các loại dung môi này nhằm giúp các nhân viên y tế hiểu rõ hơn và vận dụng vào thực tế lâm sàng.

Bạn đang xem: Nước muối sinh lý thông thường là gì

Bạn Đang Xem: NORMAL SALINE LÀ GÌ

Dung môi: Trong hóa học rộng rãi, dung môi là chất lỏng, rắn hoặc khí được sử dụng để hòa tan một chất tan trong một chất rắn, lỏng hoặc khí khác. Theo nghĩa hẹp trong phạm vi của tài liệu này, dung môi là chất lỏng được sử dụng để hòa tan một chất rắn hoặc lỏng (thuốc) để tạo thành một dung dịch đồng nhất để sử dụng trong điều trị. Do đó, đối với hệ phân tán không đồng nhất như hỗn dịch thuốc, khi dược chất rắn không tan và chỉ phân tán đồng đều trong chất lỏng thì chất lỏng đó không được gọi là dung môi mà gọi là chất dẫn hay trường phân bố trung bình.

Độ thẩm thấu của dung dịch: là thước đo số lượng các hạt chất tan có trong dung dịch, không phụ thuộc vào khối lượng, kích thước hoặc bản chất. các tính chất hóa học của hạt. Các hạt chất tan ở đây có thể là phân tử, nguyên tử hoặc ion. Ví dụ, phân tử glucozơ trong dung dịch không phân ly nên 1 phân tử tương đương với 1 hạt, ngược lại phân tử nacl trong dung dịch phân ly thành ion na + và ion cl- nên 1 phân tử nacl tương đương với 2 tiểu đơn vị. Độ thẩm thấu của dịch truyền y tế thường được biểu thị bằng đơn vị osmol / l hoặc mosmol / l. Công thức của áp suất thẩm thấu là:

Ví dụ 1: Đối với dung dịch 0,9% nacl, tức là dung dịch chứa 9 g nacl trong 1 lít dung môi, chúng ta thu được số mol của dung dịch: 9 / 58,5 = 0,154 mol / l = 154 mmol / l (Khối lượng phân tử của nacl là 23 + 35,5 = 58,5). Do đó, áp suất thẩm thấu của dung dịch là: 154 mmol / l x 2 = 308 mosmol / l.

Ví dụ 2: Với dung dịch glucozơ 5%, tức là 50 gam glucozơ trong 1 lít dung môi, ta thu được số mol của dung dịch: 50/180 = 0,278 mol / l = 278 mmol / l. Do đó, độ thẩm thấu của dung dịch glucose 5% là: 278 mmol / l x 1 = 278 mosmol / l.

Trong các sản phẩm dịch truyền đang lưu hành trên thị trường, chúng ta đều thấy độ thẩm thấu của dung dịch, đơn vị là mosmol / l.

Áp suất thẩm thấu của huyết tương xấp xỉ 290 mosmol / l, vì vậy dung dịch có độ thẩm thấu xấp xỉ 290 mosmol / l được coi là dung dịch đẳng trương. Tương tự như vậy, dung dịch có áp suất thẩm thấu nhỏ hơn đáng kể 290 mosmol / l được gọi là dung dịch nhược trương , trong khi dung dịch có áp suất thẩm thấu cao hơn đáng kể được gọi là dung dịch. Dịch ưu trương . Độ thẩm thấu của natri clorid 0,9% và glucose 5% lần lượt là 308 và 278 mosmol / l, tức là khoảng 290 mosmol / l, vì vậy hai dung dịch này được coi là dung dịch đẳng trương.

Xem Thêm : Phân hiệu là gì? Hoạt động của phân hiệu?

2.1. Nước cất pha tiêm:

Nước cất pha tiêm dùng trong lâm sàng thường được đóng gói với ống / lọ trong bao bì của nhà sản xuất (ví dụ: rocephin thương hiệu Roche) hoặc dưới dạng ống / chai nước cất riêng lẻ ở thể tích ống 5ml, 10ml hoặc đóng chai 500ml. Đây là một dung môi có độ pH trung tính, vô trùng, giảm trương lực thường được sử dụng để hoàn nguyên và pha loãng thuốc để tiêm bắp và tiêm tĩnh mạch. Thể tích cần thiết khi tiêm bắp thường là 3-5 ml (dung môi lớn hơn 5 ml ít được sử dụng vì thuốc có thể tích tụ gây hoại tử cơ), và 5-10 ml khi tiêm tĩnh mạch chậm. Nước cất pha tiêm dùng được cho hầu hết các loại thuốc trừ thuốc tan trong dầu (như diazepam, testosteron …).

Lọ 500 ml hiếm khi được sử dụng để pha loãng thuốc tiêm vì đưa một lượng lớn dung dịch giảm trương lực vào cơ thể không có lợi về mặt sinh lý (dẫn đến sưng và vỡ hồng cầu). Chai 500ml này chủ yếu được sử dụng để pha loãng các dung dịch khác (ví dụ, pha loãng 0,9% natri clorua thành dung dịch natri clorua 0,45%) hoặc để làm nóng và làm ẩm luồng không khí trong máy thở. Sở dĩ phải làm ẩm luồng khí là do không khí từ máy thở đến phổi bệnh nhân bị khô, khi hít vào có thể gây khô đường thở, khô đờm, gây tắc ống nội khí quản, tắc phế quản, tắc khí quản và các tác hại khác. Hoạt động. Nhung mao thở.

2.2. Dung dịch natri clorua:

Dung dịch natri clorid dùng để pha chế thuốc tiêm truyền thường dùng có nồng độ 0,9% hay còn gọi là nước muối thường (trong y văn thường gọi là nước muối thông thường – viết tắt là ns), có dạng chai 100ml, 250ml và 500ml. Natri clorua 0,9% là một dung dịch đẳng trương (độ thẩm thấu là 308 mosmol / l), với phạm vi pH từ 4,5 đến 7, chứa 154 meq ion na + và cl- trên một lít dung dịch. Natri clorid 0,9% tương thích với hầu hết các loại thuốc, trừ một số trường hợp đặc biệt như không tương thích với kháng sinh pefloxacin và thuốc chống loạn nhịp amiodaron (cả hai đều cần glucose 5% làm chất pha loãng). Thận trọng đối với bệnh nhân suy tim sung huyết, phù nề, tăng natri huyết khi dùng natri clorid làm dung môi hoặc dịch truyền. Trong thực hành lâm sàng, phải cẩn thận để tránh nhầm lẫn với các dung dịch natri clorid có nồng độ khác với dung môi, chẳng hạn như 0,45% (để bù nước), 3%, 5% và 10% (để bù nước và điều trị hạ natri máu).

Xem thêm:

2.3. Dung dịch glucoza:

Nồng độ của dung dịch glucose được sử dụng trong pha truyền thường là 5%, đôi khi là 10%. Các dung dịch dextrose có nồng độ cao hơn hiếm khi được sử dụng vì tính ưu trương và tính axit của các dung dịch này tạo ra kích ứng và nguy cơ viêm tắc tĩnh mạch ngoại vi. Dung dịch glucose 5% là dung dịch đẳng trương (độ thẩm thấu 278 mosmol / l), không chứa chất điện ly, pH hơi chua (3,5 – 6,5) nên dung dịch glucose có thể làm biến chất các thuốc không bền trong môi trường. amoxicilin, ampicilin). Dung dịch glucozơ dễ bị phân huỷ và là môi trường cho vi sinh vật phát triển nên nếu dùng làm dung môi thì dung dịch thuốc sau khi pha phải dùng ngay, không được để lâu. Không giống như các dung môi khác, dung dịch glucose cung cấp năng lượng, khoảng 170 kcal / lít glucose 5%.

Xem Thêm : [Hỏi đáp] Số hskh là gì

Trong thực hành lâm sàng, khi lựa chọn dung dịch glucose làm dung môi, cũng cần phải chú ý đến tình trạng thể chất của bệnh nhân. Ví dụ, dung môi này không thích hợp cho bệnh nhân tiểu đường. Một ví dụ khác là điều trị hạ kali máu nặng. Sau đó truyền tĩnh mạch với kali clorid đậm đặc, pha loãng với một lượng lớn natri clorid 0,9% hoặc glucose 5%; nhưng không ưu tiên glucose, vì truyền một lượng lớn dung dịch glucose vào cơ thể sẽ dẫn đến tăng tiết insulin, và insulin có tác dụng thúc đẩy kali từ ngoại bào Vai trò vận chuyển vào tế bào do đó có thể làm giảm bớt bệnh. Kali máu xấu đi.

Do những lý do trên, khi không thể sử dụng dung dịch natri clorid 0,9%, chẳng hạn như cần phải pha loãng thuốc pefloxacin và amiodaron, thì dung dịch glucose 5% hầu như chỉ được chọn làm dung môi.

2.4. Các chất lỏng tiêm tĩnh mạch khác:

Các dịch truyền khác như dung dịch Ringer, dung dịch Hartmann, dung dịch bicarbonat, dung dịch dextran, mannitol, albumin … hầu như không được dùng làm dung dịch do có thể tương kỵ với thuốc. Chất pha loãng dược phẩm thông thường.

-Không được tự ý chọn dung môi khi chưa biết tương hợp / tương kỵ: Tránh nguy cơ không rõ tương hợp, không pha thuốc tiêm truyền tùy ý.

– Thuốc phải được pha loãng theo nồng độ như hướng dẫn: Mỗi loại thuốc có một tỷ lệ dung môi pha loãng khác nhau. Tỷ lệ giữa dược chất và dung môi sẽ quyết định tính chất của sản phẩm thuốc và phương thức sử dụng. Nếu hỗn hợp quá đặc, thuốc sẽ kết tủa do chưa được hòa tan hết. Ngược lại, nếu pha thuốc quá loãng, thuốc sẽ không đạt được nồng độ mong muốn trong máu. Hình 1 mô tả những thay đổi trong dung dịch thuốc cefuroxime (tên thương mại zinacef) được pha loãng với các lượng dung môi khác nhau.

Một số loại thuốc yêu cầu một tỷ lệ pha loãng nhất định, tức là một lượng dung môi nhất định, phải được tuân theo để đảm bảo an toàn cho bệnh nhân. Ví dụ, tienam kháng sinh (imipenem + cilastatin) phải được pha loãng đến nồng độ 5 mg imipenem / 1 ml, vì vậy mỗi lọ chứa 500 mg imipenem cần phải có ít nhất 100 ml dung môi pha loãng ( Hình 2 ). mạnh>). Hoặc azithromycin đường tiêm, phải pha loãng đến nồng độ 1-2 mg / ml, do đó, 500 mg azithromycin mỗi lọ phải được pha với ít nhất 250 ml dung môi. Hoặc thuốc có nguy cơ cao cần lưu ý là kali clorid đậm đặc 10% mỗi ống 10 ml, thường phải pha loãng với 250 ml dung môi trước khi sử dụng để tránh nguy hiểm cho người bệnh.

Kết luận: Chọn một dung môi thích hợp để pha chế thuốc cũng có thể giúp đảm bảo hiệu quả của thuốc và sự an toàn của bệnh nhân. Vì vậy, nhiệm vụ của dược sĩ lâm sàng là hướng dẫn và tư vấn cho nhân viên y tế trong việc lựa chọn dung môi và tỷ lệ pha chế. Tại mỗi bệnh viện, dược sĩ lâm sàng cần chuẩn bị hướng dẫn lựa chọn dung môi và tỷ lệ cho từng biệt dược sử dụng trong bệnh viện, trong đó có thể có thêm thông tin về bảo quản sau thành phần, cách pha loãng, tốc độ truyền, thông tin tương thích – dung môi … để đảm bảo phù hợp. sử dụng thuốc. Hy vọng rằng bài viết này sẽ bước đầu cung cấp cho đồng nghiệp những thông tin liên quan về các chất pha loãng dược phẩm thường dùng, để tiện cho việc tìm hiểu và ứng dụng trong công việc hàng ngày.

Tham khảo:

Nguồn: https://anhvufood.vn
Danh mục: Kinh Nghiệm

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *