Thuyết minh về một giống vật nuôi hay nhất (dàn ý | Ngữ văn lớp 8

Thuyết minh về một giống vật nuôi hay nhất (dàn ý | Ngữ văn lớp 8

Thuyết minh về con vật nuôi

Bài tường thuật về giống vật nuôi hay nhất (dàn bài + 8 bài văn mẫu)

Tiêu đề: Mô tả giống vật nuôi

Bạn Đang Xem: Thuyết minh về một giống vật nuôi hay nhất (dàn ý | Ngữ văn lớp 8

Tổng quan về mô tả giống vật nuôi

I. Lễ khai trương

Dẫn dắt, giới thiệu chủ thể trần thuật: Con lợn (đường Bắc) hay con lợn (đường Nam).

Hai. Nội dung bài đăng

1. Nguồn gốc

– Có nguồn gốc từ Âu Á.

– Lợn nhà ngày nay là hậu duệ của lợn rừng thuần hóa.

2. Tính năng

– Hình dạng đối tượng:

+ có bốn chân, chân thấp và móng guốc

+ phủ đầy lông

+ có cánh mũi to, đầu mũi to.

+ Đôi tai lớn, nhọn.

-Hành vi cố hữu của Lợn (lợn):

+ là loài ăn tạp.

+ Có khứu giác tốt và thích đào bới.

+ Thích sống nơi ẩm mát.

+ sinh nhiều con, nhiều đời.

3. Vai trò trong cuộc sống

– Một số giống lợn được nuôi làm vật nuôi, thú cưng.

– Cung cấp thịt và da sống làm thức ăn.

– Dùng để trao đổi, mua bán nhằm tăng thu nhập cho người nông dân.

– Lợn, thịt lợn thường được dùng trong các lễ, tế, thờ cúng.

– Lợn còn là nguồn cảm hứng sáng tạo nghệ thuật (nó xuất hiện trong thơ ca, nghệ thuật, văn học…)

Xem Thêm: Viết một bài văn chứng minh Tiếng Việt là một thứ tiếng giàu và đẹp.

Ba. Kết thúc

– Nhắc lại vai trò của con lợn đối với đời sống con người và cảm nhận của các em về bài đồng dao rất quen thuộc và bổ ích này.

Truyện kể về giống vật nuôi – chó

Chó là loài động vật đầu tiên được con người thuần hóa vào cuối kỷ Băng hà cách đây 10.000 năm. Tổ tiên của chó, bao gồm cáo và chó sói, là động vật có vú. Con chó mà chúng ta thấy ngày nay đã tiến hóa từ một con chó con màu xám. Vào cuối kỷ băng hà cuối cùng cách đây 40.000 năm, sói sống bên cạnh con người và săn mồi theo đàn. Sau này, con người đã thuần hóa chúng trở thành chó nhà. Trong tiếng Việt, nhiều người gọi là cầy. Nó có những cái tên quen thuộc như chó, ki ki, nhưng nhiều người đã đặt cho nó nhiều cái tên lạ mắt. Thuộc loài bốn chân, ăn tạp.

Chó có 4 chi: 2 chân trước và 2 chân sau: hình nỏ, bụng thon, chân thường có 4 ngón và móng guốc lủng lẳng. Chó rất dễ ăn, thức ăn thường là cơm và bã canh do chủ để lại. Một số giống chó Nhật, hoặc chó chăn cừu được nuông chiều, ăn lá lách lợn, bò vụn, v.v… Chó có bốn móng treo, thường gọi là “bốn chân” là dấu hiệu của chó thông minh. Người xưa có câu:

Chó bao gồm từ giống chó rất nhỏ, chẳng hạn như chó xù (chỉ lớn hơn mèo một chút), đến giống chó rất lớn, chẳng hạn như chó huy hiệu. Lúc mới sinh chó chưa có răng nhưng đến 4 tuần tuổi thì đã có 28 chiếc răng. 42 khi trưởng thành hoàn toàn. Mắt chó có ba mí. Tai của chúng có thể nhận được 35.000 rung động trong một giây. Đặc biệt: Khứu giác của chúng cũng rất tốt, có khả năng đánh xa cực xa, có thể phân biệt và ghi lại mọi mùi, có thể phân biệt gần 220 triệu mùi. Vì đôi tai của nó rất nhạy, có thể nghe và nhận biết những âm thanh rất nhỏ nên người ta thường nuôi nó để đề phòng và bắt trộm. Xưa nay đã có rất nhiều câu chuyện, bộ phim kể về khả năng săn bắt cướp tài tình của loài chó. Nó cũng đã sát cánh cùng những người lính vượt qua những nguy hiểm và truy lùng những tên cướp man rợ. Nhưng hơn thế nữa, đặc điểm nổi bật của nó là lòng trung thành. Có rất nhiều câu chuyện có thật về chú chó hàng chục năm đi tìm nửa vòng trái đất để tìm về với người chủ tội nghiệp của mình. Khi nó đến, nó rất già yếu, lông lá và gầy guộc. Ông chủ ốm đau nhưng anh vẫn vui vẻ và gắn bó với ông hơn cả khi ở bên ông chủ giàu có. Sư phụ chết vì bệnh, mọi người chôn cất ngoài nghĩa trang, ông cũng nằm trong mộ, chết vì tuyệt thực. Trong những năm gần đây, giai thoại quốc tế còn kể câu chuyện về một người đàn ông tuyên bố kết hôn với một con chó. Có rất nhiều điều đáng để suy nghĩ: một là người này không tầm thường, hai là anh ta muốn chứng minh cho cả thế giới thấy rằng loài chó rất đáng yêu và trung thành, chúng có thể làm bạn với con người hàng trăm năm, và chúng thực sự là một người bạn và một người bạn tri kỉ của con người.

Trong văn học Việt Nam có hình ảnh những chú chó nổi tiếng như Lão Hạc, Golden Dog, Bucky của Jack London trong văn học nước ngoài.

Gần đây, anh đảm nhận vai chính trong nhiều bộ phim phương Đông và phương Tây, chiếm được cảm tình của nhiều khán giả. Nhiều giống chó đẹp đã du nhập vào nước ta như Poodle Trung Quốc, Poodle Nhật, Chó chăn cừu Anh-Pháp-Mỹ-Đức. Ở Việt Nam có một giống chó rất thông minh, to gần bằng chó chăn cừu ở đảo Phú Quốc, gọi là chó Phú Quốc. Trong cuộc sống văn minh ngày nay, nước ta đã lập ra rất nhiều lớp huấn luyện chó như săn bắt trộm, bắt trộm, giữ nhà.

Ở một số nước kinh tế phát triển, người ta làm giàu từ các dịch vụ nuôi chó, như: xây nhà cho chó, salon cho chó, đóng hộp thức ăn cho chó, tổ chức tang lễ cho chó…

Chó là loài vật có ích gần như không thể thiếu đối với đời sống con người. Dù giàu hay nghèo, cá nhân hay doanh nghiệp, vẫn luôn có người nuôi nấng và bảo vệ loài vật đáng yêu này.

Nhưng đôi khi những con chó không may mắc virus dại trở nên rất hung dữ cắn người, ai bị cắn thì phát điên mà chết… nên người nuôi chó phải có trách nhiệm tiêm phòng dại cho nó. Một số người vô nhân tính chuyên bán và ăn thịt chó. Ở Việt Nam là chuyện bình thường, nhưng với các nước phương Tây thì đó là điều dã man.

Xem Thêm : Giải đáp thắc mắc khối A gồm những môn nào

Nếu ai đã từng yêu thương và chăm sóc một chú chó thì mới hiểu hết được sự thông minh và trung thành của nó thì hãy có trách nhiệm chăm sóc nó thật tốt và để nó cùng bạn sống một cuộc đời hạnh phúc.

Tuyên bố về giống vật nuôi – lợn

Cuộc sống con người sẽ tẻ nhạt biết bao nếu không có sự đồng hành của động vật. Nếu như những chú mèo con dễ thương là thú cưng của nhiều người, những chú chó là người lính canh dũng cảm thì những chú heo hiền lành, đáng yêu luôn mang đến cho con người những phút giây thư giãn và yêu đời hơn.

Có lẽ ai cũng biết đến loại động vật này, và lợn đã trở thành vật nuôi quen thuộc của chúng ta. Lợn nhà có nguồn gốc từ lợn rừng, được con người săn bắt và hái lượm đầu tiên, họ bắt lợn rừng và mang về nhà. Dần dần, người dân nhận thức và chọn lọc những con lợn tốt để nuôi, còn những con kém chất lượng có thể bị giết thịt để làm thức ăn. Tổ tiên của lợn là lợn rừng, điều này cho thấy lợn nhà tiến hóa từ các giống lợn rừng châu Âu và châu Á.

Giống lợn được chia thành giống chính và giống phụ. Trong các khu rừng ở Châu Á và Châu Âu, có tới bốn giống lợn chính và 25 loại lợn phụ. Lợn ngày nay bao gồm ba giống lợn châu Á, sus directionalis, sus vitatus, và một giống lợn châu Âu, sus crofa. Lợn rừng và lợn peccary cũng là những giống lợn khác nhau ở vùng nhiệt đới và ôn đới. Lợn nước hay lợn đầm lầy là loài lợn thích nghi với động vật bán thủy sinh.

Lợn thuộc loài vật có guốc. Kích thước và hình dạng lợn thường khác nhau tùy theo giống. Lợn có chiều dài đầu và thân lên tới 190.500 mm và chiều dài đuôi từ 35-450 mm. Lợn trưởng thành nặng tới 350 kg. Đôi mắt của chúng nhỏ và phẳng, nằm trên đỉnh hộp sọ. Tai lợn dài và cụp xuống, gần chóp có một chùm lông. Sọ lợn thường dài và có một đầu khá bằng phẳng. Mũi lợn to bằng nắm tay và khá linh hoạt. Lợn có móng guốc ở cả bốn chân, nhưng chỉ có ngón giữa là hoạt động được. Chú lợn có bộ lông màu trắng hồng điểm một vài chiếc lông trắng.

Thịt lợn thơm ngon, tỷ lệ thịt xẻ và tỷ lệ mỡ thịt cao. Lợn có thể tiết ra nhiều mỡ. Chất béo là nguồn năng lượng quan trọng và giúp thịt có hương vị thơm ngon hơn. Ngoài ra, thịt lợn là loại thực phẩm có giá bán cao và thị trường ổn định. Lợn có nhiều đóng góp quý giá cho cuộc sống con người. Phần lớn xác thịt lợn được dùng để chế biến hoặc làm thức ăn cho người. Da heo có thể được sử dụng cho thực phẩm hoặc công nghiệp da, và lông thú có thể được sử dụng cho bàn chải và bàn chải. Sự phát triển của công nghệ chế biến thịt hun khói và thịt lên men đã cho ra đời nhiều sản phẩm thịt lợn đa dạng, giúp ích cho quá trình bảo quản sản phẩm thịt lợn, nâng cao chủng loại, hương vị và chất lượng sản phẩm thịt lợn, nâng cao chất lượng khẩu phần ăn của con người.

Sau khi được thuần hóa, lợn nhanh chóng trở thành hàng hóa có giá trị trong thương mại và buôn bán. Trước khi có tiền, người ta đổi lợn lấy hàng hóa khác. Quá trình mua bán diễn ra cũng đồng nghĩa với việc đàn lợn bắt đầu có giá trị kinh tế. Việc bán lợn và các sản phẩm từ lợn mang lại nguồn thu nhập cho hàng triệu nông dân trên khắp thế giới. Các sản phẩm này có tác động sâu rộng đến các hoạt động thương mại khác như: buôn bán, vận tải, chợ, giết mổ, chế biến thực phẩm, v.v. Ngoài ra nó còn có tác dụng kích thích đối với các ngành thiết bị như chế biến thực phẩm, chăn nuôi, tinh dịch, thú y. Khi lợn có giá trị kinh tế, chúng là một hình thức tiết kiệm của người dân.

Lợn được coi là một loài vật nuôi quan trọng không chỉ vì giá trị thực phẩm mà còn vì giá trị văn hóa độc đáo của nó. Điều này được thể hiện trong các bài hát, bài thơ, tranh, ảnh và sách. Lợn được cho là có đặc điểm của con người. Xuất hiện như một anh hùng hoặc nhân vật phản diện trong truyện ngụ ngôn.

Lợn vừa mang lại lợi ích to lớn cho con người vừa có giá trị tinh thần to lớn. Vì vậy, chúng ta cần quan tâm và yêu thương loài động vật này.

Văn tự sự về giống vật nuôi – con trâu

Từ bao đời nay, hình ảnh con trâu kéo cày trên cánh đồng đã rất quen thuộc và thân thương với người nông dân Việt Nam. Vì vậy, đôi khi con trâu trở thành tay sai của nhà nông:

Trâu ơi, tao nói trâu này

Con trâu cùng tôi cày ruộng.

Trồng trọt tài nguyên nông nghiệp

Tôi ở đây, người sẽ lo cho đại chúng…

Trâu Việt Nam có nguồn gốc từ trâu rừng đã được thuần hóa và thuộc họ trâu đầm lầy. Trâu rừng là tổ tiên của trâu nhà, ra đời ở vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa ẩm thấp của Đông Nam Á, hiện vẫn còn tồn tại ở miền Trung nước ta. Khoảng 5, 6 nghìn năm trước, với sự ra đời của nền văn minh lúa nước, trâu đã được thuần hóa. Người Việt cổ đã biết săn trâu và thờ trâu để giúp đỡ con người trong việc đồng áng.

Xem Thêm: Phân tích bài thơ Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải | Văn mẫu lớp 9

Trâu là loài động vật có vú thường có da và lông mao màu đen. Da trâu rất dày, mịn như áo choàng. Làn da căng bóng nhờn lộ ra dưới lớp quần áo đẹp. Con trâu có cái đuôi dài thường vung vẩy như cái quạt để đuổi ruồi muỗi. Đôi tai dài của nó cho phép nó nghe được môi trường xung quanh. Người nông dân có thể phân biệt trâu tốt xấu một phần nhờ cặp sừng trên đầu. Con trâu có cặp sừng dài và cong hình lưỡi liềm, giúp trâu tạo dáng và xua đuổi kẻ thù. Đặc điểm rất nổi bật của trâu là không có răng hàm trên, có lẽ vì thế mà trâu phải nhai thức ăn. Không giống như các loài động vật khác, nó có một kiểu ngủ rất cụ thể. Hai chân trước gập vào trong, gối đầu vào đó để ngủ.

Mỗi năm chỉ đẻ một hoặc hai lứa, mỗi lứa một lứa. Trâu nuôi con bằng sữa từ tuyến vú. Trâu con gọi là nghé, nghé mới sinh nặng khoảng 22-25 kg. Sau khi sinh vài giờ đến một ngày, bê con đã có thể đứng thẳng, vài ngày sau là có thể mở mắt và cùng mẹ đi lại. Con bê lớn rất nhanh và không có sừng, khi đã lớn thì sừng sẽ dần mọc ra nhưng phần bên ngoài.

Con trâu là con vật rất có ích Bạn nông dân: “Con trâu đi trước, cái cày theo sau”. Ngày xưa chưa có máy cày, con trâu phải chịu thương chịu khó, chịu khó nhọc nhằn, sáng sớm hay trưa nắng gắt trên đường làng, trâu vẫn kiên nhẫn cần cù cày ruộng cấy lúa cùng người nông dân. Trâu không chỉ kéo cày giúp con người trồng lúa, trồng hoa màu mà còn là di sản của người nông dân. Chẳng phải các cụ ta đã nói: “Trâu làm đầu” hay sao? Thật vậy, con trâu rất quan trọng trong đời sống của người nông dân. Điều đó cũng đã đi vào dân gian cùng với những câu ca dao quen thuộc:

Tậu trâu, cưới vợ, dựng nhà

Ba điều này khó thay đổi

Trâu còn cung cấp sữa cho con người. Mỗi con trâu có thể cho 400 – 500 lít sữa trong một chu kỳ vắt sữa. Da trâu, mặc dù không tham gia sản xuất các sản phẩm độc đáo như giày và túi, nhưng có thể được sử dụng làm bề mặt thô ráp, giống như một số loại da khác, do tính chất dai của nó. Tiếng trống gắn liền với học sinh, trường học và lễ hội. Sừng trâu còn có thể dùng để làm tù và đồ thủ công. Phân trâu là một loại phân bón tuyệt vời.

Những chú trâu không chỉ gắn bó với người nông dân, mà còn góp phần tạo nên những kí ức tuổi thơ thân thương trên khắp các vùng quê Việt Nam. Con trâu là người bạn thân thiết của lũ trẻ thôn quê, hôm cắp sách đến trường, hôm chăn trâu. Nhà thơ Giang Nam đã đích thân nói với Trâu trong bài “Quê hương”:

Khi tôi còn nhỏ, tôi đến trường hai lần một ngày,

Mỗi trang sách nhỏ yêu quê hương.

“Ai nói nuôi trâu là khổ?”

Tôi mơ nghe tiếng chim hót trên cao.

Trong khi đàn trâu thong thả gặm cỏ hay bơi lội trong những con mương mát lạnh, bọn trẻ chơi trò giả chiến. Đôi khi sẽ xuất hiện một khung cảnh rất thanh bình và yên ả: những chàng trai, cô gái chăn trâu nằm trên lưng trâu ngắm nhìn những cánh diều, tiếng sáo bay lượn trên bầu trời. Hình ảnh những đứa trẻ chăn trâu tuyệt vời được họa sĩ Đông Hào đưa vào tranh. Nhìn vào bức tranh này, chúng ta nhớ đến bài thơ của vua Chen Rendong trong “Phong cách viết trên thiên đường”: “Người chăn cừu thổi sáo, và con trâu trở về”. Ngoài ra, trên cánh đồng lúa, chúng tôi còn bắt gặp những đứa trẻ thôn quê vừa chăn bò, vừa đọc sách. Tuổi thơ nông thôn đẹp làm sao!

Trong ngày nay nông thôn đổi mới, máy móc nhiều thì cũng đến lúc trâu nghỉ ngơi. Bạn có nhớ những ngày người nông dân phải kéo cày thay trâu mới thấy được giá trị của việc sở hữu một chiếc cày không? Đặc biệt, chú trâu cũng đã trở thành biểu tượng của Sea Games 22 được tổ chức tại Việt Nam. Biểu tượng “Trâu vàng” mặc đồng phục cầu thủ để chào các vận động viên là sự tri ân đối với những chú trâu Việt Nam và tri ân những người nông dân lao động.

Nhiều thế kỷ trôi qua, có lẽ kể từ buổi sơ khai của nền văn minh lúa nước của người Việt, con trâu cũng đã trở thành vật báu của người nông dân. Trên nền khung cảnh thiên nhiên của làng quê Việt Nam, bên cạnh những cánh đồng xanh mướt, thẳng tắp những cánh cò tung cánh, hình ảnh chú trâu quen thuộc luôn xuất hiện dưới những bức tranh lũy tre của làng quê. Việc chúng ta chăm sóc và bảo vệ trâu là biểu tượng cho việc chúng ta gìn giữ nét văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam.

Truyện kể về giống vật nuôi – chim bồ câu

Hệ sinh thái đa dạng và phong phú là nơi sinh sống của nhiều loài động vật, thực vật và cả con người. Sự đa dạng này làm cho cuộc sống trở nên thú vị, hấp dẫn và thôi thúc con người tìm hiểu, khám phá. Một trong những loài động vật được các nhà nghiên cứu quan tâm và chú ý nhiều nhất là chim bồ câu, loài chim quen thuộc được nuôi làm thú cưng trong các hộ gia đình.

Chim bồ câu phổ biến trên khắp thế giới ngoại trừ sa mạc Sahara và Nam Cực, nhưng có sự đa dạng lớn nhất ở các khu vực châu Á như Indonesia, Malaysia và Úc. Tổ tiên của chim bồ câu hiện đại là chim bồ câu hoang dã, sống ở Châu Âu, Châu Á và Bắc Phi. Chim bồ câu được con người thuần hóa cách đây 5.000 năm. Trên thế giới có khoảng 150 loài chim bồ câu, và ở Việt Nam, phần lớn chim bồ câu là chim bồ câu nhà.

Cơ thể chim hình thoi, da dày, lông mềm bao phủ khắp người. Lông tơ mọc sát vào cơ thể, tạo ra một lớp bọt giữ nhiệt và làm cho cơ thể chim nhẹ. Khi bay, đôi cánh của chim dang rộng sẽ sinh ra một lực đẩy gió giúp cơ thể chim tiến về phía trước. Khi chim ngủ, chúng thường vùi đầu vào đôi cánh để bảo vệ mình khỏi va chạm và chấn thương. Chân chim bồ câu ngắn, gồm 3 ngón, 3 ngón trước và 1 ngón sau giúp chim đứng vững và bám vào cành cây. Mỏ không răng, có sừng, cấu tạo hàm cứng để dễ dàng bưng bê xoong nồi cũng như thu dọn, vệ sinh cơ thể.

Chim bồ câu chủ yếu ăn đậu, lúa, gạo, ngô, cám gạo và các loại thức ăn khác, uống nước sạch. Tùy theo giai đoạn sinh trưởng mà chim bồ câu có khẩu phần ăn khác nhau. Chim bồ câu trong điều kiện nuôi nhốt thường được cho ăn thức ăn công nghiệp giàu khoáng chất và vitamin.

Bồ câu được nuôi để làm cảnh hoặc nuôi công nghiệp. Hàm lượng dinh dưỡng trong thịt chim bồ câu rất cao, thường được chế biến thành cháo. Về tâm linh, chim bồ câu là biểu tượng của hòa bình, tượng trưng cho sự thuần khiết, hài hòa và hy vọng. Ngoài ra, chim bồ câu còn tượng trưng cho sự thăng hoa của tình yêu.

Mặc dù nhiều loài chim bồ câu đã được con người nhân giống và mang lại lợi ích, nhưng những loài khác đang bị đe dọa hoặc thậm chí tuyệt chủng, chẳng hạn như chim bồ câu viễn khách và chim dodo. Đứng trước nguy cơ này, con người cần quan tâm và áp dụng các biện pháp bảo tồn để ngăn chặn nguy cơ tuyệt chủng. Luật pháp và các quy định nên được đưa ra để tăng cường áp lực săn bắn. Thành lập các khu bảo tồn để ngăn chặn thiệt hại môi trường giúp bảo vệ quần thể chim bồ câu trên thế giới.

Xem Thêm : Phương pháp phân tích một bài thơ, đoạn thơ Cách phân tích thơ đạt điểm cao

Chim bồ câu gắn bó với đời sống tinh thần của người dân, đồng thời mang lại nguồn lợi kinh tế đáng kể. Sử dụng và phát triển hợp lý, có quy hoạch phát triển lâu dài, bảo đảm cân bằng và phối hợp giữa lượng và chất của hệ sinh thái và nhu cầu của con người.

Truyện kể về giống vật nuôi – con mèo

Mèo – Một vật nuôi phổ biến của con người. Trong một thời gian dài, họ đã trở thành những người bạn tốt nhất của chúng tôi trong cuộc sống.

Mèo là một loài động vật có vú ăn thịt nhỏ. Nguồn gốc của con mèo được coi là mèo hoang châu Phi. Khoảng 9.500 năm trước, mèo nhà bắt đầu sống gần gũi với con người. Cho đến ngày nay, chúng vẫn là một trong những vật nuôi của con người.

Mèo dài từ 25 – 30 cm và nặng từ 2,5 kg đến 7 kg. Mèo có thân hình nhỏ nhắn, đầu nhỏ, cử động linh hoạt. Mèo có đôi mắt rất tinh tường có thể nhìn thấy khoảng cách rất xa và phát sáng trong bóng tối. Họ cũng có đôi tai mèo đẹp. Hầu hết mèo đều có đôi tai dựng đứng. Do tính chất rất năng động của cơ tai, mèo có thể xoay người theo một hướng và dựng tai theo hướng khác. Con mèo đen mũi ươn ướt ngoan ngoãn. Bàn chân của mèo nhỏ và thon, phần tiếp xúc với mặt đất của mèo có móng vuốt và miếng đệm giúp nó đi lại trên bề mặt gồ ghề. Mèo có bộ lông dày và rậm rạp. Bộ lông của chúng mềm và có màu phổ biến ở mèo là trắng, vàng, xám xám hay… mèo có đuôi dài và mềm dùng để đuổi ruồi muỗi. Nhưng chức năng chính của nó là giữ thăng bằng cho mèo khi chạy, nhảy, leo trèo.

Ngày nay, mèo cũng được chia thành nhiều loại khác nhau. Người ta nuôi các loại mèo thông thường như mèo mun, mèo tam thể, mèo mướp, mèo vàng, mèo Xiêm, ngoài ra còn có một số giống mèo quý hiếm như: mèo Anh lông ngắn, mèo Anh lông dài, mèo tai cụp. .Tôi thậm chí không thể đề cập đến tất cả các giống mèo.

Mèo được nuôi trong nhà, kiểm soát tốt cơ sở vật chất, chế độ ăn uống, tuổi thọ của mèo thường từ 14 đến 20 năm. Mèo cái dị tính, mang thai ba tháng, đẻ nhiều lứa khoảng ba bốn lứa. Khi mèo con được 1 tháng tuổi, nó cần học các động tác săn mồi như chạy, nhảy, leo trèo, theo dõi và vồ. Thức ăn chủ yếu của mèo là các loại động vật nhỏ như chuột, cóc, ếch nhái… đặc biệt cá và chuột được coi là thức ăn ưa thích của chúng.

Mèo thường sống ở vùng khí hậu ấm áp và thường không khỏe mạnh. Họ cũng thường tránh những nơi ẩm ướt và giữ chúng rất sạch sẽ. Để làm sạch cơ thể, nó thường thè lưỡi, nhổ vào chân rồi đắp lên mặt và toàn thân.

Ngày nay, mèo đã trở thành một trong những vật nuôi yêu thích của con người. Chúng được chăm sóc và nuôi dưỡng rất tốt. Mèo cũng được sử dụng để tạo nên những nhân vật vô cùng quen thuộc với con người, đặc biệt là trẻ em như Doraemon, Hello Kitty. Trong văn hóa dân gian, mèo xuất hiện trong các bức tranh Đông Hà cùng với bức tranh nổi tiếng “Đám cưới chuột”.

Xem Thêm: Mẫu biên bản cuộc họp công đoàn 2022

Vì vậy, dù thời thế có thay đổi nhưng mèo vẫn gắn bó với đời sống con người. Chúng là loài động vật nhanh nhẹn và hữu ích.

Văn tự sự về giống vật nuôi – con vịt

Vịt từ lâu đã được người nông dân nuôi làm gia cầm bởi nhiều lợi ích mà nó mang lại. Đàn vịt vài chục con thong dong bơi lội trên mặt nước ao, đầm hay đàn vịt hàng nghìn con chạy rông trên cánh đồng kiếm mồi, kêu inh ỏi là hình ảnh quen thuộc ở các vùng quê.

Loài vịt chủ yếu ở nước tôi là vịt bầu hay còn gọi là vịt Tàu, vịt cỏ. Loài này có kích thước nhỏ, đầu và mỏ thanh mảnh, màu sắc đa dạng: đen, nâu, xám, xanh đen và trắng, cân nặng chỉ từ 1kg đến 1,5kg. Vịt thường được nuôi theo đàn hàng trăm con hoặc hàng ngàn con. Họ có thể chịu đựng gian khổ và bệnh tật, và rất giỏi kiếm ăn trên đồng ruộng. Vịt đẻ nhiều, trứng nhỏ nhưng ngon. Thịt vịt được nhiều người yêu thích bởi vị ngọt và mặn. Nông dân ở đồng bằng Bắc Bộ và Nam Bộ có xu hướng chăn nuôi vịt trời theo phương thức truyền thống là chăn thả tự nhiên.

Ngoài giống vịt trời còn có giống vịt bầu. Vịt bầu lớn hơn vịt trời, cổ ngắn, chân thấp, bộ lông sặc sỡ và dáng đi lạch bạch. Thịt vịt bầu cũng mềm, ngọt nhưng béo hơn vịt ta. Những gia đình nuôi vịt không chỉ phục vụ nhu cầu dịp Tết, lễ hội mà còn bán vịt để có thu nhập quanh năm. Người dân miền Nam từng nuôi rất nhiều vịt trời có đặc điểm giống vịt bầu miền Bắc để tận dụng nguồn thức ăn dồi dào ở kênh mương, ruộng đồng.

Hiện nay, các trang trại quốc doanh và tư nhân đã đầu tư nhiều vật tư để nuôi giống vịt nhập từ nước ngoài, được gọi là vịt siêu thịt. Vịt siêu thịt được nuôi công nghiệp trong chuồng, cho ăn cám hỗn hợp, được theo dõi và tiêm phòng định kỳ. Trọng lượng của giống vịt này khá lớn, sau 3 tháng nuôi có thể đạt hơn 3 kg. Đặc điểm nổi bật của nó là chất lượng thịt đạt yêu cầu xuất khẩu và được chế biến thành nhiều món ăn cao cấp.

Để nghề chăn nuôi vịt phát triển, mang lại lợi nhuận cao, người chăn nuôi phải nắm vững kỹ thuật chăm sóc từ con giống đến dinh dưỡng, chuồng trại và phòng trừ dịch bệnh. Vịt là loài thủy cầm ăn tạp. Họ có nhiều loại thực phẩm. Các loại cung cấp nhiều chất đạm là gạo, ngô, khoai, sắn, cám. Các loại cung cấp chất khoáng bao gồm bột sò và bột xương. Thức ăn giàu dinh dưỡng giúp vịt khỏe mạnh, mau lớn, đẻ nhiều trứng và chất lượng thịt thơm ngon.

Trong giai đoạn hiện nay, ngành chăn nuôi trong đó có chăn nuôi vịt trời góp phần không nhỏ vào sự phát triển kinh tế chung của đất nước. Vịt là giống gia cầm mang lại nhiều lợi ích cho đời sống con người và là nguồn thu nhập thường xuyên của người nông dân.

Văn tự sự về giống vật nuôi – Con gà

Nông thôn Việt Nam rực rỡ sắc màu nhưng cũng rất yên bình, có giấc mơ của người nông dân, với cây đa, giếng nước, mái đình, đàn trâu,… Nhưng gần gũi nhất với mỗi thành viên trong gia đình có lẽ là gia đình. trước cửa Đàn gà chạy tung tăng.

Đối với người nông dân Việt Nam, gà nhà luôn là con vật gần gũi và quen thuộc nhất giữa rất nhiều giống gà khác nhau. Gà là vật nuôi lấy thịt và trứng quan trọng nhất đối với con người. Đặc điểm chung của gà là thân hình tròn trịa, cánh ngắn, lông toàn thân. Để thích nghi với cuộc sống đào bới tìm kiếm thức ăn, gà đã được ban cho những móng vuốt to, cùn và cứng được bao phủ bởi lớp vảy sừng mỏng màu vàng cùng chiếc mỏ ngắn và khỏe. Không phải gà đã được thuần hóa ngay từ đầu, mà tổ tiên của chúng là gà lôi không biết bay đã được thuần hóa. Hầu hết thời gian chúng đi trên mặt đất với hai chân chống đỡ cơ thể. Do đó, cơ hồng của gà tập trung chủ yếu ở chân, còn cơ ức và các bộ phận khác là cơ trắng.

Về loài vật này, trẻ thơ có câu ca dao rất dễ thương: gà không biết gáy là gà mẹ. Gà không gáy là vợ của bố. Đi loanh quanh trong sân là đàn gà con. “Chỉ vài dòng đơn giản, chúng ta hãy xem một gia đình gà. Gà trống được coi là gà cha, giống như cha, oai vệ, có cựa nhọn ở chân, bộ lông óng ả, trên đầu có những cái nổi bật. bông hoa màu đỏ vẫn được gọi là mào gà trống.Tiếng gáy to của gà trống luôn được coi là đồng hồ báo thức của gà con.Con gà mái hay gà mái, giống như mẹ, hiền lành và xuất hiện nhanh hơn.Chậm hơn, lông kém sặc sỡ hơn gà trống, nhưng bù lại gà mái có “thiên chức” của người mẹ, khả năng ấp trứng và nở ra những chú gà con rất dễ thương: gà mái đẻ từ 10 đến 20 quả trứng, hầu hết gà mái sau khi đẻ thường sẽ phát ra tiếng kêu “cạch cạch”. niềm phấn khởi của con gà mái, và cũng có thể nói là niềm vui của gà mẹ, một “bà mẹ” với tình mẫu tử mạnh mẽ. Còn sống, con nhỏ có bộ lông vàng óng mượt. Con mới nở là con lập tức có thể theo mẹ đi kiếm ăn .

Đối với gà, hạt gạo, lúa mạch… cũng có thể coi là khẩu vị của chúng. Nhưng ngay cả khi chúng ăn những thứ đó hàng ngày, chúng vẫn thích mổ chỗ này chỗ kia để tìm sỏi và cát. Trên thực tế, vì gà không có răng nên chúng dựa vào một thứ khác để nghiền thức ăn, thứ mà chúng sử dụng để tiêu hóa thức ăn. Thịt gà và trứng là thực phẩm rất bổ dưỡng cho con người.

Gà giữ một vị trí quan trọng trong đời sống văn hóa, ẩm thực không chỉ của người nông dân mà của mọi người Việt Nam từ xưa đến nay. Có thể nói, con gà đã đi vào đời sống tín ngưỡng, văn hóa tinh thần của người Việt Nam. Nó là một trong mười hai cung hoàng đạo, người ta còn trìu mến gọi nó là “gà”. “Con gà” là biểu tượng của sự sống. Ai đã từng đến Việt Nam, hiểu và yêu mến văn hóa dân tộc Việt Nam sẽ không thể nào quên những bức tranh Đông Hoa đầy chất Việt Nam, hình ảnh phong phú, màu sắc cách điệu nhưng lại vô cùng giản dị. Cụ thể như sau: “Quý phái Hoa”, “gà trống”, “gà rút xương”… Trong mắt người Việt Nam, gà rất đáng kính và đáng mến. Từ lâu, bất cứ lễ hội, ngày giỗ truyền thống nào của người Việt Nam đều không thể thiếu con gà. Vào đêm giao thừa, thời khắc giao thừa, nhà nào cũng bày mâm cỗ trước cửa nhà để cầu may mắn, hạnh phúc trong năm mới. Tất nhiên, không có đĩa nào hoàn chỉnh nếu không có gà. Món gà luộc được dọn ra một đĩa lớn ở giữa mâm với một bông hoa hồng trên miệng. Nó là biểu tượng của sự bình an, cát tường mà mọi gia đình đều mong ước. Như một lẽ tự nhiên, gà trống được ví như linh vật của người Việt Nam, là biểu tượng của bình an, hạnh phúc và luôn rất thiêng liêng đối với người dân. Con gà trống cũng đã đi vào văn học, ca dao, tục ngữ của dân tộc. Có câu chỉ mang ý nghĩa kinh nghiệm về văn hóa ẩm thực, ví dụ: “Gà kho lá chanh”, nhưng cũng có câu mang ý giáo huấn như:

Phản ứng khôn ngoan với người ngoài

Gà con cùng mẹ không phải lúc nào cũng đánh nhau

Thời gian gần đây, dịch cúm gia cầm hoành hành khiến cơm gà ở Việt Nam khan hiếm. Mọi người luôn cảm thấy thiếu một cái gì đó, đặc biệt là mỗi đêm giao thừa.

Con gà là biểu tượng của sự sống, hy vọng và hòa bình của người dân Việt Nam. Mong sao dịch cúm được đẩy lùi càng sớm càng tốt, để đàn gà được hồi sinh, trở lại với người nông dân, trở lại với bữa ăn hàng ngày, đến gần với người dân Việt Nam.

Văn tự sự về giống vật nuôi – thỏ

Nhiều loại động vật hoang dã đã được nuôi và sử dụng trong điều kiện nuôi nhốt cùng với việc cải thiện thị hiếu và nhu cầu về chất lượng cuộc sống của con người. Thỏ được con người sử dụng không ngoại lệ để phục vụ cuộc sống vì những đặc tính hữu ích và phổ biến của chúng.

Thỏ là loài động vật có vú phổ biến sống tự do trong điều kiện nuôi nhốt, nuôi nhốt hoặc trong rừng. Thỏ có lông mao dày nên thích hợp sống ở vùng khí hậu ôn đới và ôn đới. Thỏ lần đầu tiên được người châu Âu biết đến vào khoảng năm 1000 trước Công nguyên. Có bảy loại thỏ, điển hình là thỏ rừng châu Âu, thỏ đuôi bông, linh miêu, … Tuổi thọ của thỏ từ bốn đến mười năm, thời gian mang thai là 31 ngày. Thỏ nhà thường yếu hơn thỏ rừng và được thuần hóa và nhốt trong những chiếc lồng lớn để tránh bị săn đuổi bởi những kẻ săn mồi.

Về cấu tạo, thỏ là động vật có bốn chi, chạy nhanh, bộ lông dày, mềm, ấm, nhìn chung có màu trắng, đen hoặc nâu nhạt. Hai tai thỏ dài, bắt tín hiệu cực tốt. Khi đi săn, thỏ thường vểnh tai lên để lắng nghe. Khi nghỉ ngơi, tai thỏ gập dọc theo chiều dài cơ thể. Thỏ có mắt thường có màu đỏ, đen hoặc nâu, nhìn rõ trong điều kiện ánh sáng bình thường và có ống dẫn nước mắt hoạt động nên chúng thích hợp để sống trên cạn. Thỏ có mũi nhỏ và khả năng ngửi. Răng nanh, chủ yếu là hai răng cửa, nhọn, sắc và dài do tập tính gặm nhấm. Thỏ thường có tập tính đào lỗ và làm tổ để sinh con.

Thỏ là động vật ăn cỏ. Nhu cầu dinh dưỡng của thỏ bao gồm nước sạch và thực vật như bắp cải, bông cải xanh và các loại trái cây xanh khác. Trái ngược với suy nghĩ của nhiều người, thỏ không thường xuyên hoặc không thích ăn cà rốt vì thức ăn này quá nhiều đường và cứng. Họ thường dùng củ cà rốt như một công cụ để mài răng cửa. Thỏ ưa lạnh và sống ở nhiệt độ mát mẻ, 10-25 độ là nhiệt độ thích hợp nhất cho sự sinh trưởng và hoạt động sống của thỏ.

Thỏ đóng một vai trò to lớn trong ngành công nghiệp chế biến cũng như ngành thời trang và dược phẩm. Thỏ bị săn bắt hoặc nuôi để lấy thịt. Da thỏ được sử dụng để làm quần áo hoặc phụ kiện như mũ và khăn quàng cổ. Lông thỏ được đính trên trang phục và làm tăng thêm vẻ sang trọng cho người mặc. Phân thỏ cũng là một loại phân bón tốt cho cây trồng. Sữa thỏ có thể dùng làm thuốc hoặc chế biến thành thức ăn bổ dưỡng. Thịt thỏ được dùng làm thức ăn hoặc ngâm rượu. Các món ăn làm từ thịt thỏ vừa đẹp mắt, vừa bổ dưỡng lại có giá trị kinh tế cao. Ngoài ra, trong y học, thỏ được dùng làm vật thí nghiệm cho vắc-xin hoặc mẫu mỹ phẩm. Tuy nhiên, việc thí nghiệm trên động vật đã bị lên án là vô nhân đạo và gây bất lợi cho quần thể thỏ sinh sản tự nhiên trong môi trường.

Về giá trị tinh thần, thỏ là loài động vật có vẻ ngoài dễ thương, bộ lông mềm mại nên thường được nuôi làm thú cưng trong vườn thú hoặc vật nuôi trong gia đình. Trong văn hóa Trung Quốc, con thỏ là một trong mười hai con giáp, tượng trưng cho mười hai tuổi. Thỏ tượng trưng cho sự nữ tính, mềm mại và dễ thương nên thường được tạo hình cách điệu để làm quà tặng hoặc trang trí cho các bé gái. Tuy nhiên, thỏ lại là một loài gây dịch bệnh và phá hoại mùa màng do tập tính của loài gặm nhấm. Ở Úc, thỏ bị bắt và giết để tránh tác động xấu đến môi trường

Thỏ vẫn là loài động vật quen thuộc bị khai thác phục vụ nhu cầu của con người. Quần thể thỏ được nuôi nhốt, kiểm soát là cách tốt nhất để duy trì sự sống của loài động vật này đồng thời giảm thiểu tác động tiêu cực của thỏ đối với môi trường tự nhiên.

Xem thêm các bài văn mẫu lập luận, phân tích, lập dàn ý lớp 8 khác:

  • Bản khai về giống vật nuôi (trâu – 5 mẫu)
  • Tả nghĩa Cây chuối (Dàn bài – 9 bài mẫu)
  • Thuyết minh về một loại cây ăn quả mà em biết (dàn ý – 8 bài mẫu)
  • Văn tự sự về một trò chơi đậm chất Việt Nam (Dàn ý – 7 bài văn mẫu)
  • Văn kể về cái phích nước (dàn bài – 10 bài mẫu)
  • Danh mục mẫu | Tập viết hay lớp 8:

    • Phân tích nội dung, bộc lộ cảm xúc, cảm nghĩ
    • Mục lục rõ ràng
    • Mục lục văn bản tường thuật
    • Nội dung bài viết
    • Giới thiệu kênh youtube vietjack

      Ngân hàng đề thi lớp 8 tại

      khoahoc.vietjack.com

      • Hơn 20.000 câu hỏi và đáp án trắc nghiệm môn Toán, Ngữ Văn lớp 8

Nguồn: https://anhvufood.vn
Danh mục: Giáo Dục