Có thể bạn quan tâm
Đề: Phân tích 12 câu trong đoạn 3 của “Việt Bắc Tiếu”
Bạn Đang Xem: 7 Phân tích khổ thơ thứ 3 của bài thơ Việt Bắc – Tố Hữu mới nhất
Anh đi rồi, em còn nhớ những ngày suối chảy róc rách, mây mù giăng lối? Ta đã trở lại, ngươi còn nhớ rõ cùng Tiên Mật chiến tranh, thâm hận không? Em về, núi rừng nhớ mai rụng, mai nở già. Anh đi em có nhớ túp lều tranh xám đầy tấm lòng trai, nhớ núi non thời chống Nhật, em đi khi còn Việt Minh, em có nhớ tân trạo, hồng tài, mái đa ?
Bài văn mẫu:
Ca dao Việt Nam đặc biệt là đỉnh cao trong sự nghiệp thơ ca của Du Du, đồng thời cũng là đỉnh cao của toàn bộ cuộc Kháng chiến chống Pháp. Có thể nói “Việt Bắc” là một bản tình ca, một bản anh hùng ca, thể hiện tình yêu thủy chung, sâu sắc của nhà thơ đối với căn cứ địa cách mạng của quê hương. Điều này được mô tả rõ ràng hơn trong phần:
Anh đi rồi, em còn nhớ Tết Nguyên Đán, Hồng Tài, mái đình, cây đa?
“Bei Yue” là một kiệt tác sử thi dài 150 dòng được viết vào tháng 10 năm 1954 khi Trung ương Đảng và Chính phủ, Bác Hồ và các cán bộ rời thủ đô gió trở về thủ đô hoa vàng. Nắng Ba Đình Bao trùm cả bài thơ là nỗi nhớ nhung những năm tháng ở chiến khu Việt Bắc, nỗi nhớ da diết, tâm trạng u uất, nỗi nhớ người ra đi – kẻ ở ngược phương, kẻ ra trận.
Xem Thêm: Tương tư là gì? Dấu hiệu khi bạn đang tương tư một người?
Mở đầu bài thơ là một loạt câu hỏi rất ngọt ngào:
Xem Thêm : Chữ Kí Tên Duy Phong Thủy ❤️️ Mẫu Chữ Ký Đẹp Tên Duy
Đi rồi nhớ ngày suối chảy mây mưa về, nhớ chiến tiên phạn mối thù sâu nặng
Hàng loạt điệp ngữ xuất hiện trong khổ thơ gợi cho ta tâm trạng của người ở lại lúc bấy giờ – một nỗi băn khoăn, lo lắng: cán bộ về rồi, chiến khu có nhớ không? Yêu cầu mọi người đặt câu hỏi là vì nhà thơ muốn nhớ lại những năm tháng gian khổ của cuộc Kháng chiến. Nhắc lại thiên nhiên Việt Nam, mưa lũ, mây mù, sương mù, bài thơ miêu tả nét hoang sơ, thời tiết khắc nghiệt của núi rừng Việt Nam, khung cảnh tuy có chút u ám nhưng vẫn chứa đựng chất trữ tình, chất thơ, sự tự do và bệ hạ. Ngoài sự khắc nghiệt, khắc nghiệt của thiên nhiên, tôi và các bạn còn phải đối mặt với cuộc sống thiếu thốn, khổ cực.
Hình ảnh hoán dụ gồng gánh nặng nề trên vai gợi nhớ lòng căm thù sâu sắc của những kẻ phản bội đối với những kẻ phản bội. đồng thời là sự nhắc nhở cẩn trọng những gì còn sót lại của một thời hào hùng, khi chúng ta cùng nhau chiến đấu tiêu diệt kẻ thù chung, giành lại độc lập, tự do, khôi phục nhân loại. Mọi người sống cuộc sống hạnh phúc và thịnh vượng. Nghệ thuật phép đối kết hợp với ngắt nhịp 2/2/2 – 4/4 đều đặn làm cho lời thơ có nhịp điệu cân đối, lời ca thêm trang trọng.
Cảm xúc miên man vẫn là câu hỏi của Việt Nam, nhưng tâm sự của người ở lại ẩn chứa trong lời thơ, thể hiện nỗi nhớ người cán bộ sắp về:
Em về, núi rừng vắng, mai già
Tố Hữu sử dụng ẩn dụ Lâm Sơn ai nhớ ai, Lâm Sơn là hình ảnh người ở lại, đại từ ai là người cán bộ về núi nhằm nhấn mạnh tình cảm, nỗi nhớ da diết của người Việt Nam. cho phong trào kháng chiến, đảng và chính phủ cho da. Thiên nhiên và con người Việt Nam nhớ cán bộ về bao nhiêu lần đổ đầy mơ rụng rồi mai già, bùn và trám mai là hai món ăn hàng ngày của bộ đội và cán bộ phản chiến; đồng thời cũng là đặc sản của thiên nhiên miền Bắc Việt Nam. Sau khi về nước, núi rừng Bắc Bộ bỗng trống trải, hoang vắng không hiểu, thậm chí không còn ai hái măng mai. Những người ở lại bày tỏ tình cảm chân thành, tha thiết.
Xem Thêm: Văn mẫu lớp 9: Nghị luận Ăn quả nhớ kẻ trồng cây 2 Dàn ý & 6 bài văn nghị luận lớp 9 hay nhất
Người Việt tiếp tục hỏi, nhưng ở câu này họ nhấn mạnh câu hỏi một cách cụ thể và rõ ràng hơn: “Cán bộ về xuôi có nhớ phong cảnh Việt Bắc không?” Chiến đấu bên nhau bao năm? “
Đi rồi nhớ đến những căn lán xám xịt trong lòng trai, nhớ núi đồi ngày đánh Nhật, ngày còn Việt Minh.
Cụm từ “nhớ quê hương” – hoán dụ – gợi cảm giác băn khoăn không biết: Cán bộ có nhớ đồng bào Việt Nam không? Nhưng người dân Việt Nam nhớ cán bộ đến mức xấu hổ trát vữa. Từ lá phượng kết hợp với hình ảnh cây lau sậy đặc trưng của Việt Nam càng làm nổi bật khung cảnh hoang vắng, đơn sơ, tĩnh lặng nơi núi rừng.
Nhưng đối lập với khung cảnh ấy là tấm lòng son sắt, tấm lòng chân chất nồng hậu của người Việt Nam. Ngoài ra, người dân Việt Bắc còn muốn biết thêm: Liệu người cán bộ xuống núi có nhớ núi rừng và cảnh sắc thiên nhiên hùng vĩ của Việt Bắc không? Bạn có nhớ khi chúng ta cùng nhau chống Nhật khi còn ở trong Việt Minh không? Chính nghĩa, nghĩa tình của đồng bào Việt Bắc đối với bộ đội và cách mạng; cùng chia sẻ khó khăn, chia sẻ niềm vui và nỗi buồn, cùng nhau gánh vác gian khổ đã làm cho Việt Nam – quê hương cách mạng, cội nguồn của cách mạng – càng rực rỡ trong lòng dân. lòng người đọc.
Xem Thêm : Cảm nhận về bài thơ Thương vợ – Tú Xương | Văn mẫu 11
Cuối bài thơ là nỗi nhớ về những địa danh lịch sử:
Anh đi em có nhớ không, tan trao, hồng thai, mái đình, cây đa.
Chỉ có hai câu nhưng tác giả đã gửi gắm bao cảm xúc và ẩn chứa nhiều điều, đặc biệt là thể thơ lục bát ba chữ, nghe thật chân tình, chân chất. Từ thứ nhất và thứ hai dùng để chỉ cán bộ về, còn từ thứ ba có thể có nhiều cách hiểu.
Xem Thêm: Banner mẫu lễ quốc khánh 2/9
Nếu hiểu theo nghĩa rộng, tôi là người Việt Bắc – ngôi thứ hai – thì hàm ý của bài thơ: Người cán bộ về Hà Nội, không biết người cán bộ có còn nhớ người Việt Nam, nhớ người ở lại không? đằng sau người này? Theo nghĩa hẹp, tôi là cán bộ đã về tiền tuyến – đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất – khiến bài thơ có cách hiểu khác: cán bộ đi thẳng, cán bộ có nhớ mình không? Bạn có còn nhớ quá khứ của mình, những năm tháng chiến đấu hết mình vì lý tưởng cao cả, vì độc lập, tự do của dân tộc? Với cách hiểu thứ hai này, những người ở lại trở thành đề tài bàn tán, vì sợ rằng ai cũng mê chiến thắng, quên đi quá khứ hào hùng, thậm chí phản bội lý tưởng cao cả, vẻ đẹp của chính mình. Nhà thơ trong số các nhà thơ thấy trước diễn biến tâm lí của con người sau chiến thắng, đây quả thực là một dòng trừu tượng rất triết lí.
tân chao, hồng thái, mái đình, cây đa.
Trong phần cuối của phần ba, những người ở lại đã nhắc đến hai địa danh nổi tiếng, có liên quan đến hai sự kiện quan trọng đã từng xảy ra ở Việt Nam. Địa điểm thứ nhất: Sự kiện cây đa (12/1944), nơi đây là nơi làm lễ ra mắt của Đội tuyên truyền Giải phóng quân nhân dân Việt Nam, lúc đầu chỉ có vài chục đội viên, sau trở thành lực lượng chủ lực của Việt Nam quân đội để có được thắng lợi ngày hôm nay.
Địa điểm thứ hai là dinh Hồng Đài, nơi Bác chủ trì cuộc họp (tháng 8 năm 1945) và quyết định tiến hành Cách mạng tháng Tám, độc lập tự do. Tác giả lồng hai địa danh lịch sử vào câu thơ, nhấn mạnh nỗi niềm của người ở lại, đồng thời cũng là một lời nhắc nhở ấm áp: Không biết người cán bộ về xuôi có nhớ rằng Việt Bắc là cái nôi của cách mạng nhân dân Việt Nam, có Cội nguồn của cách mạng? Các cán bộ đang sa sút có còn trung thành với Bắc Việt như trước hay họ đã đổi ý?
Chỉ có 12 câu trong đoạn 3 của Bài ca tiếng Việt, mà “Đúc con đường” đưa ta vào thế giới của hoài niệm và hoài niệm, vào thế giới giai điệu mượt mà, ngọt ngào và du dương của tình nghĩa cách mạng. Một trong những điều hay nhất của phần này là cách sử dụng hai cụm từ đối lập rất thông minh và độc đáo trong yếu tố này: tôi đi – tôi quay lại. Thường thì đi và về chỉ là hai chiều ngược nhau, nhưng đến đoạn này, đi – về chỉ có một chiều là xuôi, về Hà Nội. Kết hợp với nhịp thơ 2/2/2 – 4/4 đều đặn, có cấu tứ, giọng điệu thơ có nhịp điệu, cân xứng như nhịp đưa võng đưa đưa, rất phù hợp với phong cách trữ tình. Tình Yêu – Chính Trị Cánh Hữu.
“Giọng thơ ngọt ngào, thiết tha, giàu tính dân tộc” của Tố Hữu đã góp phần làm nên thành công cho ca khúc Việt Bắc. Những chi tiết nhẹ nhàng, tình người, từ bát cơm chấm muối, bông mơ, búp măng, mái nhà xám xịt, đến ân oán giữa hai bờ vai, tấm lòng không bao giờ phai nhạt, nhà thơ với con người Việt Nam và sự trở về Tổ quốc luôn sống mãi trong tim, trong tâm trí người cán bộ.
Chi tiết xem tại: Phân tích hình ảnh người lính trong bài thơ “Tây tiến” (họa mãi) của Quảng Đông
Nguồn: https://anhvufood.vn
Danh mục: Giáo Dục