Phân tích bài thơ Thương vợ của Tú Xương

Phân tích thương vợ lớp 11

Phân tích thương vợ lớp 11

Video Phân tích thương vợ lớp 11

Tài liệu Phân tích bài thơ Thiếu nữ Mời bạn đọc tham khảo tài liệu gồm hướng dẫn chi tiết cách làm, dàn ý và giới thiệu một số bài văn mẫu hoặc phân tích nội dung, nghệ thuật của bài thơ Thương Vợ(xương đất).

Bạn Đang Xem: Phân tích bài thơ Thương vợ của Tú Xương

Hướng dẫn phân tích thơ vợ yêu

Đề:Phân tích bài thơ “Vợ Yêu” của nhà thơ Đỗ Hùng (Trần Tế Xương).

Tìm câu, tìm ý và phân tích tình yêu của anh dành cho vợ

1. Phân tích chủ đề

– YÊU CẦU: Phân tích nội dung và nghệ thuật của ca dao trữ tình.

– Phạm vi tư liệu, dẫn chứng: Những từ ngữ, chi tiết tiêu biểu trong bài thơ Thương vợ của Dupont.

– Phương pháp lập luận chủ yếu: phân tích.

2. Hệ thống luận điểm

Luận 1: Hình ảnh người bà (6 câu đầu)

+Nỗi vất vả mua bán của bà ngoại

<3

Luận điểm 2: Thương vợ của ông Tú. (2 câu)

Phân tích dàn ý chi tiết bài thơ Vợ

Mở phân tích vợ

– Giới thiệu vài nét về tác giả Du Pont (1870-1907): châm biếm, hài hước, một trong những nhà văn Nho học.

– Dàn ý bài thơ thương vợ – Một trong những bài thơ hay và cảm động nhất viết về vợ của tu bon.

Phân tích body thương vợ

* Phân tích 2 câu

Sông Mama buôn bán quanh năm

Một chồng nuôi năm người con.

-Tình hình kinh doanh của chị Tú:

+ Thời gian “quanh năm”: làm việc liên tục, không trừ năm nào, mưa nắng.

+ Vị trí “Sông mẹ”: Phần đất nhô ra lòng sông chênh vênh ->; miêu tả cuộc sống cơ cực, gian khổ, bấp bênh, nguy hiểm, phải vật lộn mưu sinh.

=>Môi trường làm việc và kinh doanh khó khăn, thăng trầm, bấp bênh, bấp bênh.

– Lý do:

+ “đủ nuôi”: chăm sóc toàn diện -> Bà khổ cực, vất vả, mang nặng đẻ đau, lăn lộn, chỉ để nuôi “một chồng, năm con”.

<3

->Dùng con số duy nhất “một chồng” bằng “năm con”, ông Tú thừa nhận mình là một đứa trẻ cá biệt. Kết hợp biện pháp 4/3 để diễn tả sự vất vả của người vợ.

=>Hoàn cảnh éo le, gánh nặng gia đình đổ lên vai người mẹ, người vợ. Một mình phụ nữ chăm con là chuyện bình thường, nhưng ngoài ra, người phụ nữ còn phải chăm sóc chồng.

=>Bà Tú là một người phụ nữ đảm đang, đảm đang, yêu chồng thương con.

* Phân tích 2 câu thực

Liệu con cò lặn lội

Trên mặt nước vào đầu mùa đông.

– tu bon mượn hình ảnh con cò trong ca dao để nói về bà nhưng sáng tạo hơn (từ sà xuống đầu hoặc thay cò bằng thân):

+“游”: khổ, lao, đắng, lo

+Hình ảnh “thân cò”: ám chỉ sự vất vả, đơn độc của nghề làm ăn -> hàm ý nỗi đau cá nhân và khái quát

+“Vắng”: thời gian, không gian hãi hùng, đầy lo âu, nguy hiểm

=>Nỗi vất vả của người bà càng được nhấn mạnh qua nghệ thuật ẩn dụ.

– Đấu tranh với cuộc sống khó khăn của bà ngoại: “Chiếc rơm mùa đông”:

+ sõng soài: từ tượng thanh biểu lộ sự ngượng ngùng, than thở một cách khó chịu -> miêu tả cảnh mua bán, cãi vã “nước”.

+ Đò đông người: chen lấn, xô đẩy cũng đầy nguy hiểm và lo lắng

->Câu thơ gợi cảnh tiểu thương tấp nập vỉa hè bên sông.

=>Hiện thực cuộc đời bà Tú: thời gian và không gian thật khủng khiếp, hiểm nguy rình rập khắp nơi, nắng mưa, bà vất vả, trả giá bằng mồ hôi và nước mắt, đồng thời thể hiện mình thương hại. .Sơn.

* Phân tích 2 bài viết

Một đời hai nợ

Xem Thêm : Văn 12: Hướng dẫn cách phân tích tác phẩm văn học

Năm nắng, mười ngày gió mưa, dám chế ngự muôn loài.

– “Một đời hai nợ”: Nhận ra hôn nhân là số phận nên “phải chết”, Tử Băng cũng biết bà Tư phải gánh “món nợ” nên không than thân trách phận. Phàn nàn, âm thầm nhận phần vất vả vì chồng con.

-“U ám và mưa”: có nghĩa là làm việc chăm chỉ

-“năm”, “mười”: từ đồng nghĩa số nhiều

– “Vô duyên”, “Dám quản công”: Dù thân phận bạc bẽo nhưng nàng vẫn chấp nhận số phận, chấp nhận số phận, không một lời oán thán.

->Đức tính cần cù lao động, tận tụy vì chồng con.

=>Hình ảnh bà Tú, người vợ hiền, có nhiều đức tính đáng quý: đảm đang, cần cù, chịu thương chịu khó, hy sinh thầm lặng cho hạnh phúc gia đình.

* Phân tích 2 cái kết

Cha mẹ sống một đời bạc

Có chồng hay không cũng không sao

– Không hài lòng với thực tại, Tubang mắng vợ:

+ “Cha mẹ bạc lót”: tố cáo một thực trạng, xã hội quá bất công, ngược đãi phụ nữ khiến người phụ nữ phải chịu nhiều thiệt thòi.

->Lời nói tục tĩu có ý nghĩa xã hội sâu sắc: Thói ăn ở trác táng là gốc rễ nỗi đau của bà, ông Tú thầm trách mình, thú nhận mình vô dụng.

– Tự nhận thức:

+“Có chồng hờ”: Vừa chửi mình, Tử Peng cũng vừa tự soi xét, lên án chính mình

->Tupeng tự ý thức được sự thờ ơ của mình cũng là một biểu hiện của thói quen sinh hoạt.

– Thừa nhận mình có khuyết điểm, muốn chung sống với vợ, để vợ chăm sóc con và chồng.

->Từ tình yêu dành cho vợ cho đến thái độ đối với xã hội, Tubang cũng rất ghét thói quen sinh hoạt của Heiyin.

=>Hai câu thơ tóm tắt tình yêu thương vợ của ông Tú.

Hết phần phân tích cô vợ lẳng lơ

-Khái quát về nội dung và giá trị nghệ thuật của đoạn thơ

+ nội dung: Xây dựng thành công hình tượng bà Tú – người vợ giàu đức hy sinh, gánh vác gánh nặng gia đình trên đôi vai gầy. Tôi cũng cảm nhận được tình yêu và sự kính trọng của vị linh mục dành cho vợ mình.

+ Nghệ thuật: sử dụng tiếng Việt giản dị, tự nhiên, giàu biểu cảm; sử dụng sáng tạo các hình tượng, cách diễn đạt văn học dân gian; kết hợp nhuần nhuyễn giữa trữ tình và trào phúng.

Tiếp cận, Tiếp cận: Suy ngẫm cá nhân về phụ nữ trong xã hội ngày nay.

Xem Thêm: Phân tích khổ 4, 5 bài Mùa xuân nho nhỏ (8 mẫu) – Văn 9

Xem thêm: sơ đồ tư duy yêu vợ

Sau đây là 3 bài văn mẫu hay phân tích tình thương của vợ Tài liệu được chọn lọc gửi đến các bạn tham khảo, nhằm mở rộng vốn từ, giới thiệu bài văn của mình hay và hấp dẫn hơn.

Top 3 bài văn mẫu hay phân tích sáng tác tình yêu vợ DuPont

Bài thứ nhất phân tích ngắn gọn về tình yêu của vợ:

<3

Tử Cố là một trong những nhà thơ nhạy cảm với sự thay đổi của con người và hiện trạng. Xương sống của xã hội hiện đại là một xã hội bị đảo lộn, ngay cả giá trị thiêng liêng nhất của tình yêu cũng bị đánh mất, tình người chỉ là một thứ tình cảm mua bán hời hợt phải không anh? Trong cái xã hội nhố nhăng đó, nhà thơ đã dành cho mình một tình cảm cao quý nhất, đó là tình cảm với vợ. “Vợ Yêu” là một bài thơ hay, ghi lại tình yêu chân thành, sự cảm thông, chia sẻ, biết ơn chân thành của nhà thơ đối với vợ, cũng như tiếng thở dài, tự trách mình về trách nhiệm làm chồng.

Sông Mama buôn bán quanh năm

Có chồng hay không không quan trọng.

Xương đất ở đầu chứng tỏ chồng quan tâm đến vợ, hiểu sự nghiệp của vợ:

Sông Mama buôn bán quanh năm

Một chồng nuôi năm người con.

Công việc chính của nữ doanh nhân đó là nuôi chồng con. Bốn mùa trong năm, không phải hai bà buôn bán trong một ngày mà là bốn mùa của năm, bốn mùa của một tháng, liên tục, không ngừng nghỉ. Thử thách của cô tiếp tục trong nhiều năm. Mama River là không gian thương mại của cô ấy. Đó là chỗ đất nhô ra khỏi bờ con sông chảy qua Nam Định, một thế đất rất chênh vênh, không vững chắc, không ổn định, sẵn sàng đổ ập xuống sông. Lúc đó tôi mới thấy sự nguy hiểm của cuộc sống và những khó khăn của công việc kinh doanh. Ở đây, không gian sông mẹ đậm hơn là hình ảnh bà lão quanh năm ngược xuôi. Cô ấy là phụ nữ ngàn đời, và điều đó càng rõ ràng hơn khi bạn đến với cô ấy.

Những câu thơ sau nâng người vợ lên hàng chủ gia đình còn người chồng bị hạ xuống thành kẻ ăn bám, gánh nặng cho vợ. Một chồng nuôi năm đứa con. Phương pháp đếm năm con trai theo chồng rất đặc biệt. Nhà thơ coi chồng như con, nuôi chồng như con nên phải ăn một miệng, hai miệng ăn. Đủ từ để mô tả mức độ giáo dục đó. Cô đã nuôi anh không chỉ đủ cơm đủ áo mặc mà còn cả rượu để anh ngâm nga, quần áo mới để anh vui với bạn bè. Cô ấy chăm sóc mọi thứ, cô ấy nuôi nấng anh ấy và chu cấp cho anh ấy. Gánh nặng chồng con đổ dồn lên vai chị. Một người phụ nữ như chị chỉ có trách nhiệm sửa túi cho chồng, kinh doanh buôn bán để chồng lo liệu, vậy mà chị phải bứt khỏi cuộc sống êm đềm để bước vào cuộc sống ồn ào, một mình lo cho 6 miệng ăn, làm ăn. bổn phận của người chồng, điều đó đủ để thấy cô ấy đã hy sinh tất cả cho chồng con. Hiểu hoàn cảnh của vợ, chú ý đến những ưu điểm của vợ chứng tỏ nhà thơ rất yêu vợ sâu sắc.

Hai câu văn chân thực nối tiếp mạch cảm xúc của sự đồng cảm và sẻ chia:

Liệu con cò lặn lội

Buổi sáng mùa đông

Công việc của cô ấy ở đây được thể hiện rất rõ ràng. Bà Tú một mình đi trên con đường dài vắng vẻ, có khi lội bì bõm lội nước, có khi lại cãi nhau chí chóe trên những chuyến đò đông đúc bên sông. Đó là công việc khó khăn của cô ấy. Lặn lội, eo hẹp thể hiện bản chất bán hàng khó tính. Thương trường là chiến trường, gửi đồ ăn dễ, hóa ra bà Tú cũng làm loạn trên sông bằng nghề đánh máy. Đoạn thơ gợi cho ta nhớ đến nơi ở của người phụ nữ xưa qua câu thơ:

Con cò bơi bên sông

Chồng ôm cơm khóc.

Giữa con cò già và thân cò dường như có nét tương đồng. Hình ảnh tương phản độc đáo ấy càng làm cho tình cảnh thêm éo le. Batu có hình dáng giống con cò, gầy và cong, bước đi chậm chạp, đơn độc, luộm thuộm, luộm thuộm. Đối lập nỗi cô đơn lẻ loi của nàng với nỗi cô quạnh vắng nàng, sự hối hả tấp nập của con tàu đông đúc, nhà thơ đã để lại những cơ cực của những cực nhọc vất vả mà nàng đã gánh vác để nuôi chồng con. Anh ấy hiểu điều này. Anh không thờ ơ. Đằng sau mỗi lời nói, có một trái tim. Anh ngưỡng mộ sự nhẫn nhịn quanh năm của cô, khen cô hết lòng vì chồng con, nhưng trong lòng anh dâng lên một loại hối hận và xấu hổ: anh tự trách mình đã không làm tròn trách nhiệm của một người chồng. Nếu phu nhân biết hắn tâm sự như vậy, gánh nặng trong lòng nhất định sẽ nhẹ đi, nhất định sẽ được an ủi, động viên.

Vất vả, cực khổ nhưng mẹ Tú không một lời than vãn. Ngày qua ngày, công việc trôi qua lặng lẽ như chính cuộc sống của chị:

Một đời hai nợ

Xem Thêm : Văn 12: Hướng dẫn cách phân tích tác phẩm văn học

Năm nắng, mười ngày gió mưa, dám chế ngự muôn loài.

Các câu giống như từ là tự nhiên, đa âm và có thể được coi là lời nói của anh ấy hoặc cô ấy. Nhưng trước đây cô chưa bao giờ phàn nàn về bản thân, chấp nhận mọi thứ và giấu rất nhiều nỗi buồn trong lòng. Vì yêu vợ nên anh lên tiếng thay cô. Trong dân gian có câu, vợ chồng là do duyên số. Tu Gufu nói rằng bà Tu nói đúng, cuộc đời của bà giống như một món nợ, một là nợ hai, hạnh phúc do số phận mang lại thì ít, và sự vất vả do nợ nần mang lại thì nhiều, đây là số phận. để chấp nhận nó. Dám cai quản công, dám không cống nạp, dẫu có muôn vàn gian nan, gió mưa, mười năm gió mưa, cũng dám không kể công. Gặp phải số phận không lối thoát, câu thơ kết thúc bằng một đoạn buồn thân phận, khơi dậy thêm những cảm xúc dồn nén. Hẳn bà Tú đã nhiều lần tức giận, nhìn thấy sự bất công của thiên hạ, bà muốn phản kháng nhưng bà đã kìm lại và chấp nhận im lặng cho đến khi nhẫn nhục cam chịu số phận. Nước mắt cô lại tuôn trào, trái tim cô căng thẳng, không muốn ai biết được nỗi lòng và nỗi đau của mình. Các con số một, hai, năm, mười và khổ thơ ngắn 2/2/3 thể hiện nỗi niềm khắc khoải, sâu nặng, trường tồn của bà gắn liền với công việc không bao giờ kết thúc. Lúc này, Tu Peng hoàn toàn chìm đắm trong lòng vợ, lắng nghe từng nỗi niềm của cô. Ẩn chứa đằng sau điều này là bao nhiêu nỗi niềm, một người chồng khiến vợ phải ngược xuôi mà không kìm được? Câu thơ thể hiện tình thương vợ và sự tự trách sâu sắc.

Hai câu cuối như bộc phát mạnh mẽ, không còn dịu dàng như trước mà thâm độc:

Cha mẹ sống một đời bạc

Có chồng hay không không quan trọng.

Không phải bà Tú mắng, vì bà đã chấp nhận và cam chịu suốt đời, ông Tú muốn bà mắng cho ông bớt gánh nặng trong lòng, ít nhất là vì bà cảm thấy thế. anh khác với con của cô. Kìm nén và bực bội, buộc anh phải dùng lời lẽ của cô để nguyền rủa chính mình. Một người chồng ngồi ăn vạ, vô tư, hay bình phẩm, lên mặt, hết lần này đến lần khác soi mói vợ thì còn đáng làm chồng không? Anh tự trách mình kiêu ngạo, vô tâm, thờ ơ, vô trách nhiệm… Sự thờ ơ của anh khiến cô đau khổ gấp ngàn lần. Dù gánh nặng vật chất chồng chất, một vài tutu vẫn cố gắng hết sức chăm sóc nhưng bị cô thờ ơ, hành hạ, không chia sẻ khiến cô suy sụp ngay lập tức. Cô ấy không cần một người chồng như vậy, có hay không. Với riêng mình, nhà thơ khái quát những hiện tượng trên là cuộc sống hàng ngày, nghĩa là phổ biến, thường xuyên xảy ra. Đây là đặc điểm của xã hội tiền đương đại mà nhà thơ đã sống. Lời khiển trách trong câu thơ nhằm làm nổi bật bản chất tội lỗi của xã hội không phân biệt tình cảm, danh, lợi, danh. Đoạn thơ kết thúc bằng hình ảnh không tưởng nhẹ nhàng đưa người đọc vào chiều sâu của những cung bậc cảm xúc chất chứa nỗi đau, sự giận dữ của người chồng và nỗi đau của người vợ.

Bài thơ Vợ Thương là tiếng nói chân thành ngợi ca, cảm phục, chia sẻ, đồng cảm với những vất vả, cực nhọc của bà Tú, cũng như sự tự trách, tự trách của bà. Sơn. Nhà thơ phải yêu vợ, yêu vợ nhiều lắm thì nhà thơ mới viết được những vần thơ chân thật và cảm động đến thế. Chất trữ tình và chất trào phúng bổ sung cho nhau, đưa người đọc vào một cung bậc tình cảm rất sâu sắc, giản dị và đáng trân trọng, ẩn chứa trong lòng nhà thơ sự căm ghét những đổi thay của thế sự. Thông điệp của Tú Xương gửi đến các ông chồng qua bài thơ: Hãy nói yêu thương, chia sẻ nhiều với vợ.

Phân tích tình vợ nâng cao khóa 2:

“Love Your Wife” thể hiện tình yêu, sự tôn trọng và lòng biết ơn của DuPont đối với vợ

Thơ và văn xuôi của ba gồm hai phần: trào phúng và trữ tình. Một số bài báo hoàn toàn là châm biếm công kích, trong khi những bài khác hoàn toàn là trữ tình. Tuy nhiên, hai mảng không hoàn toàn tách biệt. Thường châm biếm sâu sắc mà vẫn trữ tình. Ngược lại, chất trữ tình sâu sắc cũng có chút hóm hỉnh xen lẫn thói châm biếm của nó. Yêu Vợ là một bài thơ như vậy.

Vợ Yêu là bài thơ phản ánh hình ảnh người phụ nữ cần cù, dũng cảm, thầm lặng hi sinh vì chồng con, đồng thời thể hiện tình yêu thương, kính trọng, yêu thương. biết ơn. Sơn xương làm vợ.

Dòng sông mẹ quanh năm buôn bán,

Một chồng nuôi năm người con.

Qua vài lời kể dễ hiểu, Tuban giúp người đọc hình dung ra cảnh người bà lội nước nơi bến chợ, một mình gồng gánh gánh nặng gia đình.

Sông Má là địa danh nổi bật của dòng sông và là địa danh phía Bắc của thành phố Nam Định. Xưa kia là nơi tàu bè cập bến, người tứ phương đến buôn bán. Bà Tú quanh năm đi làm thuê để nuôi gia đình, vợ chồng và năm đứa con thơ.

Giao dịch quanh năm có nghĩa là không có ngày nghỉ. Ngoài ra, thuật ngữ Mama River làm nổi bật vị trí bấp bênh và bấp bênh của doanh nghiệp. Sông ba mặt đều có nước bao bọc, có thể đổ ra sông lúc nào không biết. Ở mảnh đất bấp bênh đó, hình ảnh bà càng trở nên nhỏ bé và cô đơn. Một mình nàng phải lao ra đầu nguồn sông, tội nghiệp làm sao! Trên đây là thời gian, không gian và tính chất kinh doanh của chị Tú.

Tại sao bạn lại nhận một công việc khó khăn như vậy? Tất nhiên đó là chồng nuôi và con trai. Xưa kia, xã hội phong kiến ​​trao cho người phụ nữ bổn phận hiếu thuận, nuôi nấng con cái. Với bà, việc thờ cúng chồng chắc hẳn không thể thiếu. Baifu bao gồm nghĩa vụ cấp dưỡng cho chồng. Đây là một sự bất công của xã hội, nhưng xét về mặt đạo đức, sự tháo vát của một người vợ như bà Tú thật đáng khâm phục.

Cái khác thường của bài thơ là cách tính người. Nếu cộng lại sáu cái miệng, bà có thể tự ghi nhớ từng ấy. Hầu hết phụ nữ trên thế giới đều ở trong tình trạng tương tự. Ở đây, tác giả đếm rõ ràng: năm người con, một đời chồng. Nhất là ly dị chồng thì tính là một. Huyền Hoàng đọc bài thơ này đã bình luận rất hay: “Thì ra phu quân muốn chăm sóc các nàng như con nên ngang hàng với mình: một cắn, hai cắn…”.

Nhưng không đơn giản như việc nuôi dạy một đứa trẻ. Đồ ăn tạm được, thỉnh thoảng có chút rượu trà để ông ngâm thơ. Quần áo cũng được, đi loanh quanh cũng phải có bộ quần áo tươm tất, nhưng ai đã bắt anh ta “phát sốt mặc bông” và “một lũ trẻ con ăn mặc rách rưới như cha chúng”. Tôi phải để anh ấy tiêu ít tiền trong túi và đi gặp họ hàng và bạn bè. Tuy nhiên, cô ấy đã nuôi đủ, cả về số lượng và chất lượng. Vì vậy, bà không chỉ nuôi ông mà còn phục vụ ông.

Nhưng nói ra được điều này chứng tỏ người chồng rất hiểu và trân trọng đức tính của vợ. Đây là cách tôi yêu vợ mình.

Đến câu thứ ba, hình ảnh người phụ nữ một mình buôn bán trở nên cụ thể, rõ nét hơn:

Lặn lội thân cò còn đó

Trên mặt nước vào đầu mùa đông.

Tử Cố đã dùng một hình ảnh quen thuộc trong dân gian để miêu tả người kỹ nữ thuở trước: con cò lội bờ sông… Nhưng ông không so sánh mà đồng nhất nàng với xác con cò. Thân hình gầy guộc của bà cụ dãi nắng dầm sương, vốn đã vất vả nghèo khó, sớm chiều lại phải ra đi. Nghĩa đen của từ cũng gợi lên đầy đủ sự vất vả, gian khổ theo nghĩa bóng. Thân cò lội ngang đường hoang vắng. Người ta nói đường xa là lẽ tự nhiên cô đơn, khi cần cô đơn thì chẳng biết đi về đâu, chưa nói đến sự nguy hiểm, bất trắc của những cô gái đường xa. Không có cách nào để nói đi nói lại, và có một cảm giác không hài lòng. Dongdu có thể được hiểu theo hai nghĩa: một là bến phà đông đúc, hai là thuyền đông đúc ở một nơi khác. Cả hai câu đều đúng, đều nhằm diễn tả sự vất vả, cực nhọc khi cho con bú của bà.

Ngoài nỗi đau về thể xác còn có nỗi đau về tinh thần. Vì chồng con, tôi phải chạy vạy khắp nơi, nhưng liệu chồng con tôi có biết? Và cô ấy chỉ âm thầm quan tâm cô ấy đến hết cuộc đời, cả cuộc đời… Số phận của cô ấy là như vậy. Một bài thơ tả thực đầy trữ tình nghe sao mà thê lương quá! Tú tỏ ra thông cảm với nỗi khổ của vợ và hết mực yêu thương cô.

Ông Tú hiểu công việc của bà Tú. Đường còn xa, trên tàu còn nhiều người, nàng sẽ gánh vác công việc nặng nhọc không kể gian khổ, không màng đến bản thân, hết lòng vì chồng con. Nghe anh nói, cô cũng sẽ cảm thấy gánh nặng trên vai nhẹ đi, trong lòng sẽ thoải mái hơn.

Nhưng hơn thế nữa, giọng điệu trữ tình phảng phất lồng trong hai câu miêu tả (câu 3, câu 4) chứng tỏ lòng ông không hề nguội lạnh. Tôi thương vợ, nhưng cũng tự trách mình. Anh không chỉ coi mình là cái miệng của vợ nuôi mà còn cảm thấy xấu hổ với chính mình, cảm thấy có chút tàn nhẫn vô tâm. Chồng trụ cột gia đình còn đâu mà bắt vợ phải vất vả? Tự trách mình như thế càng khiến anh yêu vợ hơn.

Một đời hai nợ

Xem Thêm : Văn 12: Hướng dẫn cách phân tích tác phẩm văn học

Năm nắng, mười ngày gió mưa, dám chế ngự muôn loài.

Tử Cố lại dùng một thành ngữ khác, một câu ca dao khác: Vợ chồng có phận, thứ nhất duyên, thứ nợ, thứ ba tình… Vợ chồng gặp nhau là do sự sắp đặt của người chồng trước. Có duyên thì sung sướng, nợ nần thì khổ cả đời.

Có lẽ ở đây, anh Tú đã mượn ý nghĩ của chị, hay nói chính xác hơn là nhập vào chị sự đồng cảm sâu xa hơn: lấy chồng là duyên hay nợ, duyên là thế. Vì vậy, dù khó khăn đến đâu, dù nắng hay mưa, các anh cũng phải chịu đựng, lo lắng và dám đảm đương nhiệm vụ của mình. Nó không còn là vấn đề của tình bạn, thậm chí là một con cò, nó đã là một vấn đề của số phận, một vấn đề của số phận.

Ồ! Hôn nhân, người ta bảo là duyên nợ, thiết nghĩ cũng vậy! Nếu đó là số mệnh thì tốt thôi, nhưng biết sao đây? ! Đời đàn bà như sợi hoa đào, như giọt mưa, như con thuyền lênh đênh mười hai bến, như đói cơm nguội… trách sao được! Vậy thì dám kể gian khổ, dám đối đầu với gió mưa!

Ý nghĩa của việc thêm một số nhóm từ dám, dám chế. Ư hẳn là một loại không cam lòng, khuất phục, đè nén bất bình, nhục nhã… Dám quản nghĩa là không dám kể công, đó là thái độ chịu gian khổ, chịu khó. Trọng âm của từ định mệnh được thêm vào cuối câu kết thúc càng làm cho lời thơ phù hợp hơn với những cảm xúc lắng đọng trong lòng.

Chỉ vỏn vẹn bốn dòng thơ, cho thấy chân dung của một quý bà: từ cuộc sống gian khổ vất vả ngoài đời đến những năm tháng lo toan gia đình, một thương gia tháo vát, chăm chỉ. , sống có đạo đức, hiếu thảo và đầy tinh thần vị tha. Hình ảnh bà Tú tiêu biểu cho phẩm chất tốt đẹp của người vợ, người mẹ Việt Nam.

»Có thể bạn quan tâm: Phân tích hình ảnh bà Tú trong bài Thương vợ để hiểu hơn về những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam xưa.

Nếu bạn yêu vợ mình, nói rằng bạn yêu cô ấy là đủ quý rồi. Ở đây, ông Tú đóng giả bà Tú, thấu hiểu nỗi lòng, bộc lộ tình cảm của mình bằng những vần thơ chân thành, da diết. Đó không phải là cách bạn yêu vợ mình sao?

Thương vợ mà trách mình sao? Ngày ngày ngồi nhàn rỗi nấu cơm cho vợ nuôi, lặng lẽ thưởng thức, vợ vẫn phải chạy tới chạy lui, còn phải nghe những lời cay độc. Giờ đây, người vợ thầm than và tiếc số phận bất hạnh là do hai duyên nợ, sao người chồng không nhận ra lỗi lầm của mình? Với sự tự trách mình như vậy, ngoài tình thương vợ còn có tinh thần trách nhiệm.

Cha mẹ sống một đời bạc,

Có chồng hay không không quan trọng.

Kết thúc là lời nguyền thói bạc tình. Lần này anh không chửi như vậy nữa. Trong bài Gặp ăn mày, ông cũng chửi—chửi mình, nhưng thực ra là chửi thiên hạ: Người đói, ta không no, / Ai không cha, ta tiếc không cho. Điểm khác biệt duy nhất là lần này, lời nguyền được ếm trực tiếp lên thế giới, nhưng trước hết là tôi. Tự trách mình, anh phải mắng. Nhưng bạn phải đặt lời nguyền đó vào miệng của người phụ nữ để nó trở thành sự thật! Nhưng bà Tú là con gái nhà dòng, không thể nào chua ngoa, thô tục dám mắng chồng. Nhưng với ông Tú, ông tự trách mình nhiều lắm mới phải phun ra những lời chửi rủa như vậy, ông thực sự giận bản thân mình. Ông viết bài thơ này để bày tỏ tình yêu thương với người vợ hiền và tự trách mình tầm thường, bất tài.

Bà nội vất vả như vậy, lão gia tự trách mình nhiều như vậy, đương nhiên sẽ tức giận mắng chửi. Nhận lỗi chưa đủ mà còn phải tự mắng nhiếc mình đáng phải chịu.

<3 Ăn tiền, nhưng chung quy lại là thói quen sinh hoạt. Lối sống đen bạc biểu trưng cho bản chất xã hội kim tiền dưới chế độ phong kiến ​​ngày càng trầm trọng ở thành thị. Hóa ra người đệ tử của thánh nhân cũng là một người đã mắc phải thói hư tật xấu đó của cuộc đời. Thế là từ xấu hổ, anh đi đến thương hại và tự trách mình.

Câu nói cuối tuy đau đớn nhưng cũng là một bản án công bằng, anh ta tự nhận mình là một con bạc nhưng nhìn lại thì bạc chỉ là dửng dưng. Thờ ơ với việc nhà, thái độ trước mọi khó khăn vất vả, cam chịu với vợ. Là vợ chồng thì lo đủ thứ. Bà Tú không bắt anh phải vất vả như bà, nhưng bà chỉ mong anh đừng vô tâm, lo cho gia đình một chút, trước hết anh phải hiểu bà, thế là đủ. sưởi ấm trái tim cô ấy và làm cho cô ấy hạnh phúc.

Cả bài thơ tập trung ở một quan niệm nghệ thuật như thế: người chồng có mặt ở câu tựa là bữa cơm, ở câu chính người chồng không có mặt trong văn bản. Cả bài thơ kết thúc bằng sự đau khổ, tiếc nuối ở câu cuối: Có chồng cũng chẳng sao, điều này càng làm tăng thêm sự thương cảm của nhà thơ đối với người vợ của mình. Đó là lời tu bon nói, cái gì cũng nói cuối cùng. Tuy nhiên, anh có một câu nói với chính mình: đó là hai từ thờ ơ. Anh nói vì giận bản thân chứ thực ra anh không hề thờ ơ với cô. Bởi nếu thờ ơ thì anh đã không hát bài Yêu Vợ sâu lắng và cảm động như vậy.

Tham khảo thêm: Hướng dẫn làm bài văn tả người vợ yêu

Xem Thêm: Tranh tô màu chú công an cho bé

Hình ảnh người phụ nữ cần cù, dũng cảm, thầm lặng hy sinh vì chồng, vì con

Phân tích Tình vợ thảo nâng cao Bài 3:

“Thân em như con gai.”

Ruột trắng, vỏ ngoài đen

Hãy thử nó.

Hãy nếm thử và bạn sẽ biết rằng bạn ngọt ngào’

(tiếng lóng)

Hình ảnh người phụ nữ luôn là đề tài muôn thuở trong văn học cổ Việt Nam. Tuy nhiên, hiếm có bài thơ nào của người vợ được viết bằng tình cảm của người chồng. Và Trần Tế Bổn là một trong số ít trí thức của thơ ca trung đại Việt Nam, ông đã đưa hình ảnh người vợ cần cù của mình thuở còn là bông hoa trên đường đời vào những dòng thơ trữ tình của mình. Tình yêu nhưng không kém phần trớ trêu, đề cao tinh thần hi sinh quên mình. , Tấm lòng tháo vát, chịu thương chịu khó của bà nội vợ, tôi cũng phải cảm ơn vợ:

“Dòng sông mẹ quanh năm buôn bán,

Một chồng nuôi năm người con.

Liệu con cò lặn lội

Trên mặt nước vào đầu mùa đông.

Một đời hai nợ

Xem Thêm : Văn 12: Hướng dẫn cách phân tích tác phẩm văn học

Năm nắng, mười ngày gió mưa, dám chế ngự muôn loài.

Cha mẹ sống một đời bạc,

Có chồng hay không không quan trọng. “

Trần Tế Xương, thường gọi là Tú Xương, sống trong một thời kỳ quá độ đầy đói nghèo, nửa thực dân nửa phong kiến. Thông minh, hiếu học, tự tại, phóng khoáng, ông có khiếu thơ hay nhưng lại lận đận trên con đường sử thi, nổi tiếng chủ yếu với hai bài thơ: trào phúng và trữ tình trớ trêu. Sự trớ trêu sắc bén bắt nguồn từ trái tim, đất nước và thế giới. Ông từng được đánh giá là cây bút trào phúng xuất sắc của văn học Việt Nam cuối thế kỷ 20.

Kho tàng thơ, văn Tú Xương không nhiều, chỉ có 100 bài thơ, chủ yếu là thơ nôm, gồm thất ngôn, bát cú, lục bát…, là những… bài đặc sắc cả về nội dung lẫn hình thức. Nghệ thuật đã đạt đến trạng thái hoàn mỹ và được coi là thơ ca bất hủ. Bằng chứng rõ ràng nhất là bài thơ “Vợ yêu” được viết theo thể Đường luật. Bài thơ này đề cập đến mọi mặt của xã hội, đồng thời bày tỏ DuPont – nạn nhân của cái xã hội lố bịch này – về bản thân và gia đình, vì bà, qua đó người đọc cũng phần nào thấy được những gì mà những người phụ nữ hay những người bà đã vì chồng mà hy sinh.

Mở đầu tác phẩm, Du Pont giới thiệu hoàn cảnh và cuộc mưu sinh của bà Du, bày tỏ lòng biết ơn chân thành với người vợ sớm của ông:

“Dòng sông mẹ quanh năm buôn bán,

Một chồng nuôi năm người con. “

Dòng cảm xúc của bài thơ dần mở ra, khắc họa một bức tranh toàn cảnh đầy vất vả, lo toan của bà Du (tên thật là Fan Shilun). Tác giả sử dụng “năm này qua năm khác” – một cụm từ lặp đi lặp lại dài như một vòng tuần hoàn khép kín trong tự nhiên – để diễn tả nỗi vất vả vô tận của người bà trong tháng ngày này. Ngày này qua ngày khác, năm này qua năm khác. , dù nắng cháy hay mưa rào, đừng bao giờ bỏ lỡ một khoảnh khắc nào. Chỉ riêng điều này thôi cũng đủ để lại ấn tượng khó phai trong lòng người đọc về hình ảnh người vợ gốc đen thui, quán xuyến mọi việc trong gia đình như một người bà. Hơn thế nữa, cách cân đo đong đếm thời gian như vậy còn góp phần làm nổi bật không gian, địa điểm buôn bán của Hàng Thịt qua hình ảnh “Dòng sông mẹ”. Địa thế “sông Mẹ” rất dốc và đầy hiểm nguy khó lường, bởi chỉ là một doi đất nhô ra khỏi lòng sông, nơi dân làng chài thường tụ tập buôn bán nên khi thời tiết xấu, địa hình chênh vênh. Sợi dọc mỏng manh đó sẽ dễ bị ăn mòn và gây rất nhiều khó khăn cho bà. Khó quá, khó quá nhưng bà Tú vẫn vững vàng vượt qua và luôn cố gắng để gia đình êm ấm:

“Năm đứa con do một người chồng nuôi.”

Câu thứ hai, với giọng văn hóm hỉnh và tài trào phúng, lên án gay gắt xã hội phong kiến ​​xưa đã biến người đàn ông trụ cột thành người vợ phù phiếm chỉ biết sống thu mình, nhất là “bằng lương của vợ”:

“Tôi nóng lòng muốn leo lên thang,”

Hỏi về lương của vợ. “

(Làm việc tại nhà – dễ dàng)

Khi “cụt” trở thành trụ cột chính của gia đình, gánh nặng càng đè nặng lên vai bà cụ. Từ “nuôi đủ” vừa phải, vừa phải, không thiếu cũng không thừa, giọng điệu trang trọng nhưng không kém phần tự hào, diễn tả sự dũng cảm của bà khi chỉ làm ăn cho “được mùa”. Ở nơi bấp bênh, hiểm nguy, chị vẫn có thể đảm bảo chu toàn đời sống vật chất, tinh thần cho vợ chồng “năm đứa con”. Ngoài ra, cách đặt cạnh nhau hai danh từ đếm được “năm” và “một” có vẻ khập khiễng lại rất độc đáo và nguyên bản. Tubang tự ti so sánh mình với “năm đứa trẻ” vì là “đứa trẻ đặc biệt” và ngầm nâng địa vị của vợ lên một mức độ thiêng liêng khác, trở thành “người mẹ yêu thương” để tri ân công đức của một người bà. một cách hợp lý và chính xác nhất. Hơn nữa, cấu trúc “ngũ” – “một” và liên từ “và” hàm chứa cảm giác tủi hổ, xót xa khắc họa đôi vai gầy của người phụ nữ giữa thân cây sào. Nỗi khổ, vất vả đôi bên cùng gánh “năm con trai” và “một chồng”, nhưng vì chế độ “phu quân tử” rẻ tiền trên đời mà dường như khó khăn càng nghiêng về người chồng vô dụng. Có thể nói, người bà “đủ nếp đủ tẻ” không chỉ chu cấp cho anh “chăn ấm nệm êm” mà còn chăm sóc anh bằng đủ thứ xa xỉ đắt tiền khiến anh cười tít mắt vì trong kết thúc, Bone Ji vẫn là một cử nhân, một người thích tham gia kỳ thi:

“Hiểu thuốc lá, hiểu trà,”

Tào lao biết vị, quả hồng biết hương. “

(Hỏi Chúa – Simple Bones)

Cỏ khô:

“Hôm qua tôi đến chơi,”

Đôi giày khiến anh “dễ chịu”, anh sở hữu chất “Tây”.

(Tôi bị mất ô – trơ xương)

Hai câu mở đầu của bài thơ tuy chỉ dài mười bốn chữ nhưng đã nói lên tất cả những phẩm chất cao quý ở con người cô, để hoàn thành tốt mọi công việc ở nhà, cô cần cù, cần cù, vô tư. Bằng cách này, Tú Hùng Hùng đã thể hiện một cách tinh tế lòng biết ơn của bà Tú, đồng thời cũng lột tả được phần nào nỗi tủi hổ của tác giả là một người đàn ông nhưng không giúp được gì cho vợ, phải gắn bó với “năm đứa con”. vô cùng xin lỗi!

Thấu hiểu nỗi lo lắng, vất vả của người vợ vĩ đại, Du Pont nghĩ đến hình ảnh “con cò” xưa trong ca dao:

“Dòng sông Heshe,”

Hái cơm khóc chồng. “

(tiếng lóng)

Dùng hai câu thực tế để diễn tả nỗi đau mà Tutu đang phải trải qua:

“Bơi giữa hư không”

Có mặt trên mặt nước sớm vào một ngày đông đúc. “

Xem Thêm : Các cuộc khởi nghĩa tiêu biểu trong giai đoạn năm 40-43 đến 766

Việc dùng “thân cò” thay cho “con cò” trong ca dao xưa không chỉ thể hiện cá tính riêng và sự sáng tạo đương đại trong phong cách thơ của nhà thơ mà còn phản ánh thân phận phụ nữ độc đáo của bà Du. Nỗi vất vả của kiếp người phụ nữ trong Hashirama được thể hiện qua hình ảnh “con chim cò” gầy guộc. Thứ hai, chữ “thân” tuy đơn giản nhưng nghe chua xót lắm, luôn gợi cho người ta những điều nhỏ bé, đáng thương như thế. Và cựu thi sĩ He Chunxiang cũng ngậm ngùi ở trang này khi nhắc đến chữ “thân xác” của Yinming:

“Thân em trắng tròn,”

Bảy nổi, ba chìm với nước ngọt. “

(Bánh trôi nước)

“Khi Xa” là một cụm từ đặc biệt, bởi nó không chỉ gợi ra không gian ma quái, cô đơn nguy hiểm ẩn nấp trên đôi bờ hoang lạnh của thời đại, mà còn diễn tả nỗi khắc khoải sâu thẳm của thời đại ấy. Lang thang, kết hợp với thủ pháp nghệ thuật đảo ngữ từ “ly hôn”, hình ảnh người phụ nữ chân gầy, chân trần khiêm tốn được sinh ra giữa rừng, sông, núi, biển trong đêm – khi những người phụ nữ khác đang hạnh phúc. ngủ chung với chồng con, ngủ ngon và mong muốn kiếm thêm thu nhập để trang trải cuộc sống ngày càng trở nên phổ biến. Sáng hơn và sáng hơn trong sự cô độc khủng khiếp của một vùng đất không ổn định.

Nếu câu thứ ba gợi lên nỗi cô đơn vất vả thì câu thứ tư là nỗi vất vả của người bà trong những giờ mua bán tấp nập:

“Wow trên mặt nước vào một ngày đông đúc.”

Một lần nữa, nghệ thuật đảo ngữ được sử dụng trong thơ Dupont nhưng với từ tượng thanh “eo ôi” gợi lên tiếng ồn ào để nhấn mạnh tính chất tầm thường của chốn chợ búa. Và lòng tham của người phụ nữ “năm con” một chồng”. Mặt khác, hình ảnh “Ngày đông” cũng xây dựng hiệu quả hình ảnh người phụ nữ tất bật, chăm chỉ được nhắc đến trong ca dao xưa:

“Con trai, hãy nhớ điều này,”

Không lội chỗ nước sâu, không vượt thuyền đầy nước. “

Mặc cho lời dạy chân thành của cha văng vẳng bên tai: “Cắm không lội, đò đầy chớ qua”, chị vẫn nhất quyết dấn thân vào cuộc chiến thầm lặng và trường kỳ này. Hễ có tiếng “ồ” là chị xô đẩy, giành giật khách không kể lượng người qua lại, giành giật chồng con với các sạp khác không biết bao nhiêu lần. Vì chỉ khi bạn bận rộn, dù bạn có đau đầu đội trời, chân đạp đất, thân đau khi vắng nhà thì cơ hội kiếm thêm thu nhập mới tăng vọt khi bạn vắng nhà. Đám đông người, lật ngược. Ồ ! Quả là một người phụ nữ đảm đang, hi sinh, bán từng của cải mà mình có, chắt chiu từng đồng để lo cho cuộc sống của gia đình, thật đáng khâm phục!

Bằng phép đảo ngữ điêu khắc và các từ láy có tính biểu cảm như “bơi”, “eo” ở đầu câu thơ, kết hợp hai hình ảnh tương phản “khi nào có kẽ hở” – “thuyền đông” Hai câu thực, hình ảnh của người vợ tháo vát toát mồ hôi giữa chốn đông người vì sắp đánh nhau và hình ảnh rũ bỏ niềm kiêu hãnh khi tìm được khách nơi vắng vẻ. trường hợp xấu nhất.

Ở những câu thơ sau, Dupont như đóng vai một chủ thể trữ tình, mượn lời tâm sự của người vợ, ngầm ca ngợi những đóng góp thầm lặng của người chồng và những đứa con trên vai mình:

“Một duyên, hai nợ,”

Năm nắng, mười ngày gió mưa, dám chế ngự muôn loài. “

Trong quan niệm phong kiến ​​xưa, “duyên” và “nợ” là hai định nghĩa rất thiêng liêng về mối quan hệ vợ chồng do ông trời định sẵn, bắt nguồn từ số mệnh và sợi chỉ hồng của ông bà ta. tháng:

“Những vì sao là mãi mãi,”

Ông với bà nguyễn vừa hồng hào vừa quyến rũ”

Nhưng khi đi vào thơ của một học giả lão thành như Du Pont, định nghĩa này dường như mất đi vẻ cao quý, mà trở nên vô cùng nặng nề, như một khúc bi tráng. “Duyên” thì có một, còn “nợ” thì có hai:

“Chồng là gì, vợ là gì,”

Chỉ là nợ đời”

(tiếng lóng)

Xem Thêm: TOP 7 app học đánh vần Tiếng Việt lớp 1 tốt nhất cho bé

Ngoài ra, hai thành ngữ cổ sử dụng cạnh nhau “một đời hai nợ” – “năm nắng mười mưa” vừa đối lập về mặt ý nghĩa: “một” – “hai”, “năm” – “mười” , ​​trái ngược về quan niệm nghệ thuật, không chỉ làm cho khúc nhạc thơ, bức tranh bỗng lặng đi trước nỗi đau nhân lên của bà mà còn thể hiện rõ tài văn chương uyên thâm của nhà thơ. Khi các em hiểu cách tận dụng hết giá trị của thành ngữ, điển tích để thần thánh hóa hình tượng Bạt Đô. Có thể nói, dù phía trước là muôn vàn khó khăn, chông gai và “món nợ” đang kề vai sát cánh nhưng cô chưa bao giờ dao động, chỉ kiên nhẫn gật đầu đưa tay về phía quá khứ, lên xuống nói ba chữ: “Ồ, vâng, vâng. Một phần của nó”, “Dám quản công” đã cho thấy điều này. Lý do người bà làm việc vất vả và âm thầm cam chịu rất giản dị nhưng cũng rất cao quý: đó là số phận, là vì tương lai của các con. Thật là một người mẹ và người vợ hy sinh!

Nhà thơ Du Pont, bằng vần thơ uyên thâm và thành ngữ đan xen về nội dung, đã khắc họa chân dung người vợ với sự đảo ngược vô cùng tinh tế và nhân hóa rất chân thực, chính xác, thể hiện đầy đủ đức hy sinh, nhẫn nhịn và chịu khó của văn hóa truyền thống. Phụ nữ Việt Nam trong hai bài báo. Bằng cách này, anh cũng ngầm bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc với người vợ thân yêu đã quên mình gánh vác trọng trách gánh vác gia đình. Thực sự:

“Hãy để trẻ em đau khổ vì bạn,”

Có ông chồng muốn gánh thay cho nhà vợ. “

(Sáu bát báu)

Vì quá yêu thương cuộc sống của vợ con mà lại đóng vai trò trụ cột, Tubang tự trách mình, từ đó mắng nhiếc định kiến ​​khắt khe “trọng nam khinh nữ”. Biến anh thành kẻ vô dụng:

“Cha mẹ bạc mệnh,”

Có chồng hay không không quan trọng. “

Mạch cảm xúc của bài thơ dường như đã thay đổi đột ngột, lúc này Dupont không còn “ẩn mình” sau bài thơ để ca ngợi vợ mà thay vào đó là lời oán trách, oán trách chồng, trách mình. “Cha mẹ lối sống” là một cụm từ thô nhưng phù hợp với phong cách trào phúng của nhà thơ. Đó là sự giận đời, hận đời vì cái xã hội “Tây lố bịch” lúc bấy giờ không cho phép anh chia sẻ gánh nặng gia đình với vợ.

Bên cạnh đó, ít ai biết rằng đằng sau sự chửi rủa kiên quyết đó là bi kịch của một người đàn ông đầy uất hận, đau đớn đến tê tái:

“Có chồng cũng không sao.”

Khi Du Pont nguyền rủa “đời” thì ông cũng “tự nguyền rủa” chính mình. Có những người xung quanh tôi đau khổ vì tôi. Tubang tự nhận mình là người vô tâm, “sống bạc” với vợ con và luôn “thờ ơ” với trách nhiệm, vai trò của người cha, người chồng. Thật là “chồng hạnh phúc”! Tuy nhiên, nhìn lại một cách lạc quan, Tu Peng chẳng có gì sai, mà đáng thương thay, bởi suy cho cùng, chính xã hội nhơ bẩn đã đẩy anh, một tài năng kiệt xuất, vào ngõ cụt. đã phải chịu đựng. nó đau!

“Con nhà gia giáo lấy doanh nhân

Giọng hát có hay không, gặp hay không gặp”

(Người vợ của đời văn nghệ sĩ– Tấm xương tế trần)

Hai câu thơ kết thúc tác phẩm là những lời chửi rủa đầy tủi nhục của Dupont nhưng lại mang ý nghĩa lên án xã hội sâu sắc, góp phần khẳng định tình cảm vô bờ bến của ông dành cho bà Dupont. Người chồng ấy tuy “bù cho vợ” nhưng không “dùng tiền”, “hờ hững” mà rất chu đáo, luôn dõi theo từng bước đường đời của chị, đặc biệt là sự biết ơn của anh đối với vợ chồng chị. Đoạn thơ kết thúc thật bất ngờ: đầy ắp nỗi buồn đau, bất hạnh hạnh phúc của chính tác giả, đồng thời cũng hóm hỉnh, hóm hỉnh.

Tóm lại, sau khi đi sâu phân tích bài thơ Vợ Yêu, chúng tôi nhận thấy đây là một bài thơ có ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Tử Hùng sử dụng những câu thoại giản dị, trữ tình xen lẫn sự mỉa mai, không chỉ khắc họa chân dung đẹp đẽ của người vợ đảm đang mà còn thể hiện vẻ đẹp nhân cách của cô. Hình ảnh đẹp nhất của người phụ nữ Việt Nam lúc bấy giờ: vừa mộc mạc, giản dị nhưng cũng vừa cứng cỏi, mạnh mẽ.

Phân tích câu thương vợ ngắn nhất bài 4:

Yêu vợ là lời nhắc nhở nhẹ nhàng đối với những người chồng, người cha có vợ còn vấn vương

Trong xã hội phong kiến, người phụ nữ thường không được coi trọng. Phụ nữ phải gánh nhiều “gông cùm” trên vai. Thế mới nói “tậu chồng, vợ theo trai”. Nào là “tam tòng tứ đức”,… người phụ nữ dường như luôn xuất hiện sau lưng chồng con. Họ không có tự do trong cuộc sống, thường bị tư tưởng trọng nam khinh nữ của Nho giáo làm cho tinh thần đau khổ. Bởi vậy, trong suốt chiều dài lịch sử, các nhà thơ thường không đưa hình ảnh người vợ vào thơ mà dùng “mây, gió, trăng, hoa, tuyết, núi, sông”. Vì vậy, sự hy sinh bằng xương máu được người đời ghi nhớ, trong thơ ông đã khắc họa sinh động hình ảnh người vợ cần cù chịu thương chịu khó, có thái độ trân trọng, yêu thương. Đó thực sự là một nét đột phá đặc biệt trong nền văn học phong kiến. Bài thơ “Vợ yêu” của ông được đánh giá là một trong những “tuyệt phẩm” trong thơ ca.

Nói thơ này khác vì thi sĩ thường chỉ làm thơ sau khi người bạn đời qua đời. Về phần Toupon, anh ấy đã làm cho vợ mình trở nên chân thực, sống động và đáng yêu khi cô ấy vẫn còn sống. Điểm khác biệt là trong xã hội phong kiến, đàn ông là trụ cột gia đình, quyết định mọi việc. Ít ai chấp nhận việc vợ là trụ cột gia đình. Tuy nhiên, đối với Tu Peng, đây là điều hiển nhiên, bởi anh còn bận học hành, thi cử để kiếm chút danh vọng. Nguồn sống của cả gia đình không gì khác chính là người vợ. Điều này được khẳng định ngay trong câu đầu tiên của bài thơ:

Sông Mama buôn bán quanh năm

Một chồng nuôi năm con

Sự vất vả, nhọc nhằn đã thể hiện rõ. Một mình vợ phải “gồng gánh” tới 5 người con và một người chồng. Từ “mẹ” ở đây rất có giá trị. Mẹ là một gò đất nhô ra khỏi sông, nhỏ bé và gợi một cái gì đó bấp bênh, chông chênh. Ngược lại với năm đứa con và một người chồng. Một so sánh không cân xứng cho thấy nhiều nỗi vất vả và lo lắng của những người vợ đối với gia đình của họ. Làm thế nào để kiếm sống để hỗ trợ một gia đình có con nhỏ.

Người phụ nữ thời phong kiến ​​thường được ví như “hạt mưa sa”, “giếng nước lưng chừng”. Nhiều nỗi khổ đau không biết kêu ai. Ở câu sau, dường như Dupont đang than thở cho người vợ đáng thương của mình.

Lặn lội thân cò còn đó

Buổi sáng mùa đông

Hình ảnh người vợ từng được ông ví như con cò lặn dưới nước, nhỏ bé và cô đơn. “Hình dáng con cò” là một ẩn dụ vô cùng xác đáng và thú vị dành cho người vợ. Động từ “nhấn chìm” đã phác họa rõ nét hơn hoàn cảnh của những người vợ, người mẹ. Đọc đến đây có lẽ chúng ta cũng thấy thương cho những người phụ nữ ngày xưa. Hình ảnh của Madame Du Pont cũng là sự khái quát của những người phụ nữ Việt Nam trong thời phong kiến ​​phải lam lũ lam lũ, vất vả ngày hai buổi để lo cho gia đình mà không được thừa nhận. Thông qua thơ ca, Dupont dường như đang tạo ra một bước chuyển mới về nam tính đòi hỏi phải chú trọng nhiều hơn đến phụ nữ.

Một đời hai nợ

Năm nắng, mười bão, dám làm chủ muôn loài

Việc sử dụng từ “một đời”, “hai nợ” cho thấy Du Pont không chỉ đồng cảm với nỗi khổ của vợ mà còn nhận ra giữa vợ chồng kiếp trước có duyên phận. Gắn bó và ở bên nhau là một điều không thể tách rời, bởi đó là “duyên nợ”. Có thể anh ấy nghĩ rằng mình nợ vợ một món nợ mà anh ấy không thể trả được. Vì vậy, số phận đã gắn anh với người vợ của mình. Nhưng đây là “người phát ngôn” của anh ấy. Điều này hình như là do Tư Bền nói ra, nhưng lại là tâm sự của bà. Vì trong câu ca dao sau: “Năm nắng mười mưa, dám quản công” cho thấy người vợ tuy có vất vả nhưng cũng không dám báo công cho mình, cho rằng đây là việc phải làm cho xong. gia đình. .Đây là tấm lòng vị tha, bao dung, nhẫn nhịn của người phụ nữ Việt Nam.

Sự cam chịu của vợ khiến Tubang cảm thấy không cam lòng. Nhưng vợ anh chưa bao giờ kể cho anh nghe về những vất vả, khó khăn đó. Chính anh đã lên tiếng thay vợ. Bài thơ cũng là lời than thở, trách móc, hành hạ của người chồng và là lời quở trách nhẹ nhàng của người vợ đối với chồng:

Cha mẹ sống trong bạc:

Có chồng hay không cũng không sao

>>> Tham khảo 3 chương đầu phần phân tích hình ảnh ông Tú trong “Thơ Thương Vợ Hay Nhất”

Hai câu thơ kết thúc tác phẩm là những lời chửi rủa đầy tủi nhục của Dupont nhưng lại mang ý nghĩa lên án xã hội sâu sắc, góp phần khẳng định tình cảm vô bờ bến của ông dành cho bà Dupont. Người chồng ấy tuy “bù cho vợ” nhưng không “dùng tiền”, “hờ hững” mà rất chu đáo, luôn dõi theo từng bước đường đời của chị, đặc biệt là sự biết ơn của anh đối với vợ chồng chị. Đoạn thơ kết thúc thật bất ngờ: đầy ắp nỗi buồn đau, bất hạnh hạnh phúc của chính tác giả, đồng thời cũng hóm hỉnh, hóm hỉnh.

Với những vần thơ giản dị, dễ đọc, dễ nhớ và giàu tính nhân văn, Tú Bành đã tạo nên hình ảnh một người vợ thủy chung trong mối quan hệ với chồng con. Đó cũng là lời nhắc nhở nhẹ nhàng về chất liệu trào phúng điển hình của ông đối với người chồng, người cha vẫn còn “tóc bạc” đầu gối tay ấp với vợ.

Phân tích sơ đồ tư duy về tình yêu thương vợ

>>>Chi tiết xem: Sơ đồ tư duy Người vợ yêu dấu – DuPont (phân tích theo loại câu hỏi)

Mở rộng kiến ​​thức

Tóm tắt hoàn cảnh thương vợ

– Bài thơ này được viết vào khoảng năm 1896-1897 khi nhà thơ 26-27 tuổi. Vào thời điểm đó, gia đình của Tubang rất nghèo khó và tất cả đều phụ thuộc vào sự chăm chỉ của bà Tu. Đồng cảm với vợ, Du Pont đã sáng tác rất nhiều bài thơ tặng vợ như: văn nhân sinh viết cho vợ, câu đối ngày xuân,…Yêu vợ bài thơ này là một trong số đó.

– Qua bài thơ này, Tế Xương bày tỏ thái độ biết ơn, trân trọng, yêu thương và ăn năn trước công lao, hi sinh vất vả của vợ.

Vài ý kiếnVề bài thơ thương vợ

1. Thương Vợ là sự tôn vinh đức hy sinh và sự thấu hiểu của người phụ nữ đối với chồng”

2. “Ở điều này, các nhà thơ của DuPont cũng thể hiện rất rõ nét, từ ngoại hình đến tâm hồn, từ tính cách đến tâm sự, từ nỗi đau đến cái đẹp, họ đều rất cá nhân và đại diện cho cả một lớp người, một tâm trạng…”

3. “…đôi khi tôi sửng sốt với Tubon, khi tôi cho rằng nó có một chút trữ tình, hơi lãng mạn, nhưng chỉ có nhiều” tri ân vui vẻ – vài mét phùng mang -Thôi lạy thím Xanh…’.Thật ra mình thấy đạo đức giả lắm.Chả biết tại ai chứ với mình khi nồi đất là thật và thế là thật,thực mà không có ngọn trữ tình.Cái gốc, tán lãng mạn. , và xương đất cũng đã chết. Bay trong người tôi rất lâu và rời bỏ tôi bất cứ lúc nào.

Cho nên ai muốn nói Dupont thì nói, tôi đánh giá cao (…) nhưng tôi vẫn nghĩ thơ Dupont đi trên đôi chân của chủ nghĩa hiện thực và trữ tình, nhưng là sự thật của con người. Màng cứng chỉ là chân trái. Toupon lấy chân phải và biến chân trái thành chân thực. Chủ đề của bài thơ là đôi chân phải, khúc xương đã đến được với ta với nhịp độ lãng mạn, trữ tình. “

(Ran vâng lời)

4.

“Anh ấy là thám tử đám mây

Dũng cảm với văn học BA. “

(mùa xuân kỳ diệu)

5. “Bằng tình yêu thương, kính trọng, tác giả đã khắc họa người vợ đảm đang, hi sinh một cách chân thực và cảm động. Vợ Yêu là một bài thơ trữ tình tiêu biểu: tình cảm chân thành, lời bài hát Giản dị mà sâu sắc.<3

7. “Người vợ yêu dấu là một bài thơ về tình hình thế giới ở Tubo”.

8. Khi Tản Đà còn sống, ông là người “ngoan ngoãn nhất trong các nhà thơ lớn tuổi” (Xuandie nói). Tanda thẳng thắn nói rằng trong đời thơ của mình, ông đã đánh bại DuPont một lần chỉ bằng một chữ “V” trong bài thơ “Tạm biệt, Tạm biệt”: lời thề, như lá rụng khắp sân. nguyễn công hoan cũng nói như vậy.

9. nguyễn tuấn phương tử xương là một nhà thơ, một nhà thơ đã có công trong cuộc đấu tranh lâu dài cho một tiếng nói cho nền văn học dân tộc việt nam.

Cấu trúc tình yêu – Cảnh vợ yêu

– Phần I (bốn khổ thơ đầu): Trình bày một sự thật khách quan, có giá trị như một cảnh trong bất kỳ bài thơ nào khác.

+ Hai câu thơ đầu nói bà Tú đi lấy chồng nuôi năm người con.

+ Câu 3-4 miêu tả hai hình ảnh ấn tượng nhất về Bát tự: thân cò và con thuyền Đồng – hình tượng nghệ thuật đậm chất dân gian truyền thống. -> Bà Tú lững thững đi như con cò trên những con đường vắng và phiêu bạt trên những chiếc đò đông đúc.

– Phần thứ hai (bốn câu sau): Là suy nghĩ của tác giả.

+ Các câu 5-6 là sự ghi chép đầy cảm động và cẩn trọng về đức hi sinh quên mình của người vợ: âm thầm phó mặc cho số phận, làm lụng không than vãn, không tiếc nuối.

+ Hai câu 7-8 nêu nhận xét về đối tượng và sự phẫn nộ trước lối sống bạc bẽo, người chồng không làm gì để vợ bớt gánh nặng.

Tóm tắt phần phân tích bài Vợ yêu

Dựa vào những gợi ý trên và một số bài văn mẫu hay Phân tích bài thơ Thương vợ ở trên, hi vọng các em đã có thể hình dung và xây dựng được một hệ thống dàn ý chi tiết hơn cho riêng mình. Từ đó, dễ dàng triển khai thành một bài văn hoàn chỉnh, với sự vận dụng phù hợp từ ngữ, ý từ bài văn mẫu tham khảo để bài văn hay và hấp dẫn hơn.

Một số theme đẹp:

  • Hình ảnh bà lão tự thương và thương vợ
  • Câu hỏi về tình yêu vợ thường xuyên xuất hiện trong đề thi
  • Truy cập thư viện văn mẫu 11 để cập nhật nhiều bài văn mẫu hay khác giúp các bạn rèn luyện kỹ năng làm văn chuẩn bị cho kỳ thi. Chúc may mắn với các nghiên cứu của bạn!

Nguồn: https://anhvufood.vn
Danh mục: Giáo Dục

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *