“Tuyển tập thơ” là một trong những tác phẩm tiêu biểu của nhà thơ Đỗ Phủ trong chùm thơ lấy chủ đề về mùa thu của tác giả. Bài thơ này là một bức tranh hoang vắng và cô đơn. Trong bài viết này, hoatieu chia sẻ dàn ý phân tích tuyển tập, cũng như các bài văn mẫu phân tích tuyển tập lớp 10, phân tích cảm hứng nâng cao để các em học sinh cảm nhận rõ hơn những hình ảnh mùa thu trong tuyển tập. Cảm giác yêu thích được tác giả gửi gắm qua bài thơ này.
Bạn Đang Xem: Top 4 bài Phân tích Thu hứng siêu hay
- Viết 10 bài báo truyền cảm hứng
1. Phân tích và thu thập dàn ý
I. Lễ khai trương
– Giới thiệu tác giả, tác phẩm
– dẫn đến câu hỏi cần thảo luận
Hai. Nội dung bài đăng
1. Bốn câu đầu: Khâu Kính
A. Câu 1 và câu 2
– Hình ảnh: Đường ngọc bích, Rừng cây phong thủy – là hình ảnh quen thuộc của mùa thu Trung Quốc:
+” Con đường ngọc bích: Diễn tả sương trắng dày đặc làm rụng hạt điều, hoang tàn cả rừng phong. Bản dịch thơ dịch trôi chảy, nhưng không chuyển tải hết nội dung và ý nghĩa tinh thần của nguyên văn.
+ “Rừng phong thủy”: Hình ảnh này thường được dùng để miêu tả cảnh sắc mùa thu và nỗi buồn chia tay – “Như núi, như kẽm”: Đây là hai địa danh độc đáo của Trung Quốc. Vào mùa thu, tiết trời mát mẻ . Mơ hồ, mơ hồ. Dịch thơ là “nghìn sông núi”: mất đi hai địa danh cụ thể không diễn tả hết không khí của mùa thu.
-“Khí nhân sâm”: hơi ảm đạm, ảm đạm
=>Không gian thiên nhiên có chiều cao, chiều rộng và chiều sâu, không gian lạnh lẽo, âm u, u tối
=>=> Thể hiện cảm xúc buồn bã, cô đơn, lạnh lẽo của tác giả.
Câu 3 và 4
– Từ góc nhìn lòng sông đến vùng biên giới, không gian được mở rộng ra ba chiều rộng:
+ Yuanlou: Giữa sông sâu là “Nữ hoàng nước dâng”
+ lầu cao: vùng biên giới, hình ảnh mây đen.
+ Lầu rộng: Mặt đất, bầu trời, dòng sông đều cho ta hình ảnh về một không gian bao la.
– Những hình ảnh tương phản, phóng đại: sóng biển – dâng lên trời (thấp – cao), mây – sà xuống đất (cao – thấp)
=>Sự chuyển động đối lập của hình ảnh không gian hùng vĩ.
=>Tâm trạng người dân ảm đạm
=>Bốn câu diễn tả khung cảnh hoang vắng, thê lương, thê lương, điêu tàn của mùa thu. Phải chăng đó cũng là sự khắc họa tình trạng bất ổn trong xã hội Trung Quốc đương thời?
=>Nỗi buồn, sự cô đơn, trăn trở của tác giả đi trước thời đại.
2. Bốn câu thơ sau: Thứ năm tình yêu
A. Câu 3 và 4
– Hình ảnh nhân hóa, ẩn dụ:
<3
=>Dù sao ta cũng thấy được tâm trạng buồn của tác giả.
+ cô chú – thuyền độc
=>Hình ảnh gợi con người bồng bềnh, phiêu bạt. Đó là cách để nhà thơ bày tỏ niềm khao khát được trở về quê hương.
Xem Thêm: Ý nghĩa đặc biệt hình xăm hổ trắng trong nghệ thuật xăm hình
– Từ:
+“Biệt Ly”: nỗi buồn bất tận từ xưa đến nay
+ “Loạt phim đầu tiên”: Sợi dây buộc thuyền cũng là sợi dây gắn kết gia đình tác giả. + “Nỗi lòng”: Lòng hướng về quê hương. Thân phận bị dời đổi khiến nhà thơ nhớ quê hương (Lạc Dương) và đất nước (Trường An – kinh đô nhà Đường) mà lòng quặn thắt.
– Sự đồng nhất giữa các sự vật và hiện tượng:
+Cảnh tình: Thấy cúc nở mà khóc
+Xưa và Nay: Năm ngoái cúc nở hai lần, năm nay không đổi
+Vật-người: Sợi dây buộc thuyền cũng chính là sợi dây trói hồn người.
=>Hai câu kết diễn tả nỗi niềm đau xót, chân thành và khắc khoải của nhà thơ trước nỗi nhớ da diết không lối thoát.
Phần 7 và 8
– Hình ảnh
Xem Thêm : Giải Vật Lí 11 Bài 14: Dòng điện trong chất điện phân
+Mọi người đang tất bật may quần áo
+ Giặt giũ để chuẩn bị cho mùa đông tới
=>Không khí chuẩn bị vào đông hối hả, giục giã.
– Âm thanh: Tiếng chày va vào vải
=>Giọng này báo hiệu mùa đông sắp về, đồng thời thể hiện nỗi thổn thức, khắc khoải của tác giả khi chờ ngày về nước.
=>Bốn câu thơ thấm sâu nỗi buồn, cô đơn, lẻ loi, lặng lẽ, sầu muộn do nhớ quê.
Ba. Kết thúc
– Phác thảo vấn đề
2. Phân tích cảm hứng thơ
Cảm hứng Đỗ Phủ (dòng đầu) là một bài thơ tiêu biểu, rất sâu sắc, cô đọng, cẩn trọng. Ở trung tâm bài thơ, cảnh, thơ và họa, động và tĩnh đan xen, đôi khi khó phân biệt.
Toàn bài thơ có thể tạm chia thành câu trên và câu dưới, bốn câu đầu là cảnh thu, bốn câu cuối là nỗi lòng của nhà thơ. Cách phân chia như vậy là phù hợp về mặt logic nhưng chưa thực sự đi sâu vào mối quan hệ biện chứng giữa hai phần của bài thơ. Chúng ta biết rằng, đặc trưng của thơ cổ, nhất là thơ Đường là quan niệm con người và thiên nhiên hợp nhất (“trời đất đồng một”). Cái “tôi” (cái tôi nhỏ bé) chỉ là một phần của cái “tôi” (cái tôi lớn) của vũ trụ. Vì vậy, khi các nhà thơ cổ đại nói “phong cảnh”, họ cũng có nghĩa là “tâm”, và họ thường nói “tâm” bằng cách vẽ “phong cảnh”. Các nhà thơ Trung Quốc cổ đại thường đề cập đến mối quan hệ này. Đó là “tâm nhập cảnh” (vương xương cốt), “tâm nhập cảnh”, “cảm cảnh” (yên hoang dao), “tình không gặp cảnh”, “tình cảnh”, “cảnh giao sự ra đời của tình yêu” (Công chúa). Chỉ trong bốn câu đầu, qua những nét vẽ tả cảnh nổi bật, góc nhìn đầy tâm trạng của nhà thơ đã được bộc lộ. Chỉ có điều là cảnh ở đây hình như được vẽ bằng ngòi bút, rõ ràng và “khách quan” hơn bốn câu sau. Thời điểm bài thơ: Thu; Có (Vị trí: Vu Gia, Vu Sơn (thuộc thượng nguồn sông Dương Tử ở Quý Châu, tỉnh Tứ Xuyên) Cảnh ở đây cũng khá riêng, hùng vĩ và màu sắc độc đáo: núi non hiểm trở, sóng cả lưng trời, những đám mây trắng rơi trên mặt đất, khung cảnh dần dần xuất hiện, giống như những đoạn phim chuyển động nhanh, những con ong thủy tinh ném đầu từ những cây phong sương trắng (Yulu yêu khu rừng), (từ “rải rác” trong bản dịch không sát nghĩa lắm nghĩa gốc), trước cảnh tượng và sự im lặng của núi sương Sương mù dần lên trời theo bọt sóng sông, rồi đứng trên mây đen chạm mặt đất Bốn câu thơ còn gợi cho ta sự khéo léo trong cách đặt dấu câu dấu ấn của tranh màu nước, còn cảnh vật nằm ở cái “thần” và cái “hồn” của nó. Quan niệm nghệ thuật ấy trước hết Biểu hiện ở việc chọn cảnh. Các thi nhân xưa không coi việc đi tìm đối tượng mình quan sát (dù là nội hay ngoại) là nhiệm vụ bên ngoài) mà tổ chức, tỉa tót cho phù hợp với cảm xúc hận thù hợp lý Thơ xưa không phân biệt chủ thể Đối tượng ngay bước đột phá đầu tiên Nhấp vào “ngọc lưu thương phong thương lam” để mở ra hướng lựa chọn. Khung cảnh của móc câu trắng phá cả rừng phong khiến ta liên tưởng đến những rừng phong khác, những cây phong trong thơ cổ Cây phong trong thơ Đường dường như liên quan đến nỗi buồn chia ly. truyện Hoa kiều, và “thu dại lá phong nhuốm màu cam”, tất cả đều lấp lánh trong mắt kiều nữ.
Cảnh sau như khắc sâu thêm nỗi hoang vắng, lẻ loi, buồn tủi trong tâm hồn nhà thơ. Đúng là cảnh vật ở đây cũng có nét hùng vĩ, nhưng vẻ hùng vĩ ấy không thể che giấu được sự đìu hiu, mục nát, hoang vắng, u uất từ núi rừng cho đến rừng núi.
Ý nghĩa của hai câu tiếp theo trái ngược nhau, và bức tranh tạo thành một sự tương phản (“Giang Ba lãng mạn và Tianyong-Tiến lên và rung chuyển trái đất” (mây vắt ra từ cửa)) mang lại ấn tượng trái ngược: cảnh là vừa căng thẳng, vừa oai hùng, vừa bức bối.Bị vòng vây không thể thoát ra được. Thật vậy, bức tranh “tâm cảnh” trong mắt người xa quê nhớ quê thật buồn, nặng trĩu, đồng thời cũng là nỗi khắc khoải, hụt hẫng, khắc khoải nhìn quê hương và thế sự. Jin Qing nói rất đúng: “Ngẩng đầu nhìn sông Long Đầu, bầu trời nổi sóng. Nhìn ra biển, tôi chỉ thấy gió và mây trên đất liền, thực sự đau đớn và buồn bã, khiến trái tim tan chảy.”
Bốn câu sau, người viết tiếp tục phát triển cảm nghĩ của mình. Ở đây, nó cảm thấy ngay lập tức và cụ thể hơn, nhưng vẫn sâu sắc và đo lường. Quan điểm duy lý trừu tượng đi những điều cụ thể. Tác giả nói đến hoa cúc và thuyền, nhưng chúng là “tâm” hay “cảnh”, thực sự rất khác nhau. “tùng cúc bi khai tha nhất lệ” (hoa cúc nở hai lần: giọt nước mắt hôm trước) và “cô bạn tâm hệ thống” (là con thuyền lẻ loi trong khu vườn tâm cũ), ít nhiều cũng có. khó phân biệt mắt hoa cúc Rơi nước mắt vẫn là nhà thơ khóc bên hoa cúc, không biết là phận thuyền hay phận người. Hồ Chí Minh cho rằng, những câu thơ này có thể hiểu theo hai cách: “Cúc nở hai lần, hai lần lệ cũ chảy”, hoặc có thể hiểu là “Nhìn cúc nở, tưởng như cúc lại rơi nước mắt”. Dù hiểu theo cách nào thì cũng thấy “cánh” ở đây đã phai thành “trái tim”, còn “hội” đã thành “trái tim”. Tác giả phân biệt: cảm xúc và cảnh vật, hiện tại và quá khứ (nước mắt hiện tại cũng là nước mắt quá khứ), đồ vật và con người (sợi dây cụ thể, đường nét dày dặn). Đã hai năm hai mùa thu kể từ khi nhà thơ hiểu được hoàn cảnh Đỗ Phủ rời kinh đô Quý Châu. Câu thơ “nước mắt xưa” của nhà thơ không chỉ “lao” một lần mà đá nhiều lần. Và quả thật trong bài thơ có người nhận xét rằng ông già nơi hoang vắng tuổi già, đã có tiền lệ cảm hoa…
Hai câu cuối của bài thơ thật độc đáo và gợi mở nhiều ý nghĩa. Trong thơ Đường, hai câu cuối thường là trữ tình, bộc lộ trực tiếp nỗi lòng, nhưng ở đây tác giả lại dẫn ra ngoại cảnh khách quan. Nhưng ở đoạn đầu, khung cảnh khách quan “yên tĩnh”, sau đó là cảnh người bị đày ải “rục rịch”. Buổi chiều ở Fort White, “bận rộn khâu vá quần áo mùa đông bằng dao”, và tiếng chày gõ vào quần áo, khung cảnh càng thêm sinh động. Nhịp thơ dường như cũng nhanh hơn, gấp gáp hơn. Tuy nhiên, đó chỉ là vẻ bề ngoài, còn trong lòng nhà thơ không thể nào thay đổi được. Vì góc nhìn của nhà thơ vẫn thế như trong ánh chiều mờ ảo. Tiếng quần áo đập trong White Castle (Thành phố bóng chày trắng vang bóng Ác ma) vào buổi chiều dễ gợi nỗi buồn. Nó như hòa vào điệu nhạc buồn đảo y thiên của Liebach nhớ chồng nhịp áo đêm trăng (Áo Đêm Đập Vầng Trăng) hay tiếng chày đập Thình thịch Thình Thình Thình Thình Tùm Thình Thình Thình lình, gió trăng đầy đá) mà bệnh dịch báo hiệu mùa đông sắp đến, một mùa đông (thiếu gạo), đầu bù tóc rối, không nhà cửa, tha hương xứ lạ, lòng luôn đầy trăn trở, nhớ nhung.
Như vậy, dưới cái nền là rừng thu, khí trời thu, hoa thu, âm thanh mùa thu, nhà thơ đã lồng ghép quan niệm nghệ thuật của chủ thể trữ tình, một quan niệm nghệ thuật đầy ắp nỗi buồn, sự dịu dàng, nỗi sầu muộn, xao xuyến. Nỗi nhớ da diết và những lo lắng tinh tế thầm kín.
3. Phân tích bài văn
ngoc lo thích phong thu lam,
vu sơn, vu giáp khí tiêu sâm.
Ác, tam lãng và đức,
Hệ thống rung chuyển trái đất được tái tạo.
<3
Cô ấy là người chu đáo nhất trong hệ thống.
Xem Thêm: Low key là gì và những thuật ngữ về low key phổ biến nhất trên mạng xã hội
Hàn Quốc không còn đeo xiềng xích,
Thành phố White Emperor là một lăng mộ cấp cao.
Đứng ở thành phố Tuyền Châu, nhìn ra khung cảnh xung quanh. Khi đó, sương rơi, lá phong trong rừng đã chuyển sang màu vàng, dãy núi Wusong tối đen như mực, đủ cho thấy khí hậu lạnh giá. Xa xa dưới lòng sông, những đụn cát trải dài đến tận chân trời. Trên núi, một vài đám mây bao phủ trái đất. Chợt nghĩ đến hoàn cảnh của mình, tác giả chợt nhớ mình đã hai năm lênh đênh nơi đất khách quê người, hoa cúc trong nhà chắc đã nở hai lần, khi trở về nhất định sẽ khóc.
Sống ở đây chắc chắn sẽ không dài lâu nên tôi luôn nhớ quê, nỗi nhớ quê như con thuyền lênh đênh giữa sông, có lúc bị trói buộc. Nhưng đó là ngày gì? Mùa thu năm nay sắp hết, mùa lạnh đang đến gần, thành phố Baidi cứ mỗi buổi chiều lại rộn ràng tiếng chày đập vải, như thúc giục những ai quên rút chân ra mua áo ấm. .Rất buồn (Maizeda dịch).
Thơ đã dịch:
Rừng phong điểm xuyết sao
Ngàn cây hiu quạnh, khí suy dần
<3
Mặt đất bị mây bao phủ.
Cúc thêm nước mắt cũ,
Con thuyền gắn liền với tình cảm gia đình.
Rimly thúc giục các nhà cai trị,
Bạch Thành, tiếng bóng chày vang bóng ác quỷ.
Nguyễn Công Trứ dịch
“Cảm hứng” có nghĩa là “sự sống còn” (cảm hứng). Thiếu nữ xuân thì đẹp, tư tưởng nồng nàn, tình thu, tình sâu nặng; đời thường sông núi, rừng cây, gió khói, mây sương, sắc hạc, hương hoa. sinh ra do tiếp xúc bất ngờ. . Tiên nhân trung thành gặp ngày lành, đưa thân xuyên qua mùa thu khô héo này, sau đó hứng thú thực sự mất đi, trái tim lạnh giá, lý trí mất đi, không còn nhiệt huyết, vì vậy mới có tám bài mô phỏng về sau Số lần nhiều như “mồ hôi trâu đắp cột” (hạn ngưu sung đồng), thấy tiên nhân đặt đề thơ hay quá, thử xem. Tiêu đề là “Cảm hứng”, nhưng bài thơ thì không. Người làm thơ không phải vì hứng thú, mà để có cảm hứng, nên chẳng những thơ hay mà chủ đề cũng tuyệt. Chủ đề không chỉ thực sự tuyệt vời mà Nhà tiên tri còn là một người tuyệt vời. Từ xưa, một bài thơ gồm bao nhiêu bài, phải thêm bài, bớt bài. Nếu điều này bao gồm tám bài học, thì bảy bài sẽ không hiệu quả và chín bài sẽ không. Ta đã nói nhiều lần, nhưng có người không tin: Xin mời xem bài thơ này, bài thứ nhất thuần tả, bài thứ tám thuần túy tả, cũng biết bài thứ tám là một.
(1 – 4) “lộ” (móc) nghĩa là “ngọc lộ” (móc ngọc trai), “thu lâm” (rừng) nghĩa là “rừng cây lá” (rừng phong); chỉ có một Cõi “tình” (khô), nhưng “bạch” được mô tả là “trắng”, và “đỏ” được miêu tả là “đỏ”, sở dĩ “mùa thu” là “vui vẻ” là vì điều này. Bỏ xuống hai chữ “Vô Tử” và “Vô Gia”, lập tức nhìn thấy “Chí Thủ”, tất cả đều bình tĩnh vô sự, chỉ có hai chữ “Tam Lang” và “Phong Sách” là dư thừa. Ngay bây giờ “deja vu sơn, deja vu giáp”. Nhưng nếu “Ngọc móc” bị gãy mà “Rừng phong” tỏa sáng, thì việc miêu tả khung cảnh này càng khiến nhân vật chính buồn hơn, đồng thời cũng là nơi sầu muộn. Tại sao ngươi ở Ô gia, Vu sơn, ngẩng đầu nhìn sông thấy sóng cao ngút trời, nhìn biên giới chỉ thấy mây gió trên đất liền?
Đau quá! Cảm giác thật tuyệt. Một bộ tám chương, câu cuối cùng là “Mười năm mỹ nhân” (mỹ nhân nhặt chim), rồi thở dài “bạch đầu sầu” (bạch đầu sầu quỳ gối).
(5 – 8) Người không biết thì bảo “Tongju” (mở 2 lần) là “Tongju” (cụm cúc), không biết “bi-khai” chính là “tha nha lệ” con mắt của ngày thứ hai)! Ai không biết thì nói “cô chiêu” (đò lẻ), vậy chắc là “nhất hệ”, tức là “cô viên tâm” (nhớ vườn xưa)! Thêm chữ “hôm ấy” với chữ “chè”: tuyệt! Bạn chỉ biết nếu điều này đã xảy ra với bạn. Câu 7 nói rằng “nơi” là nơi sinh ra đầu tiên “buộc” (quan tâm) đến một quốc gia; Thành phố Baidi ở phía đông của cung điện: đây là gần đó. Trong bụng nghĩ đến “đao và thước” (dao và xích) trong nhà, nhưng bên tai chỉ có tiếng Bahid chói tai, khách xa nhà vì thế mà uể oải. Nhưng chữ “Cao Thành” được viết dưới chữ “ngã ba”, từ xa có thể nghe thấy, từ xa nhìn thấy nỗi thống khổ của khách nhân thì rất hoang vắng. Câu 3 và 4 tăng cấp Câu 1 và 2; Mục 5 và 6 tiếp đến Mục 7 và 8: Nhìn đi sẽ biết “sự biến đổi” mà tôi nói không có gì sai cả.
4. Phân tích cảm hứng bài thơ nâng cao
Đỗ Phúc (712 – 770) là một nhà thơ kiệt xuất của Trung Quốc thời Đường. Mặc dù lúc đầu không được biết đến, nhưng các tác phẩm của ông đã ảnh hưởng rất lớn đến nền văn hóa của Trung Quốc và Nhật Bản. Xuất sắc và cao quý, ông từng được giới phê bình Trung Quốc gọi là sử thi và thánh ca. Hàng nghìn bài thơ của ông có nội dung phong phú, sâu sắc, phản ánh sinh động những sự kiện lịch sử của thời đại ông, tràn đầy tinh thần yêu nước, yêu cuộc sống. Ngoài ra, Đường Trạng còn sáng tác nhiều bài thơ trữ tình, thể hiện tình cảm chân thành của ông đối với thiên nhiên, con người và cuộc sống. “Ji” là một trong số đó.
Đây là bài đầu tiên trong chùm tám bài thơ Đỗ Phủ viết khi ông đang lưu lạc ở Quý Châu năm 766. 11 năm sau khi loạn An Lộc Sơn bùng nổ, tuy dẹp loạn nhưng quốc gia kiệt quệ vì chiến tranh, nhà thơ vẫn phải ở lại quê nhà. Chính hoàn cảnh như vậy đã gợi lên cảm xúc bi tráng của nhà thơ, cũng là cảm xúc chủ đạo của cảm hứng. Bài thơ này không chỉ là cảnh thu hoang vắng, hiu quạnh mà còn là tâm trạng u uất đầy sóng gió của nhà thơ: trăn trở trước cảnh nước nhà đầy sóng gió, nhớ quê hương xa cách, xót xa cho thân phận bất hạnh nơi đất khách quê người.
Tác giả chỉ có vài nét, hai câu đầu đã toát lên cái hồn của buổi chiều thu Quý Châu:
ngoc lo thích phong thu lam,
Xem Thêm : Top 3 bài văn mẫu lớp 6 tả khu vườn nhà em hay nhất
vu sơn, vu giáp ớt,
(cây phong lác đác,
Khi chúng đổ xuống, hàng ngàn cây chết. )
Cảnh sắc thu thật khiến hồn người bay bổng, có cảm giác trống vắng trong tâm hồn con người, khung cảnh thiên nhiên gần gũi lại càng ám ảnh. Người đọc có thể thấy rằng Đỗ Phủ đang quan sát khán giả từ một vị trí tương đối cao, nên tầm nhìn của ông rất xa và rộng. Khả năng quan sát nhạy bén của Đỗ Phủ thể hiện ở câu đầu tiên tả cảnh rừng phong: “Rừng phong lác đác, lác móc”. Trong thơ ca cổ Trung Quốc, hình ảnh rừng phong gắn liền với mùa thu, bởi mỗi độ thu về, rừng phong chuyển sang màu đỏ tượng trưng cho sự chia ly. Bailu cũng tượng trưng cho mùa thu và đại diện cho cái lạnh. Sương dày bao phủ cả rừng phong. Nói đến Vu Sơn và Ngũ Gia, độc giả sẽ nghĩ ngay đến hình ảnh đặc trưng của nước Ba Thục xưa. Toàn bộ khung cảnh được bao phủ trong sương mù mùa thu. Trong bản dịch, các từ lười biếng và u ám chỉ mô tả một phần ý nghĩa của “bóng tối, u ám”. Chữ Tiền Thông thay cho chữ Vu Sơn, chữ Ngũ Gia làm cho khung cảnh vốn đã hoang vắng nơi đây trở nên u ám hơn qua ngòi bút miêu tả tâm trạng buồn bã của Đỗ Phủ. Trong hai câu đầu, câu đầu tả cảnh thu rừng phong, câu sau tả cảnh thu núi thẳm. Tuy cảnh vật khác nhau nhưng nhà thơ nhìn chúng bằng con mắt và tâm trạng giống nhau: buồn nặng trĩu.
Hai câu là cảnh thu trên cao (rừng phong, núi non), hai câu là cảnh thu trong hạ, vẫn là cảnh trong mắt nhà thơ và sự miêu tả trong ngòi bút của ông. Thiên tài biến thành thơ hay:
lăng giang tam tri kiêm thien dung,
Hệ thống rung chuyển trái đất được tái tạo.
<3
Mặt đất được bao phủ bởi mây. )
Các sông ở thượng nguồn thường hỗn tạp, nhiều ghềnh, nhiều thác, nước chảy xiết. Vì thế mới có cảnh dưới sông, sóng xô tận trời. Những tính từ như “khủng”, “sâu” gợi tả vẻ hùng vĩ hiếm có của dòng sông nơi đây, đồng thời bộc lộ cảm giác choáng ngợp của con người nhỏ bé trước thiên nhiên hùng vĩ, dựng đứng. Hình ảnh: Đất trời mây đen bao phủ, xa vời thực tại, những đám mây trắng sà xuống thấp như vắt ra khỏi mặt đất, che khuất cổng thành phía xa. Suốt chiều dài bảy trăm dặm, dọc theo bờ sông tuyệt nhiên không có một khoảng đất trống nào có đỉnh núi. Quanh năm, mây đen treo lơ lửng trên những ngọn núi cao chót vót. Vách đá dựng đứng, mặt trời khó chiếu xuống lòng sông. Nếu khung cảnh ở hai câu cuối hoang tàn, mục nát thì khung cảnh ở đây vừa hùng vĩ vừa dữ dội. Hai câu như bổ sung cho nhau, lần lượt miêu tả hai cảnh quan độc đáo ở vùng biên giới Vu Sơn Vũ, vừa u ám lại vừa hùng vĩ.
Xem Thêm: Truyện ngắn Chữ người tử tù In trong tập Vang bóng một thời, Nguyễn Tuân
Bốn câu thơ, mỗi câu tả một cảnh thu cụ thể, xếp cạnh nhau tạo thành một bức tranh mùa thu đồ sộ, thể hiện rõ hồn núi tiêu biểu của mùa thu, rừng phong và núi, trời, lòng sông, đất, mây, Cổng xa… sức gợi của cảnh thu ấy trong tâm trí người đọc là vô tận. Rừng phong khô héo theo sương gió, mây xám sóng sông nơi hải quan, thiên hạ đảo lộn cảnh tượng, ẩn cảnh sinh hoạt của ngự lâm. Đứng trước khung cảnh ấy, làm sao một nhà thơ nhạy cảm như Đỗ Phủ lại không nhớ quê?
Trong bốn câu sau, Đào Phúc bày tỏ cảm xúc của mình trước cảnh mùa thu nơi đất khách quê người:
<3
Cô ấy là người chu đáo nhất trong hệ thống.
(Hoa cúc thêm giọt lệ xưa,
Chiếc thuyền gắn liền với tình nhà. )
Đây là hai câu thơ hay nhất trong bài thơ chữ Hán của Đỗ Phủ và bản dịch của Nguyễn Công Trứ. Giống như hình ảnh rừng phong gắn liền với mùa thu, hình ảnh hoa cúc cũng tượng trưng cho mùa thu. Mỗi lần nhìn thấy hoa cúc, nhà thơ lại rưng rưng.Câu thơ bằng chữ Hán: Hoa cúc hai lần nở, giọt lệ rơi từ buổi hoàng hôn trước. Theo lời dịch của Nguyễn Công Trứ thì cũng hay, giúp người đọc hình dung được tâm trạng cô đơn, buồn bã của Đỗ Phủ trong những năm tháng phiêu bạt xa xứ. Nhìn thấy hoa cúc nở hai lần có nghĩa là Du Fu đã sống ở Quý Châu được hai năm. Hoa cúc đã làm cho lòng thi nhân liên tưởng đến mùa thu trước trên quê hương, càng làm cho lòng thêm ngây ngất, ngạt thở.
Cây cúc là yếu tố hoài cổ, còn hình ảnh con thuyền khiến tác giả cảm thấy luyến tiếc: “Nàng ân cần nhất trong lòng đồng viên”. Bài thơ chứa đầy tâm trạng và quan niệm nghệ thuật của Đỗ Phủ nơi xứ người. Chiếc thuyền độc mộc là một hình ảnh ẩn dụ đầy ý nghĩa, không chỉ bởi tính chất lênh đênh, lẻ loi của nó mà còn bởi nó là con đường duy nhất để nhà thơ ghim lại niềm khao khát được trở về quê hương. Vì thế, Đỗ Phủ mới bùi ngùi nhớ lại mùa thu quê mình, ao ước có một con thuyền chở giấc mộng thi nhân. Người đọc không khỏi nghẹn ngào, xúc động và bồi hồi khi đọc đến đây.
Hai câu cuối, trong bóng chiều tà bỗng nghe tiếng chày gõ bên bờ sông:
Xem Thêm: Low key là gì và những thuật ngữ về low key phổ biến nhất trên mạng xã hội
Hàn Quốc không còn đeo xiềng xích,
Bách đế thanh là mộ cao cấp.
(thúc giục kẻ thống trị một cách tàn nhẫn,
Thành phố trắng xóa, tiếng bóng chày vang bóng quỷ dữ. )
Chính tiếng chày đập vào vải đã mang đến khoảnh khắc vui tươi cho bức tranh nơi biên cương xa xôi. Tuy nhiên, niềm vui trong giây phút ấy không đủ để xua đi đám mây đen u buồn, hoang mang đang bao trùm tâm trí nhà thơ. Hơn nữa, tiếng chày đập vải nhắc nhở mọi người rằng mùa thu se lạnh và mùa đông đang đến, và họ nên nhanh chóng chuẩn bị để may những chiếc áo ấm. Trong Phần IV, bối cảnh lịch sử được trình bày dưới ánh sáng của một số mối quan tâm. Lúc này, An Lộc sơn loạn đã tan, nhưng quốc gia không yên, nhiều chồng con vẫn còn canh giữ nơi xa, các bà vợ vẫn còn đó nỗi bất an. Trời đã tối, chẳng thấy gì, nhà thơ chỉ nghe tiếng chày đập vải, không khỏi liên tưởng đến đám lính thú nơi đèo. Tiếng khâu thu vừa kết thúc bài thơ, vừa mở ra nỗi buồn vô tận, ông cảm thấy không thể diễn tả hết niềm xúc động của mình bằng lời.
Cảnh mang tính chất của mùa thu (không khí, gió, sương), đặc biệt là âm thanh của mùa thu (tiếng chày khua vải). Tác giả đã thu trọn cái hồn của mùa thu vào bài thơ. Đó là một buổi chiều mùa thu đặc biệt trên mảnh đất Quý Châu, nơi triều đình phong kiến suy tàn. Ngọn lửa chiến tranh vẫn tiếp diễn, và Dopp trôi dạt về phía chân trời xa xăm. Ngày đêm trở về quê hương chỉ với một hy vọng mong manh, giản dị. Giấc mơ làm phú hẳn nhiên cũng là giấc mơ của rất nhiều người dân nghèo tha hương. Vì vậy, bài thơ này tuy không trực tiếp miêu tả hoàn cảnh xã hội lúc bấy giờ nhưng vẫn mang đậm chất hiện thực và tình người sâu sắc.
Đặc điểm nghệ thuật của bài thơ này là kết cấu chặt chẽ, câu văn bám sát chủ đề, thể hiện được hai yếu tố “tình” và “thu”, vừa tả cảnh vừa chứa đựng quan niệm nghệ thuật . .Trong thơ, mối quan hệ giữa xa và gần, không gian và thời gian, nhìn và nghe, thu gắn bó chặt chẽ với nhau. Bộ tứ hoạt động rất logic: từ xa đến gần, từ không gian đến thời gian cảm nhận, từ bên ngoài để thể hiện bên trong. Từng câu, từng chữ đều hàm chứa nỗi lòng của phu nhân, nỗi sầu cho cuộc đời và tiếng lòng của người tình.
“Thu Tình” là một bài thơ mang đậm phong cách trữ tình của Đỗ Phủ. Những bài phú bắt nguồn từ sự chấn động mạnh mẽ của tâm trí nhà thơ và được thể hiện sinh động bằng ngòi bút thần. Đối với Đỗ Phủ, mùa thu đồng nghĩa với nỗi buồn và nỗi nhớ nhung vô tận, nhất là khi ông còn nghèo khổ, bệnh tật và cô đơn nơi đất khách quê người. Hương thơm và niềm thương cảm, thương nhớ cho thân phận được Đỗ Phủ thể hiện đậm nét qua thu và ra đi.Người đọc rưng rưng xúc động. Ông xứng đáng được thế giới tôn vinh là “nhà thơ hiền triết” của nền thơ Đường trường tồn qua các thời đại.
5. Bức tranh mùa thu yêu thích
Đỗ Phúc được biết đến như một nhà thơ thánh nhân và là một trong những nhà thơ kiệt xuất nhất trong lịch sử văn học Trung Quốc. Ông đã để lại một sự nghiệp đồ sộ và vô giá, khoảng 1.500 bài thơ. Tình yêu mùa thu được trích từ “Ji”, một tuyển tập gồm tám bài hát. “Tình mùa thu” là bài thơ hay nhất, bao trùm bảy bài thơ còn lại. Tác phẩm thể hiện nỗi nhớ quê da diết, khắc khoải của tác giả.
Tác phẩm này được sáng tác vào năm 766, khi Trung Quốc kết thúc Loạn An Lộc Sơn. bệnh lộc sơn để lại hậu quả thảm khốc. Nhà Đường suy tàn. Nội chiến và ngoại xâm đều có nguy cơ nổ ra. Tình cảnh của người dân là vô cùng khốn khổ, và chính Du Fu đã phải tự mình trải nghiệm điều đó. Khi đó, Du đến Tứ Xuyên với sự giúp đỡ của một người bạn thân, nhưng sau cái chết của người bạn thân, anh đã mất đi sự hỗ trợ. Anh đưa gia đình trở về, nhưng anh bị mắc kẹt ở Qui Nhơn hai năm vì nghèo đói, bệnh tật và bế tắc vì cái đói. Anh ấy đã tạo ra rất nhiều trong những năm này, và giọng nói của anh ấy thật bi thảm và buồn bã.
Rừng phong điểm xuyết sao
Hàng nghìn cây cối úa tàn, sức sống đang dần cạn kiệt.
Câu đầu tiên cho người đọc thấy ba hình ảnh đặc sắc nhất của mùa thu: rừng phong, móc câu, ngàn thu sắc thu, ba hình ảnh này có quan hệ mật thiết với nhau, gợi cho người ta cảm giác se se lạnh. Sương là loại sương mùa thu điển hình của Trung Quốc, loại sương gợi lên sương giá và lạnh lẽo. Nhưng tinh thần của văn bản gốc không được chuyển tải trong những câu thơ dịch: sương rơi lác đác—rải rác là một tính từ, biểu thị sự thưa thớt của sương rơi. Tạo ra một khung cảnh mơ hồ và mê hoặc. Chắc hẳn đã dày đặc và vướng phải lớp sương trắng bao phủ khắp không gian, cảnh vật. Màu trắng không ám chỉ sự trong sáng, tinh khiết mà là sự u ám và cô độc, lạnh lẽo. Kết hợp giữa khung cảnh u ám và làn sương trắng là hình ảnh rừng phong, mùa thu lá đỏ phản chiếu sự ấm áp, lộng lẫy. Nhưng với lớp sương mù dày đặc trắng xóa, cả khu rừng mùa thu trở nên khô cằn và hoang vắng. Đến câu thứ hai, sự ảm đạm, hiu quạnh của cảnh thiên nhiên được miêu tả rõ hơn. vu sơn, vu giáp là núi non vô tận. Núi cao chưa từng thấy mặt trời, trời rất tối. Cộng với sương mù dày đặc, không gian càng thêm u ám. Sự kết hợp của ba bức tranh khiến người đọc cảm nhận được bức tranh phong cảnh mùa thu kỳ lạ: lạnh lẽo, hoang vắng và u tối.
Nếu như ở hai câu kết tác giả bao quát cảnh theo chiều rộng thì ở hai câu thực tác giả bao quát cảnh theo chiều cao: giang gian, ba lăng kiêm thiên dung / tái buôn phong vân thổ. Đoạn thơ là thủ pháp nghệ thuật của tác giả trong việc sử dụng kết hợp phép tương phản và cường điệu: sóng dâng lên trời, mây sà xuống đất. Hai sự vật trong tự nhiên chuyển động ngược chiều nhau: nhảy lên, lao xuống và động từ nhấn mạnh chuyển động ngược lại. Hai vật tiến vào nhau, ép chặt nhau khiến không gian như đặc lại, đượm sự hoang vu, hoang vu của sông, mây, sương. Khung cảnh mùa thu trang trọng và đìu hiu, đượm đà và ủ rũ.
Bốn câu đầu có tầm nhìn bao quát: Phong Lâm, núi sông, cửa sông,…bốn câu cuối tiến lại gần, trước mắt hiện ra một cảnh tượng:
<3
Cô ấy là người chu đáo nhất trong hệ thống.
Bản dịch bài thơ này đầy ý nghĩa và không truyền đạt đầy đủ ý nghĩa của văn bản gốc. Câu thứ năm đưa ra nhiều cách hiểu, vì chủ đề của hành động xé bị che giấu. Có thể hiểu bài thơ nói rằng nước mắt rơi là hoa cúc, bởi vì cánh hoa nở ra là hình giọt lệ, hoa cúc nở rộ cũng là hoa cúc rơi nước mắt. Nhưng cũng có thể hiểu chủ thể của nước mắt là thi nhân. Mỗi lần nhìn hoa cúc nở, tôi nhận ra thời gian đã trôi qua, và tôi buộc phải ở lại đây mãi mãi, tôi càng cảm động hơn, và tôi thao thức hoài niệm trong sự bất lực. Dù hiểu theo cách nào thì dòng thơ này cũng chứa đựng nỗi buồn của tác giả mỗi khi hoa cúc nở. Hoa cúc nở nhấn mạnh con số này hai lần, hai năm – thời gian gia đình tác giả lưu lạc và lưu lạc ở xứ quất. “Đôi” cũng là một số truyền thống – số nhiều – biểu thị nỗi đau liên tục và tiếp diễn. Không chỉ bông cúc nở năm nay mới đau mà ngay cả nỗi đau năm ngoái cũng cho thấy sự đau đớn liên tục, triền miên và vĩnh viễn trong một thời gian dài. Nỗi đau bế tắc – nỗi đau thời đại, nỗi nhớ quê hương không thể quay lại.
Tình cảnh lẻ loi của tác giả được thể hiện rõ nét hơn qua hình ảnh “buông buông” – hình ảnh con thuyền lẻ loi, trơ trọi. Đồng thời gợi lên hoàn cảnh lẻ loi, cô đơn của tác giả lưu lạc nơi xứ người. Trước hết, câu thơ là một hình ảnh thực: con thuyền chở gia đình nhà thơ về nước bị mắc cạn trên Quý Châu. Đằng sau ý nghĩa chân chính là một đạo lý: gửi nỗi nhớ nhà buộc thuyền cô đơn nơi đất khách quê người. Chữ “结” đã trở thành nhãn của bài thơ, không chỉ là sợi dây buộc thuyền mà còn là sợi dây thắt lòng người.
Xem Thêm: Low key là gì và những thuật ngữ về low key phổ biến nhất trên mạng xã hội
Hàn Quốc không còn đeo xiềng xích,
Thành phố White Emperor là một lăng mộ cấp cao.
Trong nỗi nhớ da diết, cảnh nhộn nhịp của những chiếc áo lạnh dệt bằng dao, tiếng chày đập, tiếng đập áo đều thể hiện tâm trạng tha hương nơi xứ người xa xăm. nước ngoài. Nhưng ngoài ra, bức ảnh còn thể hiện sự lo lắng vì đất nước vẫn còn rối ren.
Đỗ Phủ tái hiện bức tranh mùa thu đổ nát, buồn tẻ và lạnh lẽo bằng ngôn từ cô đọng, súc tích và thiên hướng đặc biệt về cảnh ngụ ngôn. Đằng sau bức tranh còn là quan niệm nghệ thuật của bài thơ này: lo nước nhớ nhà, thương thân phận.
Hãy tham khảo thêm chuyên mục Học bài 10 của hoatieu.vn để biết thêm những thông tin hữu ích khác.
Nguồn: https://anhvufood.vn
Danh mục: Giáo Dục