Văn mẫu lớp 9: Phân tích khổ cuối bài thơ Viếng lăng Bác 2 Dàn ý & 9 mẫu phân tích khổ cuối Viếng lăng Bác

Phân tích khổ cuối bài viếng lăng bác

Phân tích khổ cuối bài viếng lăng bác

Video Phân tích khổ cuối bài viếng lăng bác

Phần cuối cùng của 9 chương đầu tiên của phân tích Thương Lăng, phần thứ tư của phân tích Thương LăngCó 2 dàn ý chi tiết. Qua đó giúp các em học sinh lớp 9 hiểu sâu sắc hơn về tình cảm của nhà thơ khi rời xa Hồ Thư Lăng để viết được bài văn hay.

Bạn Đang Xem: Văn mẫu lớp 9: Phân tích khổ cuối bài thơ Viếng lăng Bác 2 Dàn ý & 9 mẫu phân tích khổ cuối Viếng lăng Bác

Đoạn cuối, Hu Shuling đã lấy đi của người đọc những giọt nước mắt và sự xúc động nghẹn ngào. Vì vậy, mời các em theo dõi 9 bài viết phân tích tiết 4 để đến thăm Hu Shuling, học tốt ngữ văn 9 hơn và chuẩn bị cho kì thi vào lớp 10 sắp tới:

Đề bài: Phân tích khổ thơ cuối bài thơ Đi tảo mộ.

Phân tích đại cương đoạn cuối của Thương Lăng thi tập

Đề cương 1

1. Lễ khai trương

  • Giới thiệu phần cuối của Thơ Youling.
  • 2. Nội dung bài đăng

    – Nghĩ đến giây phút rời Hồ Bác Lĩnh xuôi Nam, lòng tôi nghẹn ngào, xúc động.

    • Từ “thương” bao hàm nhiều cung bậc cảm xúc như yêu thương, kính trọng, thậm chí là ngậm ngùi, lưu luyến.
    • Nỗi nhớ da diết của những người con miền Nam trước ngày chia ly.
    • – Lời chúc chân thành và tốt đẹp nhất từ ​​tác giả:

      • Muốn làm con chim trung thành, bông hoa, cây tre luôn bên bạn.
      • Từ “muốn làm” thể hiện ước muốn chân thành, tha thiết của tác giả.
      • Mai về phương nam nhưng cả tấm lòng chân thành đã gửi vào lăng.
      • ->Ba dòng thơ này như nói lên tấm lòng thành kính của hàng trăm triệu đồng bào Việt Nam đối với vị lãnh tụ.

        3. Kết thúc

        • Cảm nhận chung.
        • Đề cương 2

          Phân tích khổ thơ cuối bài Viếng lăng Bác

          I. Lễ khai trương

          – Giới thiệu về nhân cách, phẩm chất đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại

          – Trình bày câu hỏi nghị luận: Phân tích khổ thơ cuối bài Đi viếng mộ nhà thơ Viễn Tây

          Hai. Nội dung bài đăng

          1. Giới thiệu về thơ

          Tham quan Lăng Hô Bô Bô được khởi tạo năm 1976 khi đất nước hoàn toàn thống nhất và Lăng Hô Bô Bơ vừa được hoàn thành.

          2. Phân tích nội dung của phần cuối

          – Xin chân thành thông cảm:

          <3

          + Chữ “yêu” trong miền Nam là tình cảm đong đầy của người miền Nam dành cho bạn.

          <3

          Người để tình yêu cho ta đời vàng ròng

          + Tiếc thương là bởi nỗi đau mất đi người cha già kính yêu, đau đớn đến mức nước mắt chảy dài trên khuôn mặt mà cả dân tộc Việt Nam không kìm được. Khi nào:

          Bao đêm dài đau thương tiễn biệt, đời đẫm nước mắt mưa

          =>Lời thơ như thể hiện một cách chân thành niềm tiếc thương vô hạn bị kìm nén cho đến lúc chia tay.

          – Tâm nguyện của tác giả:

          +Trong tâm trạng ngột ngạt và nhớ nhung, nhà thơ như muốn hóa thân để được ở bên mãi mãi:

          Em muốn làm con chim bên lăng, em muốn làm bông hoa thơm đâu đó, em muốn làm cây tre trung thành

          + Ba câu “muốn làm” được lặp lại, hình ảnh chim hót, hoa lá, khóm trúc được lặp lại dường như gửi gắm tâm nguyện tha thiết của nhà thơ được yên tâm đền đáp ân tình, cảm ơn Thiên Hải .

          =>Ước nguyện của nhà thơ vừa chân thành vừa cao xa, đó cũng là nỗi niềm của hàng trăm triệu người dân phương Nam trước khi rời lăng Bác sau khi chiêm bái.

          Ba. Kết thúc

          Xem Thêm: Tập làm văn lớp 5: Tả một cây cổ thụ (Dàn ý 40 mẫu) Tả cây cối lớp 5

          – Nêu cảm nhận của bạn về phần này:

          + Đoạn 4 thể hiện tâm trạng hoài niệm của nhà thơ. Tôi muốn ở trong lăng Bác mãi, nhưng tác giả cũng biết rằng khi về phương Nam, ông chỉ có thể hóa thân thành linh hồn để hòa vào cảnh vật xung quanh Bác và được ở bên Bác mãi mãi.

          Phân tích khổ thơ cuối của bài thơ ngắn “Thương Thương”

          Khổ thơ cuối (khổ thơ thứ tư) là cảm xúc của nhà thơ lúc chia tay. Nhà thơ hoài cổ và muốn ở bên Hu Shuling mãi mãi. Hụt hẫng nhớ nhung, đến phút chia tay, nước mắt chảy dài trên mặt: “Mai về phương nam nước mắt tuôn rơi” Tình yêu chắp cánh cho ước mơ, nhà thơ muốn hóa thân hòa vào cảnh vật. Lăng:

          Em muốn là con chim hót quanh lăng, em muốn là bông hoa thơm, em muốn là cây trúc trung thành ở đây.

          Hình ảnh hàng tre được lặp đi lặp lại tạo ấn tượng đậm nét, hoàn thiện mạch cảm xúc. Target Bamboo đã được hợp nhất với Theme Bamboo. Hình ảnh ẩn dụ này thể hiện tình yêu và sự tận tâm vô hạn dành cho bạn, luôn đi theo con đường của bạn. Từ láy “muốn làm” và hình ảnh thơ ẩn sau nó tạo nên nhạc thơ có nhịp nhanh, bộc lộ cảm xúc, khát khao mãnh liệt. Bài thơ tưởng như gần gũi về khoảng cách không gian nhưng lại tạo nên sự gần gũi trong cảm xúc và ý chí. Đây cũng là tình cảm chân thành của mọi người khi đến viếng Bác, đặc biệt là những người con miền Nam xa xôi trong không gian, kể cả những người chưa một lần được vào lăng Bác cũng vẫn thành tâm nhờ Bác giúp đỡ.

          Mặc dù bác đã đi xa nhưng bác vẫn luôn sống trong lòng những người con xa xứ, đặc biệt là người dân Việt Nam. Tâm nguyện hóa thân tốt đẹp được ở bên các bạn cũng là tâm nguyện tốt đẹp nhất chứa đựng cả tấm lòng trân quý của chúng con.

          Phân tích cảm xúc của nhà thơ ở khổ thơ cuối

          Nhà thơ có tầm nhìn xa trông rộng này đã thể hiện nỗi nhớ nhung và sự phẫn uất đối với Bác Hồ, vị chủ tịch vĩ đại của dân tộc Việt Nam, trong bài thơ Viếng Lăng Bác Hồ. Quả thật, nếu những câu trên là nỗi niềm, nỗi nhớ của một người con miền Nam đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, thì đoạn cuối lại thể hiện nỗi niềm không nỡ rời xa nỗi nhớ của ông:

          “Ngày mai về phương nam, muốn lùa chim quanh lăng, làm hương hoa, làm lũy tre”

          Xem Thêm : Đọc hiểu Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi

          Cụm từ “nước mắt” thể hiện niềm xót xa của tác giả trước sự ra đi và sắp phải xa bạn của tác giả. Khi sắp trở về phương Nam, nhà thơ cảm thấy như người con lìa cha, lòng vô cùng đau xót. Tiếp đó, tác giả sử dụng cách nói ám chỉ “muốn làm” để thể hiện mong muốn được biến thành một vật nhỏ bé và được ở bên bạn mãi mãi. Những hình ảnh giản dị như “chim hót, hoa thơm” thể hiện khát khao được dâng hiến của chú. Wow, đây là một ước mơ rất đơn giản nhưng lớn của tác giả. Nhưng quan trọng hơn, tác giả muốn là “cây tre trung thành”. Cây tre Zhongxiao dường như là hình ảnh của sự giản dị, bền bỉ và trung thành của người Việt Nam.

          Tác giả dường như thiết tha được hóa thân thành một điều bình dị, được mãi mãi ở bên Người, được Người soi sáng trên con đường của dân tộc Việt Nam. Cảm xúc của tác giả là những cảm xúc vô cùng chân thực, giản dị và cao đẹp, đó là tình cảm của người con trước người cha dân tộc đáng kính và kính yêu.

          Phân tích tâm trạng của nhà thơ khi từ biệt lăng qua đoạn cuối

          Tôi mong đợi đã bao năm, nay mới có dịp đến thăm lăng Hồ Bác Lăng, nhà thơ chất chứa nhiều tâm sự, tình cảm. Chuyến thăm ngắn ngủi khiến nhà thơ vô cùng xúc động và lưu luyến. Đoạn 4 thể hiện nỗi nhớ của nhà thơ, muốn mãi mãi được ở bên lăng Bác.

          “Mai về phương nam, muốn làm tiếng chim hót quanh lăng, muốn làm hương hoa, muốn làm lũy tre…”

          Tạm biệt bài thơ “Ngày mai phương nam nước mắt đầm đìa”. Từ đơn giản thể hiện tình cảm sâu sắc. Từ “bẫy” diễn tả một cảm xúc rất mãnh liệt, nỗi nhớ nhung, không muốn rời xa nơi yên nghỉ của mình. Nhà thơ muốn mình là hình ảnh của anh, gợi lại bao kỉ niệm, bày tỏ bao yêu thương. Đó cũng là tâm trạng của hàng ngàn trái tim bé nhỏ cũng đau đáu như tác giả. Chúng em gần bên anh dù chỉ trong chốc lát, nhưng không bao giờ muốn rời xa anh, bởi vì anh thật ấm áp và rộng lớn.

          Những lời chúc chân thành từ xa là những lời chúc chung của những người đã gặp bạn hoặc chưa từng gặp bạn. Dẫu biết vậy nhưng nhà thơ đành phải rời Lăng Bác trở về phương nam để cùng nhân dân tiếp tục sứ mệnh dựng nước và giữ nước. Người lính già mang trong mình tình yêu bao la, sẵn sàng ở lại gắn đời mình với cuộc đời lớn của dân tộc:

          “Em muốn là con chim hót quanh lăng, em muốn là bông hoa thơm, em muốn là cây trúc trung thành ở đây…”

          Tác giả “muốn làm con chim hót” đã trình bày một bài hát ru giúp dễ ngủ. Đây là âm thanh của thiên nhiên, rất đẹp và trong lành; “Tôi muốn là một bông hoa”, tỏa ra hương thơm cao quý ở nơi anh yên nghỉ, nở rộ với hàng ngàn bông hoa, thêm màu sắc cho quốc hoa; bên cạnh Hu Shuling, ” Tôi muốn trở thành một cái cây của tuổi trẻ và lòng hiếu thảo” “, trở thành một vị tướng trung thành sẽ luôn canh chừng màn đêm..

          Việc lặp lại nhiều lần điệp ngữ “cháu muốn làm” trực tiếp hoặc gián tiếp thể hiện tình cảm kính yêu sâu sắc của nhà thơ đối với vị cha già kính yêu của dân tộc Bác Hồ, đồng thời thể hiện nỗi nhớ nhung, lời chúc tụng và những lời chúc chân thành của tác giả.

          p>

          Hình ảnh hàng tre mở đầu bài thơ, rồi kết thúc bài thơ một cách tinh tế. Hình ảnh cây tre tượng trưng cho tinh thần chiến đấu anh dũng, kiên cường và sức sống bất khuất của dân tộc. “Muốn làm trúc” nghĩa là muốn trở thành thánh địa của đất nước. Đồng thời cũng là lời cam kết, quyết tâm của tác giả tiếp tục tôi luyện ý chí: dựng nước và giữ nước bền vững trong thời kỳ mới.

          Phân tích chi tiết đoạn cuối bài thơ “Vị Linh”

          Phần cuối cùng của phân tích thăm Lăng mộ Hooper – Ví dụ 1

          Bác Hồ, vị cha già kính yêu của dân tộc mãi mãi là niềm tự hào của hàng trăm triệu người dân Việt Nam. Dù đã đi xa nhưng ông vẫn sống mãi trong lòng mọi người và trở thành nguồn cảm hứng vô tận của văn học. Cùng nhau viết về Người trong bài “Viếng lăng Bác” ở phương xa tô đậm nỗi nhớ nhung, kính trọng của nhà thơ đối với người cha già của mình. Phân tích khổ thơ cuối của bài thơ Du Linh, ta thấy được mong ước nhỏ bé của tác giả đối với Hồ Chí Minh.

          Nhà thơ viễn phương (1928 – 2005) tên thật là Phan thanh viên, quê ở An Giang. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, ông hoạt động ở chiến trường miền Nam. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, ông không chỉ là một chiến sĩ, mà còn là nhà văn sớm nhất của lực lượng văn nghệ giải phóng miền Nam. Năm 1952, khi miền Nam tổ chức Giải thưởng Tổng kết Văn học, tập thơ “Hòa bình và Chiến thắng” của nhà thơ đoạt giải nhì. Sau đó Chi bộ Văn nghệ phía Nam được thành lập và Viễn Phương được bầu làm ủy viên ban chấp hành. Có thể kể đến một số tác phẩm tiêu biểu của ông như: “Như mây xuân”, “Huyền thoại người anh hùng vùng mỏ”, “Lòng mẹ”,… Quê hương miền Tây sông nước, thơ miền xa cũng vậy. táo bạo và không gò bó Phong cách và linh hồn của nơi này. Công việc của anh ấy rất xúc động, nhưng không u sầu. Thơ anh nhẹ nhàng, thủ thỉ, trầm tư, thủ thỉ với người đọc như một lời tâm sự. Vì vậy, mỗi tác phẩm của ông đều được độc giả vô cùng yêu thích và đánh giá cao.

          Bài thơ “Viếng mộ Hồ Bộ Bồ” được viết vào tháng 4 năm 1976. Khi đất nước vừa giành được thắng lợi vẻ vang trước đế quốc Mỹ, ông đã vinh dự được cùng đoàn công tác miền Nam ra Hà Nội viếng Lăng Hồ Bộ Bồ . Tác phẩm nằm trong tập thơ “Như mây xuân” xuất bản năm 1978.

          Bài thơ “Viếng Bác” là sự xúc động, kính yêu khôn nguôi đối với vị cha già của dân tộc nơi phương xa. Đó là cảm xúc mãnh liệt khi đứng trước không gian, cảnh vật bên ngoài lăng; trước đông đảo người vào viếng lăng; bước vào lăng nhìn thi hài của bác. Cuối cùng, đoạn cuối là những cảm xúc lắng đọng trước khi ra về. Đây cũng là đoạn thể hiện mong ước nhỏ nhoi của nhà thơ là muốn được ở bên chú không muốn xa:

          “Mai về phương nam, muốn làm tiếng chim hót quanh lăng, muốn làm hương hoa, muốn làm lũy tre…”

          Trước hết, đoạn thơ này thể hiện niềm tiếc thương sâu sắc của tác giả trước sự chia tay của người chú:

          “Ngày mai về phương nam em sẽ khóc”

          Tiếng Việt vô cùng phong phú. Từ “yêu”, có lẽ là một từ đặc biệt, không thể giải thích và không thể giải thích bằng bất kỳ ngôn ngữ nào khác. Chỉ một chữ “yêu” đã nói lên đầy đủ tình cảm của người miền Nam đối với Bác. Đó là lòng kính yêu, sự kính trọng đối với cuộc đời cao cả, vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Cả cuộc đời cống hiến cho dân, cho nước, cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc. Sự hy sinh vô bờ bến của người cha già lầm lì thầm lặng:

          “Mẹ để lại cho chúng con một đời vàng ngọc tình yêu”

          Đây cũng là nỗi buồn, nỗi đau của tác giả và của dân tộc Việt Nam. Giờ đây, chúng con đã vĩnh viễn mất đi người cha già kính yêu. Nỗi đau ấy đã được nén lại trên đường về với chú, nhưng giờ đây khi sắp nói lời tạm biệt lại “ứa nước mắt”. Mọi bi thương dồn nén như trào ra. Không chỉ con người ngậm ngùi, dường như thiên nhiên đất trời cũng xúc động:

          Xem Thêm: Soạn bài Chùm ca dao về quê hương đất nước

          “Đêm dài đau thương tiễn biệt, đời đẫm lệ mưa rơi”

          (có thể)

          Bài thơ tử vi thể hiện tình cảm của nhà thơ rất chân thành. Sau những kìm nén, tôi đã bật khóc trong giây phút chia tay, đó là niềm tiếc nuối vô hạn.

          Tác giả đi xa không chỉ thể hiện tình cảm một cách đơn thuần mà còn thể hiện mong ước nhỏ bé được ở bên bạn:

          “Em muốn là con chim hót quanh lăng, em muốn là bông hoa thơm, em muốn là cây trúc trung thành ở đây…”

          Giây phút thương nhớ và chia tay, niềm xúc động nghẹn ngào của nhà thơ khiến tác giả muốn hóa thân thành người để được ở bên người mãi mãi. Ở đây, tác giả sử dụng liên tiếp ba lần từ ám chỉ “muốn làm”. Đồng thời, hình ảnh chim chóc, hoa lá, tre trúc cũng được lồng ghép và sử dụng một cách có chủ đích. Tất cả đều thể hiện mong ước tha thiết của nhà thơ. Anh ấy muốn chú của mình được yên nghỉ, và tôi muốn báo đáp lòng tốt của anh ấy với Tianhai. Tác giả không muốn quá nhiều, chỉ muốn mỗi ngày đều cùng hắn, lặng lẽ làm con chim, cành trúc. Điều này cho thấy tác giả hiểu bạn.

          Tác giả muốn làm “con chim nhỏ” hót quanh lăng. Tiếng chim sẽ là lời yêu thương, đồng hành của người Việt Nam. Loài chim ấy còn là loài chim của tự do, hòa bình, minh chứng cho một thời thơ ấu khát khao độc lập. Không muốn trở thành mặt trời, muốn lớn và chỉ là một con chim không biết mệt mỏi, nhỏ bé nhưng mạnh mẽ và dẻo dai.

          Tác giả cũng nguyện làm một “bông hoa” mãi mãi “hoa khắp nơi”. Khi tôi còn là một đứa trẻ, tôi rất thích hoa. Dường như hiểu được dụng ý này, nhà thơ xa cách muốn biến thành điều quen thuộc và ý nghĩa ấy. Tôi không muốn là bông hoa hay nhành hoa, tôi chỉ muốn là một “bông hoa” trong rừng hoa tươi đẹp. Loài hoa đó thậm chí không có tên, màu sắc hay mùi hương. Chỉ là một loài hoa không tên nhưng luôn tỏa hương và làm đẹp cho đời. Tác giả dường như muốn nhấn mạnh rằng người Việt Nam không phân biệt chủng tộc, giới tính, nghề nghiệp đều cao đẹp và đáng được trân trọng.

          Ở đây, người viết đã sử dụng kết cấu đầu câu cho bài thơ. Phần đầu là “Bát hàng tre”, và phần kết cũng là “Trúc Zhenxiao”. Như cánh chim hót và hoa thơm, tác giả vẫn sẵn sàng là “cây tre trung thành đây” giữa rừng trúc ngút ngàn. Dân tộc Việt Nam sẽ luôn sát cánh bên nhau, đoàn kết và thích ứng với mọi biến đổi. Đó cũng là tâm nguyện của tôi khi được sinh ra. Những mong ước nhỏ nhoi của tác giả phương xa vừa chân thành vừa xa vời. Đây cũng là tình cảm, ước nguyện của hàng triệu đồng bào miền Nam và toàn thể dân tộc Việt Nam trước khi vào lăng viếng Người.

          Khổ thơ cuối bài “Viếng lăng Bác” sử dụng ngôn ngữ giàu cảm xúc và hình ảnh tiêu biểu để lại cho người đọc nhiều cảm xúc mạnh mẽ. Đó là ước nguyện tiếc nuối, xót xa, đau xót của tác giả – và là ước nguyện của hàng triệu người dân Việt Nam đang sát cánh cùng ông. Thơ về ông tuy hiếm, nhưng dù đã xa rồi, thơ ông vẫn chiếm một vị trí không thể thay thế, làm đẹp thêm kho tàng văn học về ông.

          Phân tích đoạn cuối của chuyến thăm Lăng mộ Huber – Ví dụ 2

          Phân tích khổ thơ cuối bài Viếng lăng Bác

          Người con lần đầu đến thăm cha, lòng đầy xúc động, đã đến lúc phải ra về. Khổ thơ cuối bài “Thăm Hồ Bác Lăng” gửi gắm tình cảm của nhà thơ từ phương xa và gửi gắm bao lời chúc chân thành.

          Bài thơ được viết vào năm 1976, khi cuộc kháng chiến chống Nhật Bản kết thúc, đất nước thống nhất, Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh được xây dựng xong. Tác giả đã ra Bắc thăm lăng Bác. Bài thơ này là những cảm xúc thiêng liêng ngưỡng mộ, biết ơn, tự hào và đau buồn của tác giả khi ông từ phương Nam viếng thăm lăng mộ Huber. Đã đến lúc ra về với câu thơ cảm động:

          “Ngày mai về phương nam em sẽ khóc”

          Là bài thơ chia tay người con một lần nữa xa cha. Những cuộc chia tay thật đau lòng. Những từ đơn giản thể hiện tình cảm của nhà thơ đối với ông cũng như những người khác khi phải rời khỏi lăng. Từ “bẫy” thể hiện tình cảm da diết, nỗi nhớ da diết và một lòng không muốn rời xa nơi yên nghỉ của mình. Đó là tâm trạng của hàng ngàn trái tim bé nhỏ cũng đau khổ như chính tác giả. Dù chỉ là một khoảnh khắc gần gũi với bạn, chúng tôi không bao giờ muốn rời xa bạn, bởi vì bạn rất ấm áp và lớn lao. Nhưng dù muốn hay không, khoảnh khắc gặp nhau thoáng qua cũng khá thiêng liêng. Đã đến lúc mọi người vào viếng lăng rồi lại ra về.

          Trong niềm xúc động nghẹn ngào, đó là lời chúc chân thành từ phương xa, và cũng là ước nguyện chung của những người từng gặp bạn hoặc chưa từng gặp bạn:

          “Em muốn là con chim hót quanh lăng, em muốn là bông hoa thơm, em muốn là cây tre trung thành ở đây”

          Ước muốn của nhà thơ thật đáng quý biết bao! Nhà thơ muốn một con chim hót, mang những âm thanh của thiên nhiên tươi đẹp, trong lành đến nơi an nghỉ của mình. Tác giả muốn mình là bông hoa tỏa hương thơm cao quý. Tôi muốn làm cây trúc trung thành để người được yên giấc ngàn thu. Hình ảnh cây tre quả là một hình ảnh đẹp, kết thúc tốt đẹp ở cuối bài thơ. Mở đầu bài thơ nhà thơ cũng mở đầu bằng hình ảnh bè tre, đó là hình ảnh tác giả nhìn thấy khi vào lăng. Nó còn là hình ảnh biểu tượng của dân tộc Việt Nam, của dân tộc Việt Nam. Nhưng ở cuối bài thơ, cây tre hiếu thảo đã che chở cho hình ảnh anh đang ngủ. Cây tre như những người lính trung kiên, đứng đó ngày đêm. Hình ảnh cây tre tạo ra kết cấu thiết bị đầu cuối tương ứng. Điệp từ “muốn làm” được lặp lại ba lần vừa trực tiếp vừa gián tiếp thể hiện nỗi nhớ nhung, mong mỏi và ước nguyện chân thành của tác giả. Khát vọng ấy được thể hiện từ trong sâu thẳm trái tim nhà thơ.

          Khổ thơ cuối của bài thơ “Bạn Hu Shuling” là nỗi nhớ của nhà thơ khi muốn ở bên Hu Shuling mãi mãi không muốn rời xa nơi an nghỉ. Đồng thời, hóa thành những bông hoa cho bạn là lời chúc về một cuộc sống tốt đẹp hơn ở phương xa.

          Phân tích đoạn cuối của You Hu Shuling – Ví dụ 3

          Xem Thêm : 3 Mẫu Powerpoint Tư Tưởng Hồ Chí Minh Đầy Đủ Nhất

          Bài thơ “Viếng lăng Cụ Hồ Bội” thể hiện tình cảm sâu nặng và lòng biết ơn từ phương xa – một nhà thơ phương Nam lần đầu tiên ra Hà Nội hòa vào dòng người viếng lăng. Bài thơ được kết cấu như một cuộc hành trình, miêu tả những khoảnh khắc tác giả đứng trước lăng, trong hàng, trước di hài. Khổ thơ cuối của bài thơ là một khoảng lặng cuối chặng đường, thể hiện nỗi nhớ quê xa khi tạm biệt người chú trở về phương nam:

          Mai về phương nam, muốn làm chim quanh lăng, muốn làm hương hoa, muốn làm trúc trung thành.

          Dòng đầu của bài thơ bỗng trào dâng những cảm xúc nghẹn ngào, như những giọt nước mắt từ khóe mắt: “Mai em về phương nam, nước mắt tuôn rơi”. Chỉ có một từ quen thuộc gắn liền với cách nói Nam Bộ mà bao hàm biết bao tình thương, lòng trắc ẩn, sự kính trọng. Nói đến nghẹn lời, bài thơ buồn quá.

          Tiếc nuối, luyến tiếc nên nhân vật trữ tình vẫn không nỡ từ biệt, bày tỏ nguyện vọng cá nhân:

          Em muốn là con chim hót quanh lăng, em muốn là bông hoa thơm, em muốn là cây trúc trung thành ở đây.

          “Ta muốn làm” ba lần, nhịp thơ nhanh, thể hiện ước muốn chân thành, tha thiết của tác giả. Muốn làm con chim, là bông hoa thơm, là cây tre chung thủy, đó là những điều bình dị hàng ngày, gắn liền với thiên nhiên gần gũi. Con muốn làm chú chim nhỏ đem tiếng hót vui cho chú, là bông hoa tỏa hương tô điểm cho đời, đặc biệt là cây tre rậm rạp là hình ảnh ẩn dụ cho vẻ đẹp trung nghĩa của người Việt Nam. Hình ảnh cây trúc xuất hiện ở đầu bài thơ được nhấn mạnh, trúc kết bài tương ứng với lời thề son sắt của nhà thơ rằng người dân Việt Nam nói chung thề sẽ đi theo con đường của ông. Ngày mai trở về phương nam, tôi đã về với lăng bằng cả tấm lòng thành. Ba câu thơ không có chủ ngữ này dường như thể hiện sự kính trọng và tấm lòng thành kính đối với lãnh tụ của hàng trăm triệu đồng bào Việt Nam.

          Toàn bộ bài thơ là lời thăm viếng đầy xúc động của người con trai, đặc biệt là cảm xúc được kết tinh ở khổ thơ cuối. Dù bác đã đi xa nhưng bác vẫn luôn sống trong lòng đồng bào phương xa, đặc biệt là người dân Việt Nam. Tâm nguyện hóa thân tốt đẹp được ở bên các bạn cũng là tâm nguyện tốt đẹp nhất chứa đựng cả tấm lòng trân quý của chúng con.

          Phần cuối cùng của phân tích ghé thăm Lăng mộ Hooper-Ví dụ 4

          Phân tích khổ thơ cuối bài Viếng lăng Bác

          Mười ngôi chùa đẹp nhất Việt Nam tên bông sen đẹp nhất Việt Nam

          Những vần thơ của nhà thơ Bảo Định Giang là những miêu tả xuất sắc về nhân cách, phẩm chất đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Dân tộc Việt Nam mãi mãi tự hào vì có một vị cha già kính yêu đã cống hiến cả cuộc đời mình cho đất nước. Cảm ơn bạn rất nhiều, nhiều văn nhân đã viết những bài thơ hay để ca ngợi bạn. Trong số đó, bài thơ “Lăng Youyuan” là một sự kính trọng thầm kín, là sự ngưỡng mộ và thắp hương của nhà thơ đối với người chú kính yêu của mình. Bài thơ kết thúc bằng một dòng cảm xúc:

          “Ngày mai về phương nam, muốn lùa chim quanh lăng, làm hương hoa, làm lũy tre”

          Bài thơ “Viếng lăng Bác” được Nguyên Phương viết khi tác giả đến viếng nơi an nghỉ cuối cùng của Bác. Đoạn thơ này thể hiện tình cảm chân thành, tình cảm kính yêu, lòng biết ơn sâu sắc và niềm mong mỏi của nhà thơ đối với lăng Bác. Ở khổ thơ cuối bài thơ, nơi xa thể hiện nỗi nhớ tiễn biệt chú trở về phương nam.

          Xem Thêm: Biệt Danh Cho Tên Ngọc ❤️️ Những Nickname Hay Nhất

          Tiếc thương là xót xa trước nỗi đau mất đi người cha già kính yêu, nỗi đau ứa nước mắt mà cả dân tộc Việt Nam không thể nào nguôi ngoai. Khi nào:

          Bao đêm dài đau thương tiễn biệt, đời khóc trời đổ mưa

          Giây phút xúc động thiêng liêng, đứng trước sự hy sinh, cống hiến cao cả, nhà thơ không khỏi muốn hiến dâng mạng sống:

          Em muốn là con chim hót quanh lăng, em muốn là bông hoa thơm, em muốn là lũy tre trung thành

          Đi xa mà lòng vẫn ngóng trông, hoài niệm, sức mạnh của những giá trị đạo đức Hồ Chí Minh, níu kéo người ở lại. Điệp ngữ “muốn làm” được lặp đi lặp lại thể hiện tình cảm vừa nhớ nhung, vừa tràn đầy khát khao. Nhà thơ xin được làm con chim hót, đem niềm vui cho mình mỗi ngày, là bông hoa tỏa hương thơm, tô điểm cho đời, nhất là được làm “cây tre trung thành” đây, mãi đứng bên bạn, ngắm giấc ngủ của mọi người. . Đó cũng là một lời thề sống theo lời dạy của ông. Viễn Phương bày tỏ mong muốn của mình và cũng mong mọi người dân Việt Nam có thể gần gũi với mình và lớn lên:

          Anh ở bên em, người tỏa sáng trong em bỗng lớn lên một chút cùng em.

          Phân tích đoạn cuối của chuyến viếng thăm Lăng mộ của Hooper – Ví dụ 5

          Bài thơ “Bạn Bác Bác Lĩnh” ra đời năm 1976, khi đất nước hòa bình, hai nơi thống nhất, nhà thơ có dịp đến thăm Bác Bác Lĩnh. Đoạn thơ này thể hiện lòng kính trọng, thương yêu, tiếc thương của tác giả và đồng bào miền Nam khi vào thăm Bác. Bài thơ đã được nhiều nhạc sĩ phổ nhạc, trong đó thành công nhất là của Hoàng Hiệp.

          Khổ thơ cuối bài thơ thể hiện nỗi nhớ mong của nhà thơ được về thăm chú và trở về miền nam tiếp tục xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ miền nam gian khổ của Tổ quốc.

          “Ngày mai về phương nam, muốn làm tiếng chim hót quanh lăng, muốn làm hoa thơm, muốn làm lũy tre…”

          Từ biệt phương bắc, rời lăng, nhà thơ không kìm được lòng mình mà bật khóc. Khổ thơ trên bộc lộ cảm xúc mãnh liệt nhưng nhà thơ vẫn kìm nén, cho đến khổ thơ cuối, cảm xúc của nhà thơ như được tưới mát bằng nước mắt. Từ ngữ biểu cảm thể hiện cảm xúc dâng trào đến cao trào.

          Từ tình cảm đó, tác giả bày tỏ mong muốn của mình:

          “Em muốn là con chim hót quanh lăng, em muốn là bông hoa thơm, em muốn là lũy tre trung thành…”

          Câu “muốn làm” khiến cả bài thơ nói lên một cách nhanh chóng và giúp tác giả bộc lộ khát vọng mãnh liệt của mình. Mong ước đó được thể hiện qua những hình ảnh thơ đẹp đẽ, gợi cảm như “chim hót”, “hoa thơm”, “cây tre trung thành”, tô điểm thêm cho nơi anh ở, đồng thời là mong ước của tác giả dành cho em những gì tốt đẹp nhất, để em được như ý. tốt nhất trong cuộc sống vĩnh cửu của bạn. Hãy tận hưởng sự yên bình và tĩnh lặng trong khi bạn ngủ.

          Những từ như “đâu”, “trong lăng”, “đây” càng nhấn mạnh ước mơ của tác giả là được ở bên bạn mãi không muốn rời xa. Nỗi khao khát này của nhà thơ cũng là niềm mong mỏi chung của nhiều người, bởi:

          “Tôi ở bên bạn, bạn tỏa sáng cùng tôi, tôi chợt lớn cùng bạn”

          Viễn Phương cũng cảm thấy như vậy khi ở bên Bác Hồ. Ấn tượng nhất ở đoạn cuối là hình ảnh “cây tre trung thành” khiến người ta liên tưởng đến hình ảnh “chiếc bè tre” ở đầu bài thơ. Hai hình ảnh “bè tre” và “tre thật” tạo nên kết cấu bến tương ứng rất gần gũi. Nếu mọi người trung thành, cả nước sẽ trung thành với bạn. Tác giả nhắc lại hình ảnh “cây tre” một lần nữa nhấn mạnh sự gắn bó, thủy chung của chú với chú, nguyện thực hiện lý tưởng sống của mình, đó cũng là ước nguyện của nhân dân cả nước.

          Theo dấu chân nhà thơ, từ lúc vào lăng cho đến khi ra về, ta thấy rằng biểu hiện tình cảm của nhà thơ là liền mạch và không ngừng lớn lên. Nỗi đau ấy cứ lớn dần lên và cuối cùng lên đến đỉnh điểm, và nỗi đau ấy cũng là tiếng nói của cả dân tộc Việt Nam.

          Tác giả chưa bao giờ có khát vọng làm những điều lớn lao, vĩ đại, chỉ là “chim hót”, “hoa thơm”, những hình ảnh hết sức nhỏ bé, đời thường. Rất có thể, đó là điều tác giả muốn, miễn là nó ở bên bạn.

          So với hình ảnh “cây tre” ở đoạn đầu là hình ảnh bất khuất, ngoan cường thì ở đoạn cuối, hình ảnh “cây tre đây chung thủy” là một hình tượng nghệ thuật nhân hóa, tấm lòng chân thành. Lòng kính trọng và trung thành của tác giả đối với ông, hay nói rộng ra là tình yêu của cả dân tộc dành cho ông.

          Nếu đại từ nhân xưng của các đoạn trên là “con” của tác giả thì chủ ngữ của đoạn cuối bị ẩn đi, không phải tác giả không nhắc nữa mà chủ ngữ đều là trẻ em Việt Nam chứ không riêng gì tác giả. . Nỗi đau tận cùng là cảm giác chia tay, là khoảng cách về không gian địa lý và thời gian, nhưng khoảng cách giữa ý chí, tình cảm gia đình và lòng thủy chung lại rất gần.

          Bài thơ “Tham quan Hu Shuling” thể hiện sự ngưỡng mộ và xúc động của nhà thơ khi đến thăm Hu Shuling. Giọng điệu trang trọng, nhiều ẩn dụ, hình ảnh xúc động, ngôn ngữ mộc mạc, giản dị. Thơ là tiếng lòng, là lòng biết ơn, là sự biết ơn của nhân dân đối với vị cha già kính yêu của dân tộc đã gắn bó, kề vai sát cánh, hy sinh vì sự nghiệp của cả dân tộc.

          Cảm nhận ý nghĩa của bài Thương Thương ở tiết 4

          Nếu như ở khổ thơ đầu nhà thơ tự giới thiệu mình là người con của Nam Lai đến thăm Hồ Bác Lăng thì ở khổ thơ thứ tư về Hồ Bác Lăng lại thể hiện nỗi nhớ nhung xa cách Hồ Bác Lăng của nhà thơ. Nghĩ về tương lai ở phương Nam, xa chú, xa Hà Nội, cảm xúc của nhà thơ không bị kìm nén, giấu kín trong lòng mà lại bộc lộ ra bên ngoài. Đoạn thơ thể hiện tình cảm thiết tha và mong muốn được ở bên người ấy mãi mãi của nhà thơ. Đây là lời chúc chân thành và là lời hứa thủy chung của nhà thơ với bạn. Đây cũng là nguyện vọng của đồng bào ta ở miền Nam, và mỗi người chúng ta sẽ kiên định đi theo lý tưởng cao cả và con đường cách mạng mà bác mô tả:

          “Mai tôi về phương Nam, nguyện tiếng chim hót quanh lăng, nguyện hương hoa, nguyện tre trung thành…”

          Khổ thơ cuối kết thúc bằng nỗi đau thương, mất mát của cả dân tộc khi nghe tin bác mất (1969). Buổi viếng muộn chỉ còn nước mắt: Mai em về nam nước mắt lưng tròng. Nghĩ đến ngày mai vào Nam, nước mắt tôi tuôn rơi. Không phải nước mắt, mà là cảm xúc trào dâng, chân thật, mãnh liệt.

          Câu thơ “Ngày mai từ phương nam về, nước mắt lưng tròng” là lời tiễn biệt. Ngôn từ giản dị thể hiện tình cảm chân thành sâu sắc. Từ “bẫy” diễn tả một cảm xúc rất mãnh liệt, nỗi nhớ nhung, không muốn rời xa nơi yên nghỉ của mình. Đó không chỉ là tâm trạng của tác giả mà còn là tâm trạng của hàng ngàn người khác. Chúng em gần bên anh dù chỉ trong chốc lát, nhưng không bao giờ muốn rời xa anh, bởi vì anh thật ấm áp và rộng lớn.

          Nhà thơ muốn làm chim, làm hoa, làm cây nhưng quanh lăng đều có. Chim hót, hoa tỏa hương, trúc giữ bình yên. Bốn nhân vật “muốn làm” và những hình ảnh đẹp “chim”, “hoa”, “tre” trong thiên nhiên thể hiện khát vọng thiết tha, mạnh mẽ của tác giả. Lời chúc này thể hiện tình cảm chân thành, thiêng liêng của nhà thơ, người con Nam Bộ, đồng thời cũng là tình cảm của nhân dân Nam Bộ đối với Người.

          Đặc biệt là tâm nguyện “nguyện làm cây tre trung thành ở đây”, cống hiến sức mình cho bè tre bao la, bảo vệ giấc ngủ vĩnh hằng của muôn người. Hình ảnh cây tre một lần nữa mang tính tượng trưng, ​​tạo cho bài thơ một kết cấu kết bài tương ứng. Hình ảnh những chiếc bè tre vây quanh Hu Shuling được lặp lại ở khổ thơ cuối như mang một ý nghĩa mới, để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người, hoàn thiện mạch cảm xúc.

          “Tre trung thành” nghĩa là kính yêu Bác, trung thành vô hạn, kiên trung đi trên con đường cách mạng Bác đã đi. Đây là lời hứa mà nhà thơ đã giữ, và cũng là ước nguyện của người dân Nam Bộ, của mỗi chúng ta với ông.

          Phần thứ tư của bài thơ “Phỏng vấn Huber” là trữ tình và chung chung. Tác giả viết một loạt câu thơ không chủ đề, nhấn mạnh ba lần “muốn làm” là khát vọng bất khuất. Tiếng nói của những người đã một lần đến lăng, tiếng nói của những người chưa đến lăng luôn khắc khoải về người Bác kính yêu.

Nguồn: https://anhvufood.vn
Danh mục: Giáo Dục

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *