Văn mẫu lớp 11: Phân tích khổ cuối bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử 2 Dàn ý & 8 bài phân tích Đây thôn Vĩ Dạ khổ 3

Phân tích khổ 3 đây thôn vĩ dạ

Phân tích khổ 3 đây thôn vĩ dạ

Video Phân tích khổ 3 đây thôn vĩ dạ

Đoạn 3 phân tích ngôi làng Hemattu này gồm 8 bài văn mẫu dưới đây không chỉ giúp các em học sinh lớp 11 có thêm nhiều ý tưởng hay cho bài văn của mình mà còn thấy được màu sắc với Nỗi buồn, một dấu vết của sự nghi ngờ, bất an và cả sự chân thành của một tâm hồn cô độc với khát vọng sinh tồn mãnh liệt.

Bạn Đang Xem: Văn mẫu lớp 11: Phân tích khổ cuối bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử 2 Dàn ý & 8 bài phân tích Đây thôn Vĩ Dạ khổ 3

<3 Nó trần tục, nhưng thiêng liêng đối với tác giả. Những câu thơ dạy ta biết trân trọng cuộc sống này hơn. Đây là 8 mẫu được phân tích trong Phần 3. Đây là ngôi làng tốt nhất trong vi da, đọc tiếp.

Phân tích dàn ý khổ thơ cuối bài thơ Đây thôn Vida

Dàn bài số 1

1. Lễ khai mạc

– Đôi nét về tác giả: Hàn Mặc Tử (1912-1940), tên thật Nguyễn Trọng Trí, quê quán

  • Quảng cáo. Ông là một nhà thơ gặp nhiều bi kịch trong cuộc đời nhưng hồn thơ của ông luôn tràn đầy cảm hứng sáng tạo.
  • Giới thiệu câu 3: Thể hiện niềm xúc động, hoài nghi của nhân vật trữ tình nhưng nhấn mạnh khát vọng được sống chan hòa với thiên nhiên, con người nơi xứ người. tấn.
  • 2. Nội dung bài đăng

    – Nội dung

    • Đêm về, trong ảo ảnh của thực và mộng, anh thiết tha đến nao lòng người: đó là hình ảnh người khách phương xa, người con gái trong tà áo dài trắng tinh khôi, trinh nguyên nhưng mờ ảo (hai đầu câu).
    • Một trạng thái hoài nghi, suy tư về lẽ sống và tình người: đắm chìm trong hai khoảng không gian của tư tưởng và hiện thực, hoài nghi về tình người của làng đại sau bao năm xa cách, mong chờ.
    • -Nghệ thuật

      • Hình ảnh “người lữ khách phương xa” gợi lên nỗi nhớ da diết, niềm mong mỏi được gặp lại cố nhân, cố hương của nhân vật trữ tình.
      • Điển (远客, ai): Vô tình chìm đắm trong niềm mong gặp cố nhân (khách phương xa), luyến tiếc khôn nguôi (ai).
      • Cụm từ “người lữ khách phương xa” được lặp lại hai lần như chứa đựng hai tâm trạng, cảm xúc khác nhau. Đó là ước: mộng khách phương xa, mộng người phương xa, cảnh xưa (mộng khách phương xa); là hiện thực: vô vọng khi có quá nhiều ước, mộng không thể thành hiện tại (lữ khách phương xa).
      • Đại từ tương ứng (ai), đại từ (đây): Nhấn mạnh cảm giác mông lung, nghi hoặc của nhân vật trữ tình.
      • “Ở đây” chỉ không gian thực hay không gian tâm linh trong xứ Huế, là không gian mà tác giả chìm đắm trong đau đớn, tuyệt vọng.
      • Hỏi câu hỏi tu từ “Ai biết tình ai có dạt dào?”: Hỏi người và mình, xa gần, nghi ngờ giận hờn, oán trách.
      • từ hán việt (chân dung): Từ Hán Việt duy nhất được tác giả sử dụng trong bài viết, với dự cảm về cuộc đời của chính tác giả.
      • Câu thơ 4/3 (giấc khách phương xakhách phương xa) khác với luật thơ thất ngôn.
      • Ngôn ngữ rõ ràng, ngắn gọn, có cấu trúc và biểu cảm.
      • Far Left Art (Trắng): Tạo nên vẻ đẹp trinh nguyên trong sáng của các nhân vật nhưng đồng thời cũng làm nổi bật sự kém cỏi về thị giác, sự bất lực về tâm hồn khi phải xa rời cuộc sống thực tại đó.
      • 3. Kết thúc

        – Tóm tắt những ý chính và giá trị nghệ thuật của đoạn ba.

        • Giá trị nội dung: tình cảm của nhân vật trữ tình đối với Huế sau bao năm xa cách trong sự lẫn lộn giữa hư và thực.
        • Giá trị nghệ thuật: Sử dụng hiệu quả các biện pháp tu từ để bộc lộ quan niệm nghệ thuật và quan niệm nghệ thuật của nhân vật trữ tình.
        • Dàn bài số 2

          1. Lễ khai mạc

          Giới thiệu về làng Han Mektu, Vader và đoạn thơ cần phân tích.

          2. Nội dung bài đăng

          a) Hai câu đầu: Khát khao ngoại giới, hơi ấm tình người trong mộng.

          <3

          -“Người mơ từ xa”, thế giới đã hiện rõ trong bóng dáng của người phụ nữ đẹp, và tác giả gọi thẳng “họ” trong phần tiếp theo.

          + Cụm từ “khách phương xa”: mang cảm giác xa lạ, đặc biệt khi nó xuất hiện hai lần trong bài thơ, miêu tả một nơi xa xăm, tiếng “khách” xa dần, vẻ đẹp trong tâm hồn nhà thơ.

          + Thế giới trong thơ Hàn Kết Đồ không phải là thế giới thực mà là “giấc mơ”, khi giấc mơ kết thúc con người sẽ chết.

          =>Hình ảnh thơ lạ: Hình ảnh con người như một ảo ảnh, xa lạ và xa xăm, xa vời vợi, không nắm bắt được, rất mông lung và rộng lớn.

          -“Áo em trắng nhìn không ra”:

          + Nhà thơ tài hoa và bất hạnh ấy đã vùng vẫy, cố níu kéo thế gian, níu kéo hơi ấm tình người, mà bao cố gắng, cố gắng cũng chỉ là một giấc mộng. Nhưng cuối cùng, người nghệ sĩ dường như bắt không kịp, bắt không tới, mắt người đời không thể nhìn thấu.

          + Từ “tai bai” diễn tả sự trong trắng đến tột cùng, đã vượt ra ngoài phạm vi cảm nhận của thị giác, hình bóng người đẹp đã mất hết đường nét, chỉ còn lại một khoảng trống vô vọng trong lòng nhà thơ, chính thức đánh dấu sự sự gắn bó của tác giả với Sự bất lực và tuyệt vọng trong quá trình của thế giới này, sự ấm áp của tình cảm con người.

          b) Hai câu cuối: Tác giả trở về với thế giới nội tâm lạnh lẽo, bất trắc và cô đơn:

          – Trong thế giới ấy, xuất hiện bài thơ “Nơi đây sương mù”, hình ảnh thơ giàu ý nghĩa siêu thực, tượng trưng. Đó là một thế giới lạnh lẽo, sương mờ ảo, không người và hơi ấm, đau đớn nhất trong giá lạnh.

          -Giữa hai thế giới khác nhau chỉ có một sợi dây liên kết vô hình, và đó chính là tình cảm sâu nặng, thiết tha của nhà thơ đối với cuộc sống, thiên nhiên bên ngoài luôn tràn đầy khát khao. /p>

          -“Biết đâu tình ai dạt dào”:

          + Tự hỏi người ngoài cảm thấy thế nào, đẹp.

          =>Miketu Han thể hiện một cảm xúc rất sâu sắc về sự mong manh của mối liên hệ tình cảm giữa hai thế giới này.

          3. Kết thúc

          Nêu cảm xúc chung của bạn.

          Phân tích đoạn 3 đây là thôn Vĩ Dạ – ví dụ 1

          Hàn Mai Tử là nhà thơ tài hoa, sáng tạo nhất trong phong trào Thơ mới Việt Nam những năm 1930. Tài hoa là vậy nhưng cuộc đời của Hàn Kết Đô lại lắm niềm vui nỗi buồn. Khó quên một mình. Tâm sự, tâm tư của ông đọng lại trong thơ ông, đặc biệt qua những biểu tượng thơ như “máu”, “nguyệt”, “trăng máu”. Và trong số những bài thơ cuồng nhiệt, dữ dội ấy, cũng có bài thơ trong trẻo, trong sáng và đây là một bài thơ như thế. Đặc biệt ở khổ thơ thứ ba hình ảnh vầng trăng lại xuất hiện nhưng không phải là ánh trăng máu dữ dội mà là ánh trăng dịu dàng, qua đó cũng thể hiện niềm khao khát yêu đời, yêu đời với nỗi buồn man mác, đó là con người của thi nhân.

          Xem Thêm: Hóa hơi là gì, nguyên lý hoạt động dàn hóa hơi ra sao – Migco.vn

          Nếu như khổ thơ đầu của bài thơ Hàn Kết Đồ miêu tả một cách tỉ mỉ khung cảnh thiên nhiên thôn quê trong trẻo tươi đẹp đến nao lòng trong ánh nắng của một ngày mới thì khổ thơ thứ hai lại là cảnh sắc non sông mây trời đẹp đến nao lòng. nhưng đầy Nó thể hiện nỗi đau, nỗi niềm của một người yêu cuộc sống nhưng sắp phải rời xa nó, đến khổ thơ cuối tác giả đắm chìm trong thế giới hư ảo, ánh trăng như mơ, và niềm khao khát của mình. cuộc sống cũng rất mạnh mẽ.

          “Tôi mơ thấy khách phương xa, khách phương xa áo trắng nhìn không thấy nơi này sương mù, không biết tình ai bền chặt”

          Cuộc đời nhà thơ là một chuỗi những nỗi buồn bất tận, nhưng dù bị cuộc đời vùi dập, vùi dập nhưng tình yêu cuộc sống của nhà thơ càng mạnh mẽ, cháy bỏng. Hiện thực quá đau đớn, tác giả thoát ly hiện thực trở về cõi mộng tìm chút bình yên cho tâm hồn. Tâm trạng của đoạn cuối mang màu hư vô, hư ảo xen lẫn thực.

          Tác giả Hàn Kết Đồ nhấn mạnh đến giấc mơ bằng cách lặp lại hai lần từ “mộng”, “mơ khách phương xa, khách phương xa”. Mặc dù hoàn toàn đắm chìm trong giấc mơ, nhưng ẩn sâu trong giấc mơ là một khát khao chân thành. Nằm mơ thấy khách phương xa là ước mong được gặp lại bạn cũ trước khi lìa đời của tác giả, nhưng càng mong mỏi thì ước mơ càng xa vời, khắc khoải.

          “Áo của tôi trắng quá không nhìn thấy”

          Trong không gian hư ảo của hư ảo, bóng dáng “em” áo trắng như ẩn hiện trong làn sương bạc, khiến mắt thường khó dò, khó phân biệt thật giả. “áo trắng” “…nhiều quá.’” Dòng thơ này thể hiện tâm trạng choáng ngợp, ngột ngạt và có phần xót xa của nhà thơ bởi dù cố gắng hết sức cũng không thấy rõ, sự hiện diện của mình có bao giờ hiện diện trong thế giới ý niệm, mà không thể trở thành hiện thực.

          “Ở đây có sương mù”

          “Nơi đây” có thể là không gian thực của xứ Huế, nơi khung cảnh buổi sớm còn mờ sương, hoặc cũng có thể là không gian tâm linh mờ ảo, nơi tác giả chìm đắm trong những suy nghĩ của mình. Nỗi đau của chính mình, nỗi đau, sự tuyệt vọng… Sự mờ ảo của không gian cũng làm cho câu hỏi “ai biết tình ai giàu” thêm khắc khoải, da diết hơn.

          Một câu hỏi tu từ không có đáp án chứa đựng một sự bất an về nỗi hoài nghi của một thiếu nữ Huế về tình cảm của mình, liệu nó có thật lòng hay chỉ là ảo giác của chính nhà thơ? .Chuyện đã đến nước này, liệu tình cảm của người xưa có thay đổi? Lời thơ “Cảnh xưa còn mà lòng người đã đổi” của Hàn Mot Tu thường có cảm giác bất an.

          Sau đó, khổ thơ cuối cùng của bài hát “Đây thôn Vida” nhuốm màu buồn bã, nghi hoặc, bất an và cả sự chân thành của một tâm hồn cô đơn tuyệt vọng để tồn tại.

          Phân tích đoạn 3 đây là thôn Vĩ Dạ – mẫu 2

          Xem Thêm : Hóa học lớp 8 – Bài 24 – Tính chất của oxi

          Hàn Kết Đồ là một trong ba nhà thơ đỉnh cao của phong trào Thơ Mới, một nhà thơ tài hoa nhưng bất hạnh. Tác phẩm của ông tràn đầy hồn thơ mạnh mẽ, nhưng luôn đấu tranh với nỗi đau, luôn có sự giằng xé giữa tâm hồn và thể xác. Đặc biệt, bài thơ “Làng Đây Vida” là một bài thơ chứa đầy tinh thần của người chồng dành cho người mình yêu. Khổ thơ cuối là một dòng cảm xúc mơ hồ, huyền ảo.

          Từ tiếng kêu đau khổ ở câu 2 đến câu 3 đã trở thành tiếng kêu khẩn thiết, cầu khẩn, mong mỏi gắn liền với một sơ tiết nào đó:

          “Mơ khách phương, khách phương xa, áo em trắng không thấy.”

          Những bóng dáng cụ thể trước hết là những người khách phương xa, sau là tôi trong tà áo trắng tinh khôi. Hình ảnh đẹp đẽ của người khách phương xa đã dần biến thành người chị với bao ước mơ bấy lâu nay. Khách hàng một phương trời xa, nay khách hàng một phương trời xa, kèm theo đó là những “giấc mơ” còn hão huyền hơn. Những bóng hình ấy tuy đẹp nhưng vẫn thuộc về ngoại cảnh của quá khứ mà đối với thi nhân chỉ là một giấc mộng dài. Han Ketu có ước nguyện được gặp khách và ngắm nhìn mỹ nhân, nhưng điều ước của anh sẽ không thành hiện thực, bởi vì anh chỉ dám mơ trong giấc mơ của mình.

          Ở câu thơ thứ hai, “Áo em trắng quá”. Từ “tai” là một biểu hiện phổ biến của sự ngưỡng mộ và kinh ngạc đối với những người đẹp trong thời điểm này. Màu trắng xuất hiện không dưới hai lần: trong văn học trung đại, đó là màu trắng của tang tóc, màu trắng của đau thương tưởng như nói lên sự chia tay. Trong văn học hiện đại, nó là một màu trắng mới, sáng hơn và tươi hơn. Nó trong trắng, thuần khiết. Thật vậy, Hanmotu có một khái niệm mới, một khái niệm thẩm mỹ sáng tạo và hiện đại.

          Đó là một màu trong sáng, thánh thiện. Nó liên tưởng đến một kí ức xa xăm, người con gái gắn liền với màu áo “không nhìn thấy” rất ngang trái, màu áo gợi một vẻ đẹp xa vời khó nắm bắt, như thực mà mộng ngụ ý rằng có một vẻ đẹp, nhà thơ muôn đời tôn thờ đang dần xa tầm với. Ngay khi hình bóng người phụ nữ xinh đẹp ấy hiện ra rõ ràng nhất trong đầu cô, tỏa sáng nhất cũng là lúc cô tuyệt vọng nhất. Nhà thơ mượn từ mộng mà nói về những điều có thực diễn ra trong tâm hồn con người.

          Nhưng hai dòng cuối cùng:

          “Trong mây khói mới biết ai yêu sâu đậm.”

          Chủ thể trữ tình từ ngoại cảnh trở về với thế giới hiện thực của mình đầy đau thương, chia ly với nỗi ám ảnh về cái chết:

          “Dù tôi còn ở đây hay ở đâu đó, ai đó đã đưa tôi đến tận chân trời sâu thẳm.”

          Hoặc:

          “Chúa ơi, bao giờ con chết, bao giờ con hết yêu.”

          Sự trở lại của “Smoky Fog” trong “Here Is Vader Village”. Dù là sương mù của thực tại sắc màu hay sương mù của thời gian, mọi thứ dường như đều cách xa cái “mờ ảo” hư ảo. Câu hỏi “Ai biết tình ai dạt dào?” kết thúc bài thơ một cách bâng khuâng. Động từ hư không “ai” chỉ vang vọng, làm văng vẳng đâu đó của câu thơ xa xăm, có thể là của tác giả hoặc của cô gái. Chỉ biết rằng nó kết thúc bài thơ trong nỗi buồn mênh mang, đầy xót xa đau thương cho cuộc đời và niềm khao khát vô hạn của con người.

          Phần cuối cùng có thể được hiểu theo hai cách. Phải chăng người con gái xứ Huế mới biết tình cảm của nhà thơ sâu nặng đến nhường nào, hay nhà thơ biết người con gái ấy cũng có tình cảm với mình. Nhưng dù hiểu thế nào, vẫn sẻ chia thấu hiểu và được yêu thương trong cô đơn, đau đớn, tuyệt vọng nhưng không ngừng khao khát. Nhưng dù tuyệt vọng, dù đau đớn, cô đơn, tác giả vẫn tràn đầy khát khao. Dù phải đối mặt với bệnh tật, đau đớn nhưng anh không bao giờ tuyệt vọng, luôn hướng tới một cuộc sống mới và hăng hái sống.

          Ở khổ thơ cuối của bài thơ, hình ảnh ngôi làng này dường như đã chạm đến trái tim người đọc, họ hiểu được những ước mơ, khát vọng mà Hàn Kết muốn có, tuy rất đỗi bình thường nhưng đối với tác giả lại vô cùng thiêng liêng. Linh thiêng. Những câu thơ dạy ta biết quý trọng cuộc sống này hơn.

          Phân tích đây là vi da quận 3 – mẫu 3

          Trong phong trào thơ mới, Hàn Kết Đồ là một hiện tượng thơ lạ lùng nhất, “một giọng thơ độc đáo không lẫn với ai”. Làm thơ trải nỗi đau trên trang giấy mong manh, hướng đến tận cùng nỗi đau, thơ Hàn Kết Đồ thực sự là “giọt nước mắt” của một tâm hồn sắp chết sắp chia phôi. Tuy nhiên, bên cạnh những vần thơ đẫm máu và nước mắt, Hàn Kết Đồ còn có một giọng thơ trong trẻo như ánh ban mai, trong vắt như nước ngược dòng. “The Village of Vida”, dựa trên “Tuyển tập thơ điên”, là những vần thơ trong sáng và thuần khiết do Han Mektu để lại, nhưng nó vẫn chứa đựng tình yêu đối với nỗi đau của cuộc đời. Nếu đoạn một nói về khu vườn trong bầu trời đêm sáng sớm, đoạn hai kể về đêm trăng ở Huế với cảm giác tội lỗi, chia ly, chia ly thì đoạn ba lại nói về bóng dáng người lữ khách phương xa và giấc mơ của anh. . Nhà thơ:

          Tôi mơ thấy khách phương xa, khách phương xa tôi trắng quá không thấy

          Bị cuộc sống cắt đứt, nhưng Hàn Motu không bao giờ chịu đầu hàng. Càng bị cuộc đời xa cách, ruồng bỏ, nhà thơ càng yêu đời đến da diết. Khi giấc mơ trở về Bản Pí hư không, nhà thơ lại mơ thấy người yêu ở bản: “Mơ một người khách phương xa, một người khách phương xa”. Giấc mơ sao nhạt nhòa, người thương thành khách phương xa. Câu “Khách đường xa, khách đường xa” hàm chứa bao cảm xúc chia ly, tiễn biệt phức tạp. Phương pháp truyền tách giống như nuôi giun thông qua nghệ thuật nhắn 4/3 liên tiếp. Ta cứ ngỡ rằng, trong giấc mơ của nhà thơ, hình bóng người lính vừa hiện ra đã mờ đi, khuất hẳn, biến mất. Những người yêu cũ dường như đang rời xa tôi. Câu thơ tự sự có những giọng điệu kỳ diệu của tiếng nức nở nghẹn ngào, than thở và thất vọng.

          Trong giấc mơ của nhà thơ, hình bóng em thật ám ảnh: “Áo em trắng quá không thấy”. Áo em pha sương, anh không thấy đâu em biết không? Có thể không. Câu thơ chỉ là một cách miêu tả cực đoan về sự trong trắng tuyệt đối của nhà thơ, một sự trong trắng lạ lùng. Cực tả ban đầu là khuynh hướng của Hammetto. Hơn nữa, nàng thơ trong thơ ca Hàn Quốc luôn hiện lên như một vẻ đẹp lý tưởng của sự trinh trắng, thuần khiết luôn được thể hiện bằng sự trong trắng. Chẳng hạn, vẻ đẹp trong sáng của người trinh nữ từng được miêu tả: “Tử thần áo trắng tinh như sạch”. Vẻ đẹp trinh nguyên của chị tôi trong vở kịch “Chơi trăng” cũng được nhà thơ miêu tả khi mặc áo trắng: “Bỗng tôi thấy chị tôi thanh tao và trong trắng như Đức Trinh Nữ Maria. Sao đêm nay chị tôi đẹp thế? vẫn mặc đồ trắng và trông thật sạch sẽ’” Vậy, màu trắng lạ lùng của Han McTue thực sự muốn gửi gắm thông điệp gì? Phải chăng đó là sự mê hoặc tột độ trước sự trong trắng, trinh nguyên, xinh đẹp tuyệt trần của người mình yêu? Cùng với Vườn ngọc trai, Mặt trăng diệu kỳ và những hình bóng trinh nguyên của những người từ xa, chúng tạo thành thế giới bên ngoài, thật lộng lẫy và quyến rũ. Nhưng cũng như nỗi nhớ khu vườn lúc bình minh, sông nước Huế đêm trăng gắn liền với niềm đam mê tột cùng, đó là nỗi đau khắc khoải. Đoạn thơ này không chỉ là lời thú nhận về sự bất lực của thị giác, mà của sự bất lực về tinh thần của tâm trí, phải cách biệt với thế giới bởi một ngàn thế giới, sự tuyệt vọng của cả dãy.

          Xem Thêm: Bản đồ Hành chính các tỉnh Việt Nam khổ lớn phóng to năm 2022

          Ước mơ của người nước lớn, nhà thơ không khỏi đau xót, hình ảnh người yêu xa càng rực rỡ thì khoảng cách càng xa. Cuối cùng, nhà thơ không còn cách nào khác đành phải trở về thực tại với niềm nuối tiếc: “Ở đây sương mù”. “Đây” là không gian, là đêm mộng mơ hay là trại phong lạnh lẽo, là dinh thự bị chia cắt nơi nhà thơ ngày đêm chống chọi với cái ác. Ở đây sương mù dày đặc, chôn vùi những hình bóng. Loại sương khói nào có sức mạnh bao phủ mạnh mẽ như vậy. Chỉ có thể là sương mù thời gian xa xôi, vạn dặm thời không, tình đơn phương vô vọng, chia tay phức tạp. Những lớp sương mù đó bao trùm hình ảnh và bóng tối. Vậy là nhà thơ ở đây coi như đã không còn tồn tại. Trong câu thơ có tiếng quên đời khổ đau:

          Tôi đang ở đây hay ai đó đã đặt tôi ở đâu đó dưới bầu trời

          Mọi thứ trên thế giới đều phản bội Han Motu. Chỉ có tình yêu nhỏ nhoi ấy là sợi dây duy nhất gắn kết nhà thơ và cuộc đời. Nhưng một thứ tình yêu khác cũng mong manh, xa cách: “Biết đâu tình ai giàu sang”. Việc sử dụng và biến đổi linh hoạt đại từ nhân xưng “ai” đã mang đến cho toàn bài thơ những ý nghĩa phong phú và thú vị. Bài thơ có thể được đọc là “bạn biết tình yêu của tôi vẫn còn mạnh mẽ”. Hiểu được bức thư, câu thơ này khẳng định tình cảm sâu nặng, thiết tha của nhà thơ đối với người anh lớn của mình. Đằng sau vẻ mặt nghiêm túc ấy có chút tức giận và trách móc. Sao em không hiểu lòng anh? Có thể hiểu ý thơ này theo cách khác: “Biết tình em có bền không?”. Theo chiều hướng này, câu thơ hiện lên như một câu hỏi đầy hoài nghi, một tiếng thở dài não nề, khắc khoải. Cho biết đó có thể là câu trả lời cho câu hỏi xuất hiện ở đầu bài thơ:

          (Q) Sao bạn không về làng chơi? (Đáp) Ai biết tình ai dạt dào?

          Muốn quay lại chiếc ví của anh, nhưng anh không thể quay lại, bởi vì anh không biết tình yêu của em mạnh đến mức nào. Câu hỏi ấy cứ quẩn quanh trong tâm trí người đọc, với một nỗi buồn man mác. Ở những câu thơ cuối, tình yêu mãnh liệt nhưng đau đớn và vô vọng với cuộc sống trần gian được thể hiện một cách cảm động.

          Kết thúc “Đây thôn Vĩ Dạ” ta mới hiểu được hoàn cảnh của nhà thơ. “Làng Vida đây” không chỉ lay động lòng người bằng nỗi nhớ nhung da diết mà còn làm say lòng người đọc bằng vẻ đẹp nên thơ. Cảm nhận khổ thơ cuối bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”, từ ngữ trong sáng, hình khối phong phú, cách diễn đạt tinh tế, lay động lòng người. Khung cảnh thiên nhiên nối tiếp nhau không theo sự thống nhất về thời gian và không gian nhưng vẫn gây ấn tượng sâu sắc cho người đọc. Vừa tạo nên sức hấp dẫn của tác phẩm, vừa làm nổi bật tài năng của Hàn Kết Đồ. Không có gì sai khi ai đó nói:

          <3

          Phân tích đây là vi da quận 3 – mẫu 4

          Hàn Kết Đồ – một nhà thơ tình luôn “quậy”, anh đã yêu rất nhiều nhưng tất cả những gì anh nhận được từ tình yêu là sự cay đắng và tủi nhục. Trong cuộc đời anh không có nhiều niềm vui, chỉ có sự cô đơn và buồn bã. Mọi tâm tư đều gửi vào thơ. Thơ anh vật vã trong đau đớn, đẫm nước mắt và có phần điên dại. Trong số những bài thơ ma quái, lạ lùng ấy, có cả bài thơ trong trẻo của kiệt tác “Làng Vida đây rồi”. Đặc biệt là khổ thơ cuối, thể hiện niềm khao khát sống và làm người mạnh mẽ nhất của nhà thơ, đồng thời cũng rất buồn.

          Nếu đoạn đầu mở ra với khung cảnh thiên nhiên tươi đẹp, trong trẻo tắm mình dưới ánh mặt trời mọc thì sẽ rất hấp dẫn. Tiếp ngay đoạn hai là cảnh mây trời sông nước trên dòng sông hư ảo, huyễn hoặc trong một đêm trăng, với nỗi đau đớn, tiếc nuối của nhà thơ khi sắp lìa đời. Đến Nhạc Giang Nhạc Châu đã đưa Hàn Kết vào cõi mộng đầy hư ảo trong ải cuối cùng. Đây cũng là bài thơ đầy cảm động nhân văn và khát vọng sinh tồn của nhà thơ.

          Bị cuộc đời ruồng bỏ, nhưng Hàn Kết Đồ không hề ruồng bỏ cuộc đời mà càng yêu cuộc sống hơn. Hiện thực đau đớn và phũ phàng đến nỗi nhà thơ phải tìm niềm an ủi trong những giấc mơ. Bao trùm phần thứ ba là màu hư vô. Thật và giả, thật khó phân biệt đâu là mộng. Tình yêu con người và thiên nhiên xứ Huế luôn đọng lại trong giây phút cuối đời của nhà thơ. Nhưng những căn bệnh hiểm nghèo, quái ác có lúc khiến nhà thơ như không còn tỉnh táo, đâu còn là thực, đâu là mơ:

          “Mơ về khách hàng từ xa”

          Nhà thơ đang chìm vào giấc ngủ, trong trạng thái “mơ” vô thức. Điệp từ “lữ khách” được lặp lại hai lần, lần lặp thứ hai lược bỏ từ “mộng” khiến cho bài thơ như chứa đựng hai tâm trạng, tâm trạng khác nhau: lần đầu là mong ước, lần sau là thực tại. Ước là mơ người ở xa, mơ người cũ ngày xưa, nhưng cảnh cũ là hiện thực. .

          Câu thứ hai: “Áo em trắng thấy sao” Trong không gian hư ảo vô định ấy, hình ảnh “Áo em trắng quá” khiến nhà thơ cảm thấy choáng ngợp, ngột ngạt, xót xa. Khao khát được chiêm ngưỡng tà áo trắng tinh khôi của tuổi thơ, nhưng căn bệnh đã khiến nhà thơ không còn tỉnh táo, lạc vào khoảng trống “vô hình”, không biết đó là màu gì. Là áo em trắng hay là màu của em những suy nghĩ và kỉ niệm xưa.

          “Nơi đây sương mờ”, “nơi đây” có thể là không gian thực của xứ Huế nắng mưa, sương mờ hư ảo nhưng cũng có thể là không gian của tâm hồn. ,Tác giả chìm đắm trong không gian đau thương, tuyệt vọng đến tột cùng để rồi đặt ra một câu hỏi bỏ ngỏ “Ai biết tình ai có đậm đà?”. Một câu hỏi tu từ hàm chứa sự bất an, nghi ngờ về tính nhân văn của người dân xứ Huế. Hay sau một thời gian xa cách, lâm trọng bệnh, người Huế vẫn thương yêu trân trọng, hay đã quên mình, trốn tránh. Câu cuối lẽ ra cũng phải là một bài thơ: “Sao em không về chèo đò?” Nhà thơ muốn trở lại chốn cũ, gặp lại bạn cũ, nhưng “cảnh cũ còn đâu, còn đâu”. lòng người đã thay đổi.” Đoạn thơ kết thúc cả bài thơ trong sự hoài nghi và tuyệt vọng, nhưng vẫn còn tìm thấy niềm khao khát nhân thế, khát khao thế giới không nguôi của nhà thơ.

          Khổ thơ cuối đượm nỗi buồn, hư ảo, pha chút hoài nghi, trách móc, tràn đầy nhiệt huyết yêu đời, với tâm hồn cô đơn, khao khát được sống, khao khát được sống đến cùng. tê liệt.

          Với hình ảnh thơ đặc sắc, đẹp và gợi cảm, ngôn ngữ giàu ước lệ nghệ thuật, giọng điệu trong sáng, nhịp điệu nhuần nhuyễn, các nghệ thuật nhân hóa, ẩn dụ, câu hỏi tu từ được kết hợp nhuần nhuyễn xuyên suốt. Ở Huế, thiên nhiên và con người, thế giới thực và thế giới ảo, suy nghĩ và ước muốn hòa quyện một cách hoàn hảo. Qua việc cho người đọc cảm nhận khổ thơ cuối của bài thơ “Làng này”, tác giả muốn bày tỏ tình yêu mãnh liệt đối với thiên nhiên, con người và niềm khao khát sống.

          Làm thơ trong hoàn cảnh hấp hối. Nhưng cái ta bắt gặp vẫn là tình yêu, là sự gắn bó thiết tha với thiên nhiên, con người và cuộc sống. Cành làm ta đồng cảm, yêu mến sức sống phi thường trước mặt, vượt qua bao gian khổ khắc nghiệt, hoang vắng mà sống, cống hiến.

          Lúc hấp hối, tuy hốt hoảng nhưng vẫn để lại khát vọng cháy bỏng, dâng tặng cho đời bài thơ tuyệt tác “Đây thôn Vĩ Dạ”. Ra đời đã gần 8 năm, những vần thơ tình cảm, buồn man mác này vẫn khiến trái tim hàng trăm triệu độc giả rưng rưng, ​​thương tiếc và thương tiếc cho nhà thơ. Thực ra, chỉ cần một phút thăng hoa cũng đủ để tạo nên một trang tuyệt vời.

          Phân tích đoạn cuối Đây thôn Vĩ Dạ – văn mẫu 5

          raxun gamzatop đã từng nói “Đối với nhà thơ, lối viết và phong cách của anh ta là một nửa công việc. Bài thơ dù đặc sắc đến đâu cũng phải đẹp. Nó không chỉ đơn giản. Đẹp đơn giản. Và nó cũng đẹp trong chính nó. Đối với nhà thơ, để tìm ra phong cách riêng của bạn – đó là, để trở thành một nhà thơ.” Vì vậy, thơ Hàn Kết Đồ đã để lại ấn tượng sâu sắc trong phong trào Thơ mới với phong cách độc đáo. Thơ ông gợi lên tiếng nói của một tâm hồn yêu đời. Bài thơ “Làng Weida đây” cũng làm nổi bật tình yêu cuộc sống của tác giả nhưng chứa đầy quan niệm nghệ thuật. Hai khổ thơ đầu của bài thơ gợi lên vẻ đẹp của làng quê, khổ thơ cuối gợi lên nỗi nhớ của tác giả đối với những người ở nơi nước lớn:

          “Tôi nằm mơ thấy khách từ xa, khách từ xa đến, áo trắng nhìn không thấy.

          Không tìm được sự đồng điệu với thế giới hiện thực, nhà thơ tìm đến sự an ủi trong giấc mơ, nhưng giấc mơ đẹp chỉ là ảo ảnh mà nhà thơ vẫn không ngừng khao khát, theo đuổi. Mở đầu là hai câu thơ nói về nhân vật trong giấc mơ: “Em mơ thấy khách phương xa, khách phương xa/ Áo em trắng nhìn không thấy”. Từ “người đi” được lặp lại hai lần khiến lời thoại gấp gáp, gấp gáp, như một lời kêu gọi. Bóng dáng con người càng rõ nét hơn bao giờ hết, “em” chưa xa. Khoác trên mình bộ váy trắng toát, cô toát lên vẻ đẹp thuần khiết không tì vết — vẻ đẹp mà Hàn Mặc luôn ngưỡng mộ chỉ là sắc trắng ấy lạnh lùng đến lạ, và sự lạnh lùng đó đến từ một thế giới hư ảo. Màu áo trắng hòa với sương khói càng trở nên mờ ảo, hư ảo, “không thể nhận ra”. Nhà thơ sống trong ảo mộng, không phải bằng con mắt của thể xác mà bằng con mắt của tâm hồn, con mắt của tâm hồn thi nhân. Những hình ảnh trong thơ của tác giả vẫn gợi lên vẻ đẹp của xứ Huế mộng mơ, của xứ sở sương khói mơ màng, của những tà áo dài trắng của những cô nữ sinh Đông Khánh một thời quyến rũ. Cảnh tượng trước mắt dần trở nên hư ảo, như vĩnh viễn mờ mịt. Dường như trong Hàn Kết, bóng hình cô gái đã ngậm ngùi, mãi xa rồi cuối cùng chỉ còn là bóng hình của khát vọng, ước mơ của nhà thơ. Và bóng dáng ấy chỉ là ấn tượng của tà áo dài trắng tinh khôi. Câu thơ cuối bộc lộ cái tôi trữ tình đau đớn và tình yêu cuộc sống, con người. trước sau vẫn là hiện thân của một tâm hồn yêu đời đến mức đau đớn, tuyệt vọng.

          Càng về cuối bài thơ, nỗi tuyệt vọng của nhà thơ càng được đẩy lên cao thể hiện ở hai câu cuối: “Ở đây sương mù/ Biết đâu tình ai đậm đà”. Tâm trạng của Han Motu lúc này chỉ là buồn bã và tuyệt vọng. Khi nhà thơ nói “ở đây” là nói về chính mình và thế giới của mình, một thế giới bao phủ trong sương mù. Ông dùng đại từ “ai” được lặp đi lặp lại để gợi lại tiếng vọng của cuộc đời đã qua cho thấy tác giả đang nói đến một người đã xa trong nỗi nhớ. Dù là ai thì sự băn khoăn, lo lắng, tuyệt vọng cũng xuất phát từ một tâm hồn khao khát sống, yêu đời, yêu cuộc sống, yêu nhân loại. Đến đây, nhà thơ đau đớn nhận ra rằng khoảng cách giữa người con trai và người con gái mình yêu không phải là khoảng cách giữa Quy Nhơn và Huế, mà là khoảng cách ngăn cách hai thế giới: giữa bóng tối và ánh sáng, giữa “khói” và “khói”. giữa. Sự “ngây thơ” khiến em không thể nhận ra tình cảm của anh. Người ta có thể nhận ra một điều tất yếu, đó là giữa hai con người này có một khoảng cách về không gian, thời gian và tình yêu. Còn cậu con trai bệnh tật, đầy mặc cảm về thân phận của mình, không thể tin và không thể tin được sự giàu có và thân phận của một con người. Tại sao người đó ở rất xa tôi, nhưng lại ở một thế giới quá khác biệt với tôi? Nhà thơ dường như lảng tránh những lời yêu thương của một cô gái Huế. Không gian chìm trong mộng huyễn, tâm trạng nhà thơ nửa mê nửa tỉnh trong niềm khát khao yêu đời. Nhà thơ luôn cảm thấy lạc lõng, loay hoay trong giấc mộng tình yêu đơn phương. Một hy vọng mong manh nhưng chân thành dường như tan theo sương khói.

          Xem Thêm : Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa… Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa

          Toàn bài thơ sử dụng những hình ảnh thơ đặc sắc, đẹp và gợi cảm, ngôn ngữ giàu cảm xúc, giọng điệu trong sáng, nhịp nhàng, kết hợp nhuần nhuyễn các biện pháp nhân hóa, ẩn dụ, câu hỏi tu từ,… Xuyên suốt bài thơ, Hàn Mộng Đồ đã phác họa một cảnh sắc thiên nhiên, một cảnh sắc văn hóa xứ Huế đầy sức sống. một bức tranh hoàn hảo kết hợp giữa hiện thực và mộng tưởng, giữa suy nghĩ và khát vọng. Qua đây, tác giả muốn bày tỏ tình cảm sâu sắc của mình đối với thiên nhiên, con người, cũng như niềm khao khát sống, khát khao sống của mình. Làm thơ trong hoàn cảnh sắp chết. Tuy nhiên, điều chúng ta bắt gặp vẫn là tình yêu, tình yêu thiên nhiên, con người và cuộc sống.

          Bài thơ chứa đựng nỗi nhớ nhung, ước mơ, khát khao được thăm lại cố nhân nơi cố hương Hanmatu khiến bao văn nhân bùi ngùi. Đây cũng là tiếng lòng của nhân vật trữ tình dành cho Huế sau bao năm xa cách trong sự mờ ảo của thực và hư. Tác giả sử dụng các biện pháp tu từ hiệu quả để bộc lộ các tầng lớp và tâm trạng của chính mình.

          Phân tích đoạn cuối Đây thôn Vĩ Dạ – văn mẫu 6

          Hàn Kết Đồ là một nhân vật nổi tiếng thuộc trường phái thơ siêu thực, có hương vị thơ độc đáo và ngôn ngữ đặc biệt. Bài thơ “Làng Weida đây” của ông có văn phong trong sáng, đầy hứng thú đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc. Đoạn thơ này thể hiện nỗi buồn và niềm khao khát mãnh liệt của một trái tim yêu cuộc sống, yêu thiên nhiên và con người. Điều đó được thể hiện sâu sắc và xúc động nhất ở khổ thơ cuối bài thơ:

          “Tôi mơ thấy khách từ xa, khách từ xa đến, áo trắng quá không thấy.

          Nếu như ở khổ thơ trước, nhà thơ bày tỏ nỗi niềm day dứt, chia ly bằng một giọng điệu khắc khoải, đau xót thì đến đoạn này, lòng người đọc không khỏi rung động trước lời van xin thiết tha, nghẹn ngào:

          “Mơ khách phương, khách phương xa, áo em trắng không thấy”

          “Khách phương xa, khách phương xa”, tiếng gọi chứa đựng nỗi niềm chia ly vang lên. Nghệ thuật điệp 4/3 liên tiếp được nhấn mạnh hơn, tăng gấp bội khoảng cách ngăn cách. Tiếc thay, người tôi yêu đã trở thành khách phương xa, hư ảo. Trong giấc mơ của nhà thơ, hình bóng vừa hiện ra đã vội mờ đi rồi mất hút. Khách đã đi xa lại hiện ra trong “giấc mơ” lại càng hão huyền. Dường như những bóng hình ấy dù đẹp đến đâu cũng thuộc về một thế giới xa xăm, không thể với tới.

          Hình ảnh thơ đặc sắc được miêu tả qua chi tiết “Áo em trắng quá”. Nhà thơ choáng ngợp, nghẹn ngào và xót xa bởi dù khao khát được xúc động nhưng bệnh tật đã ngăn cách dòng sông với cuộc đời, lạc lõng trong không gian “vô hình”. Tôi không phân biệt được màu trắng là màu của “em” hay màu của kỷ niệm xưa, chỉ biết đó là một màu trắng mới, tươi tắn hơn, tinh khiết và trong trẻo hơn, thể hiện quan niệm thẩm mỹ cách tân, hiện đại trên thế giới. . thơ.

          Câu thơ này có vẻ vô lý nhưng lại có lý đến không ngờ: “Áo em trắng quá không thấy”. Màu trắng tràn ngập suy nghĩ của nhà thơ, làm cho những cái bóng trước mặt anh trở nên mờ ảo và hư ảo. Đoạn thơ tả cảnh nơi đây đã trở thành một bài thơ đầy cảm hứng về tình yêu đơn phương:

          “Nơi đây mù sương, mưa sương, biết ai thương ai hơn?”

          Xem Thêm: Giải đáp bài C6 trang 36 vật lý 9 – Ngắn gọn và dễ hiểu cho học sinh

          Trong không gian suy tưởng, tác giả như chìm đắm trong nỗi đau đớn, tuyệt vọng đến tột cùng để rồi thảng thốt “Biết rằng tình ai có đậm đà?”. Đó là một câu hỏi tu từ, đầy hoài nghi và tuyệt vọng về mối tình đơn phương đã định sẵn. “Sương hư ảnh” là sương ẩn chứa trong thơ tình ấp ủ. Huế đâu có cảnh sắc thiên nhiên như tranh vẽ, chỉ có sương mù che khuất bóng người.

          Câu hỏi “ai biết tình ai có nhiều” vang lên nỗi khắc khoải của mối tình nghèo đơn phương. Kết hợp với đại từ mơ hồ “ai” ba ngôi càng làm cho lời thơ rộng lớn, bất định. Nhà thơ muốn trở lại quê hương và gặp lại những người bạn cũ của mình. Đoạn thơ kết thúc trong sự hoài nghi và tuyệt vọng, nhưng vẫn chứa chan niềm khao khát sống và làm người mãnh liệt của nhà thơ.

          Có thể nói, Hàn Kết Đồ đã thành công trong việc tạo dựng một hình ảnh thơ độc đáo, gợi cảm chỉ trong một khổ thơ ngắn, ngôn ngữ thơ giàu sức lôi cuốn. Nhịp thơ trong sáng, tha thiết được kết hợp với các biện pháp nghệ thuật và câu hỏi tu từ khéo léo. Nhờ đó giúp nhà thơ phác họa được một khung cảnh thiên nhiên không tuân theo sự thống nhất về thời gian và không gian nhưng lại ấn tượng lạ thường. Đặc biệt, nó thể hiện tình yêu thiên nhiên, cuộc sống mãnh liệt, thể hiện khát vọng sống mãnh liệt của ông. Đoạn thơ này góp phần đáng kể vào sự thành công của bài thơ “This Village Is Vader” và phong cách thơ của Hammetto.

          Được viết cách đây gần chục năm, khi nhà thơ đã cận kề cái chết, nhưng bài thơ đầy suy tư, trăn trở này vẫn dễ dàng chạm đến trái tim của hàng triệu độc giả. Trân trọng thơ, nhưng cũng phải trân trọng và đồng cảm với chính mình – một nhà thơ thiên tài trong thế hệ các nhà thơ mới.

          Phân tích mục 3 bài này thôn Vĩ Dạ – mẫu 7

          Hàn Kết Đồ là nhà thơ thuộc trường phái thơ siêu thực, có ý thơ độc đáo, khác lạ, cách diễn đạt siêu thực, ngôn ngữ đặc sắc. “Đây là làng Weida” là một bài thơ hiếm hoi đầy hứng thú và thú vị trong các bài thơ của Han Mektu. Sau khi nhà thơ Hoàng Chúc biết được mối tình thầm kín của Hàn Mộ Tử dành cho mình, cảm hứng từ tấm bưu ảnh anh gửi cho Hàn Mặc Tử mà viết bài thơ nhớ tình xưa còn cháy bỏng. Những câu thơ thể hiện nỗi buồn, niềm khao khát của những con người yêu cuộc sống, cuộc sống, thiên nhiên và con người. Đặc biệt khổ thơ cuối vẫn là sự bối rối của tác giả, có chút khao khát và một tình yêu thầm kín vô vọng:

          “Tôi mơ thấy một vị khách từ xa đến, một vị khách từ xa đến, người mà áo trắng đến nỗi tôi không thể nhìn thấy họ… Ai biết nơi đây sương mù bao quanh như thế nào?”

          Theo lời kể của những người thân và bạn bè của nhà thơ, khi còn làm việc ở sở đo đạc đất đai ở Quy Nhơn, Han Mektu đã yêu một cô gái tên là Huangshi Jinzhu, chúng tôi quen gọi là Huangzhu. Đây là cô con gái một gia đình viên chức, có nét đẹp dịu dàng, thùy mị theo kiểu nhà quê. Trên thực tế, đây chỉ là tình yêu đơn phương của Han Ketu.

          Khi nhà thơ sắp chết vì bệnh, ông nhận được thiệp chúc mừng từ Yuju. Lời chào không có chữ ký, nhưng những bức ảnh và những dòng chữ khác khuấy động trí tưởng tượng, truyền cảm hứng và gợi lại những bí mật cổ xưa của Hanmotu… Nhà thơ viết bài thơ này để tặng người con gái của mình. “Đó là một ngôi làng tuyệt vời,” giọng điệu tha thiết. Nghiêm túc về cô gái mà anh phải lòng, về khung cảnh ở Huế, con người ở Huế và quan trọng nhất là cuộc sống. Tất cả những điều đó làm cho tiếng nói nội tâm riêng tư của Han Ketu trở thành tiếng nói vĩnh cửu của cuộc sống.

          Theo dõi bài thơ này ta sẽ thấy rõ dòng cảm xúc của nhà thơ. Nếu như khổ thơ đầu miêu tả vẻ đẹp của một vườn quê hùng vĩ thì nhà thơ mong một ngày được trở lại cảnh xưa của người xưa. Đoạn hai, tả cảnh kì ảo của đêm trăng trên sông: gió, mây, nước, hoa hai đầu… trong không gian vắng vẻ, hiu quạnh. Một nhấp nháy liên tục của sự rõ ràng thực và ảo. Khung cảnh đượm buồn, hệt như nỗi khắc khoải, trăn trở, ngột ngạt của nhà thơ trước linh cảm của sự chia ly, chia ly, khổ ba khắc họa hình ảnh người lữ khách đường xa, chốn bồng lai sương khói, cảnh đẹp như mơ. Dẫu có khách phương xa, áo trắng… nhưng tất cả đều nhạt nhòa, như một tình yêu chớm nở vội tan vào hư vô, để lại trong lòng người những hoài nghi, mong chờ.

          Người con gái trong thơ Hàn luôn là hiện thân của vẻ đẹp tuyệt đỉnh trên đời. Khổ thơ cuối của bài thơ cũng tập trung vào hình ảnh người thiếu nữ. Hình ảnh “họ” đã trở nên cá biệt, xa vời và hư ảo. Lời bài hát nghe như tiếng nức nở, nghẹn ngào, uất ức, vật vã, tủi hổ :

          “Mơ khách phương xa, khách phương xa, áo em trắng không thấy…”.

          Trên là vườn đẹp, trăng đẹp, nay bóng người “lữ khách” đẹp. Hình ảnh ấy làm chúng ta nhớ đến khuôn mặt đầy ám ảnh trong lớp lá tre. Đây là vẻ đẹp trinh nguyên mà nhà thơ yêu thích, là hình ảnh người con gái Huế tràn đầy sức xuân. Gắn liền với dáng người ấy là chiếc áo sơ mi trắng trơn. Màu áo ở đây cũng là màu áo trong tâm tưởng. Tác giả tưởng tượng trong đầu và thấy màu trắng trong ký ức nên không có thật. Lời thơ huyền ảo mà hay, chí lý, thật bất ngờ: Áo em trắng quá nhìn không thấy. Màu trắng lúc này chiếm trọn suy nghĩ và cảm xúc của nhà thơ. Những bài thơ hoàn cảnh đã trở thành những bài thơ tình yêu. Một kiểu yêu đơn phương, nghiêm túc và có chút đáng thương:

          “Nơi đây đầy sương mù, ai biết ai đang yêu?”

          Giữa anh và nơi ấy có một khoảng cách như sương khói: sương mù không gian, sương mù thời gian, sương mù tình yêu vô vọng. Câu thơ cuối là hai đại từ “ai” ám chỉ hai người có quan hệ ruột thịt với nhau. Những tín hiệu yêu thương của con người hiện diện, nhưng không đủ để cứu các linh hồn, nhất là những linh hồn bất hạnh. Nhà thơ muốn đến đỉnh cao của tình người: sự táo bạo. Trong bài thơ này có một chút giận dữ, một chút nghi ngờ và hơn hết là một tấm lòng tán thành.

          Hai câu cuối đưa ta vào hoài niệm của nhà thơ. Sương mù che mờ nhân ảnh không phải là khói lửa của đời thực mà là sương mù của tình yêu nhen nhóm trong lòng thi nhân, trong khoảnh khắc thi nhân đắm say trong mộng. Ở đâu có nắng từ cây trầu, khu vườn vẫn xanh như ngọc bích, những gương mặt chan hòa không còn bị gió làm vương vãi, nước chảy buồn, bông ngô đồng, sông trăng, thuyền chở trăng… chỉ có sương phủ bóng người. Không chỉ bóng em mờ mà thân anh cũng nhòe trong sương lạnh. Chữ tình còn đó mà thi nhân vẫn hoang mang, trăn trở: biết tình ai đậm đà?

          Ở đây, một tình yêu đơn phương bị hành hạ một cách đáng thương. Nỗi băn khoăn, day dứt không nguôi càng nhấn mạnh khát vọng được sống, được yêu thương, sẻ chia với cuộc đời. Nỗi day dứt, day dứt khôn nguôi càng nhấn mạnh khát vọng được sống, được yêu thương, sẻ chia của tác giả.

          Câu “khách phương xa” mang tính gợi tả, ngắt nhịp 4/3 tạo nhịp điệu khẩn trương. Nhấn mạnh sự háo hức mong chờ, cầu xin người xưa xa vời, nhưng kết quả là vô vọng. Hình ảnh tà áo trắng trong sương mù khiến người ta mờ ảo trước mắt, thậm chí là trong tiềm thức. Màu áo đầy ắp kỷ niệm trong tôi đã nhạt nhòa, xa xăm. Những câu hỏi tu từ cộng với đại từ tầm thường “ai”—một loại từ đa nghĩa—đã đẩy ý tưởng xuống vực thẳm. Những chập chờn tự nhiên, những bóng ma, những giấc mơ, vận động theo logic của cảm xúc. Đó là cái tôi đau đớn, nhạt nhòa, là cảm giác nghi ngờ, lo lắng, tuyệt vọng, là tâm trạng cay đắng, là mặc cảm không dám mong đợi sự giàu sang của con người. thế giới của đàn ông.

          <3 Từ khung cảnh thiên nhiên vui tươi, rực rỡ ở khúc một dần chìm vào mộng mị, khúc ba đi vào sương khói. Ấm lắm, ấm lắm tình nhưng đành để nó tan biến nơi vô danh, mịt mù chỉ còn lại dư vị đậm đà trong lòng người, trong lòng ta.

          Bài thơ này bắt đầu bằng một giai điệu tươi vui, nhưng kết thúc bằng một kết thúc buồn. Phải chăng nội dung bài thơ chỉ giới hạn trong nỗi đau cụ thể của tác giả khi hết yêu một cô gái Huế? Nếu vậy, nó không tồn tại ngày hôm nay. Nó cũng không đại diện cho nỗi đau của hàng ngàn cậu bé bất hạnh trong Ngôi Trường Tình Yêu. Nỗi bẽ bàng trong bài thơ đã ăn sâu bám rễ, vượt ra ngoài khuôn khổ tình yêu đôi lứa nhưng cho thấy tâm trạng không vui, lo lắng, mới buổi sáng vội vàng, buổi chiều còn nhiều mộng đẹp. Tất cả những điều tốt đẹp đều nằm ngoài tầm kiểm soát. Đó là tâm trạng của những người trí thức trẻ những năm 1930-1945 rất phấn khởi thể hiện mình nhưng luôn bị áp lực của xã hội phủ nhận, ánh sáng cách mạng chưa ló rạng.

          Tác giả im lặng trong giấc mơ. Vị khách phương xa này hình như không liên quan gì đến nhân vật của anh trong câu đầu tiên, mà miêu tả người khách má hồng mà anh gặp thoáng qua và nhớ mãi. Màu áo trắng là màu của khát khao, màu của ký ức hư ảo. Ngôi làng lớn ở đây chỉ là một địa điểm liên quan đến màu trắng đó. Thơ quê trở thành thơ tình. Tình yêu đơn phương thật khó định nghĩa.

          Câu thơ cuối đưa ta vào cõi tâm linh. Đây là một mối tình mới, một sự mê đắm vô hình. Ý thơ chơi, gợi, cảm mà khó cắt nghĩa…

          Trạng thái tâm hồn nhà thơ diễn biến như thế này: khát khao cháy bỏng – hoài niệm bâng khuâng – hoài nghi ước mơ. Càng về sau, sầu càng sầu. Đây là những mức độ khác nhau của tình yêu vô vọng. Tuy nhiên, đằng sau tình yêu ấy vẫn là một nỗi nhớ da diết về cuộc đời. Những câu hỏi này là hình thức mà nhà thơ bày tỏ tâm trạng của mình. Giọng điệu càng về sau càng mạnh mẽ, sâu lắng, ba khổ thơ tưởng chừng như độc lập lại liên kết với nhau một cách tự nhiên tạo thành một bài thơ hay và trọn vẹn.

          Khổ thơ cuối cùng của bài thơ “Đây làng Weida”, mỗi khổ thơ chứa đựng một chất thơ trọn vẹn, có thể trau chuốt độc lập mà không mất đi sức hấp dẫn. Câu thơ nào cũng là tứ tuyệt. Nhưng tất cả đều là của nhau, tất cả đều ràng buộc với nhau, không thể loại bỏ, không cần thêm ý nghĩa, vị trí của mỗi câu không thể đảo ngược, và lời nói không thể thay đổi. Bài thơ được viết rất rõ ràng. Dường như ai cũng cảm nhận được vẻ đẹp của nó, nhưng phân tích mãi thì vẻ đẹp ấy vẫn bí ẩn. Nỗi buồn của bài thơ này trong sáng và sâu sắc.

          Trong màn sương hư ảo của tình vợ chồng, có một tình yêu quê hương cháy bỏng, cháy bỏng. Vì đã khơi dậy và lay động được tình cảm chung của biết bao người nên bài thơ thể hiện tình cảm riêng của tác giả này đã gây được tiếng vang sâu rộng và lâu bền trong lòng bạn thơ nhiều thế hệ. Khổ thơ cuối bài thơ “Đây thôn Vida” gói ghém niềm hi vọng trong sương mù mênh mông và hoang mang vô tận. Hãy tin vào sự im lặng không sợ hãi.

          Phần thứ ba của bài viết phân tích đây là thôn Vĩ Dạ – mẫu 8

          “Trong tương lai, những thứ tầm thường rồi sẽ tiêu tan, và những bức tranh mực Hán còn sót lại trong thời kỳ này” là những lời nhận xét đầy tâm huyết của Lan Wen. Ngắn ngủi và đau đớn. Có thể nói, sự xuất hiện của ông đã mang lại nhiều điểm nhấn mới cho thơ mới 1932 – 1941. Một phong cách tượng trưng siêu thực phương Tây điển hình dần len lỏi vào những bài thơ chuẩn mực, tôn giáo mà chúng ta quen thuộc ở Việt Nam. Đụng chạm đến những gì “điên rồ”, cái tôi cá nhân mạnh mẽ và những ham muốn sâu kín, kể cả nhục dục, thể xác là những chủ đề được coi là hết sức “nhạy cảm” trong thời đại ngày nay. Hồn thơ của Hàn Kết Đồ có đủ khuynh hướng lãng mạn, trữ tình của những bài thơ mới như Huyền Điệp, Xuân, Trinh Khánh, đồng thời cũng chứa đựng vẻ đẹp trong sáng, thiêng liêng, chứa đựng những gì ma quái, đáng sợ và đáng sợ nhất, mang đến một hương vị thi ca khiến người ta mê muội, mê muội. tư duy.

          Làng được coi là bài thơ xuất sắc và thành công nhất của Hammett, đường nét rất đẹp và rõ ràng, nhà thơ cận kề cái chết mà vẫn yêu trong tuyệt vọng, tuyệt vọng. Cuộc sống tình nghĩa được sống nghiêm chỉnh đến mức ngậm ngùi, con người hân hoan trước vẻ đẹp của bình minh trên làng quê ở khổ thơ đầu và đau khổ trước cảnh đêm trăng bên sông ở khổ thơ thứ hai. Cuối cùng ở khổ thơ thứ ba, ta thấy tâm hồn Hammecto điên dại, lạ lùng, đau đớn, mênh mông, bấp bênh.

          “Tôi nằm mơ thấy khách từ xa, khách từ xa đến, áo trắng nhìn không thấy.

          Nếu như ở hai phần đầu, Hàn Kết Đồ thể hiện khát khao mãnh liệt được hòa nhập với cuộc sống đời thường, thoát khỏi chết chóc, cô độc của cung điện cuộc đời qua ánh mắt trìu mến, yêu thương nhìn về xứ Huế xinh đẹp. Tận hưởng thiên nhiên tươi đẹp, trong trẻo và tự do. Ở đoạn thứ ba, tác giả không còn đơn thuần khao khát vẻ đẹp của thiên nhiên mà chuyển sang khao khát tình người, hơi ấm của cuộc sống. Điều này được thể hiện qua những hình ảnh khá “dị” và khó hiểu trong bài thơ: người lữ khách nơi sương khói, mặc áo trắng giả tạo, có thể là bóng người đẹp trong giấc mộng lạnh. hoa cúc? Có thể thấy, ở câu đầu tiên “người nằm mơ từ xa”, thế giới đã hiện lên rõ nét hình bóng một người phụ nữ xinh đẹp, câu tiếp theo được gọi thẳng là “em”. Tuy nhiên, “người lữ khách phương xa” trong thơ Hàn Kết Đồ lại cho người ta một cảm giác lạ lùng, đặc biệt được lặp lại hai lần trong một bài thơ để diễn tả âm hưởng xa xăm, xa xăm. Khách”, bóng của mỹ nhân. Tấm lòng thi nhân. Cách viết này của Hàn Mặc Tử có phần giống với nguyen binh trong thơ

          “Anh đi rồi, về đâu Cánh buồm nâu, cánh buồm nâu, cánh buồm”,

          Diễn tả sự biến mất, mất đi của sự vật. Hình ảnh “Khách phương xa” cũng vậy, được lặp lại hai lần với nhịp thơ chân chất, khiến lòng người như xa dần khỏi cái nhìn, cái chạm của nhà thơ. Đặc biệt, “người lữ khách phương xa” mà thơ Hàn Kết đưa đến không phải ở cõi thực mà ở cõi “mộng”. Chưa bao giờ có một hình ảnh thơ nào lạ lùng đến thế, bức chân dung ấy như một ảo ảnh, xa lạ mà cũng rất khó nắm bắt, rất thanh tao và vô biên. Còn một người tuyệt vọng, kẹt trong cung trường sinh mệnh, không người nương tựa, mong tìm được cõi nhân gian trong mộng. Nhà thơ tài hoa nhưng bất hạnh ấy đã cố gắng nắm bắt thế giới và hơi ấm tình yêu trên đời, dù chỉ là một giấc mơ, anh cũng cố gắng hết sức để nhìn rõ hình bóng xinh đẹp của em. người trong mộng. , Cố bắt lấy một bóng hình quen thuộc, dù là cúc vạn thọ, là cánh chim mơ hay là ai khác, anh cũng không biết. Nhưng cuối cùng, dường như người nghệ sĩ bắt không kịp, bắt không tới, mắt người nhìn không thấu, vì “áo em trắng quá không thấy”. Từ “tai bai” diễn tả sự trong trắng đến tột cùng, vượt tầm nhìn, hình bóng người đẹp đã mất hết đường nét, chỉ còn lại một khoảng hư vô thanh tao, lọt vào lòng nhà thơ, chính thức đánh dấu đích đến của tác giả. Gắn liền với sự bất lực và tuyệt vọng của thế giới, và sự ấm áp của tình cảm con người.

          Khi mọi nỗ lực vươn ra thế giới “bên ngoài” – thế giới đầy màu sắc, rực rỡ và ấm áp – đều thất bại, Han Motu buộc phải quay trở lại thế giới này. Trong thế giới của tôi, trở lại cung điện của cuộc đời, cô đơn, bế tắc, buồn chán. Thế giới ấy hiện ra trong câu thơ “Nơi đây sương mù”, hình ảnh thơ giàu ý nghĩa siêu thực, tượng trưng. Đó là một thế giới sương mù lạnh lẽo, không bóng người và hơi ấm, Han Motu đang đau đớn tột cùng, một mình đối mặt với bệnh tật, không người sẻ chia, cách biệt với thế giới, tuyệt vọng chờ cái chết đến tìm mình. Bản thân nhà thơ không thể ra thế giới bên ngoài, và thế giới bên ngoài không thể vào cung điện của nhà thơ. Chỉ có một sợi dây vô hình nối liền hai thế giới khác biệt ấy, và đó chính là tình cảm sâu nặng, thiết tha của nhà thơ đối với cuộc sống, thiên nhiên bên ngoài luôn đầy suy tư, nhịp điệu. Tuy nhiên, Hàn Kết Đồ coi chữ “tình” như một lá bùa hộ mệnh, nhưng cũng thường hay nghi ngờ “tình ai biết giàu”, sợ cô đơn, có tình cảm sâu nặng, thậm chí không biết người khác có đối xử với mình như vậy hay không. , Hoặc tôi không biết liệu Jinju xinh đẹp có hiểu tôi nghiêm túc như thế nào trước sự cay đắng của cô ấy hay không. Dù thế nào đi chăng nữa, Hàn Mặc Đồ hiển nhiên biết được sự mong manh của sợi dây liên kết tình cảm giữa hai thế giới này, hắn sợ một ngày nào đó sẽ đứt đoạn, vĩnh viễn bị giam cầm trong cung điện lạnh lẽo không màu không vị này.

          Khổ thơ thứ ba trong thôn Vĩ Dạ này là điểm nhấn tiêu biểu của thơ Hàn Mặc Tử, là ranh giới giữa thế giới bên ngoài tươi đẹp, ấm áp, thân thương và thế giới bên trong đầy bất trắc. ,lạnh. Qua đó bộc lộ khát vọng sống mãnh liệt, được hòa nhập, được sống bình thường của nhà thơ dù biết rằng mọi thứ đều vô vọng, đau đớn. Hình ảnh thơ lạ, thấm đẫm phong cách tượng trưng siêu thực mang đến cho người đọc nhiều tầng cảm xúc, kích thích sự liên tưởng, tư duy của biết bao thế hệ người đọc, đồng thời để lại dấu ấn sâu đậm trong hồn thơ điên cuồng nhất, đau đớn nhất.

Nguồn: https://anhvufood.vn
Danh mục: Giáo Dục

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *