Phân Tích Khổ 2 Bài Đồng Chí ❤️️ 10 Bài Văn Mẫu Hay Nhất

Phân tích khổ 2 bài đồng chí

Phân tích khổ 2 bài đồng chí

Video Phân tích khổ 2 bài đồng chí
<3

Phân tích tiếng Ý trong đoạn 2 của Đồng chí

Việc phân tích đoạn 2 của bài viết dưới đây có thể tham khảo dàn bài Đồng chí dưới đây giúp các em nắm được bố cục và các luận điểm phát triển cơ bản của bài viết.

Bạn Đang Xem: Phân Tích Khổ 2 Bài Đồng Chí ❤️️ 10 Bài Văn Mẫu Hay Nhất

I. Mở ra phân tích mục 2 đi đồng chí:

  • Giới thiệu đôi nét về tác giả và bài thơ “Đồng chí”.
  • Giới thiệu nội dung cần phân tích – Tiết hai “Đồng chí”.
  • Hai. Phần thứ hai của phân tích đồng tính luyến ái:

    – Tình bạn là sự hiểu biết sâu sắc về tâm tư, tình cảm của nhau. Những người lính đoàn kết, và họ biết những bí mật sâu thẳm trong trái tim của đồng đội:

    “Tiễn bạn gái đi cày, để nhà trống, để gió lay gốc giếng, nhớ bộ đội”

    • Người lính ra trận đã để lại những gì quý giá nhất của Tổ quốc: ruộng đồng, nhà cửa, giếng nước gốc đa. Từ “let it go” có nghĩa là người lính ra đi một cách dứt khoát.
    • Nhưng trong sâu thẳm họ vẫn nhớ quê hương da diết. Vào chiến trường, họ vẫn tưởng tượng ngôi nhà sẽ không đung đưa theo gió của quê hương xa xôi.
    • -Tình đồng chí còn là chia sẻ những gian khổ, thiếu thốn của đời lính:

      • Trong chiến tranh chống Pháp, những gian khổ, thiếu thốn trong cuộc sống của người lính hiện lên rất cụ thể, chân thực: áo rách, quần vá, chân không giày, những cơn sốt hành hạ, rét rừng dày vò, giá rét, môi nứt nẻ, nói khó và cười, đôi khi chia tay và chảy máu. Nhưng những người lính vẫn mỉm cười, bởi họ có được hơi ấm, niềm vui của tình đồng chí “thương nhau tay nắm tay”.
      • Sự ấm áp của lòng bàn tay vượt qua thời tiết “không có giày” và “lạnh”. Cặp đại từ “anh” và “tôi” luôn đi bên nhau, có khi đứng một đoạn, có khi tạo thành một cặp câu, thể hiện sự gắn bó, sẻ chia với đồng đội.
      • Ba. Phần thứ hai phân tích kết luận Đồng chí:

        • Khẳng định giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ.
        • Hãy nói những gì bạn cảm thấy.
        • Dàn ý phân tích mẫu bài văn chuẩn về thơ đồng tính dành cho mọi người

          Đồng chí viết đoạn 2 bài phân tích

          Viết đoạn văn phân tích gợi ý của đoạn 2 bài viết, đồng chí sau đây sẽ giúp các em có thêm nhiều ý hay trong bài văn.

          Mười dòng trong bài thơ “Đồng chí” của tác giả Chính Hữu nói về biểu hiện và sức mạnh của tình đồng chí, đồng đội trong thời kỳ chống Pháp. Với người nông dân, “ruộng” và “nhà” là tài sản quý giá nhất, nhưng họ vẫn “gửi bạn thân”, “để gió lay” và quyết lên đường vì nghĩa lớn. Từ “từ chức” được dùng để thể hiện thái độ vô trách nhiệm, nhưng ở đây nó được dùng để thể hiện thái độ kiên quyết, dứt khoát.

          Tuy nhiên, mặc dù liên tục “bỏ qua” nhưng họ vẫn luôn nghĩ về điều đó, mong chờ điều đó và lo lắng về điều đó. Tác giả sử dụng thủ pháp nghệ thuật nhân hóa, hoán dụ trong hình ảnh “Giếng Nước Gốc Nước” để diễn tả nỗi nhớ hai chiều của người lính đối với người thân, người thân. Họ có những suy nghĩ và cảm xúc giống nhau nên sẵn sàng chia sẻ với nhau, điều đó khiến họ càng trở thành những người bạn tâm giao. Vì đã trở thành bạn tâm giao nên họ sẵn sàng chia sẻ nhu cầu vật chất.

          Nghệ thuật Sóng đôi được tác giả sử dụng để kể lại việc họ đã cùng nhau vượt qua gian khó, ốm đau thiếu thuốc, tư trang khi thời tiết xấu, nhiệm vụ nguy hiểm. Bài thơ “Miệng nước đá” miêu tả thời tiết xấu và cũng thể hiện tinh thần lạc quan của người lính trước khó khăn.

          Dù trong hoàn cảnh vô cùng khó khăn, ngặt nghèo, họ vẫn “tay trong tay yêu thương”. Hình ảnh “tay trong tay” thể hiện sức mạnh vô cùng cao quý, thiêng liêng giúp người lính giữ ấm trong thời tiết vô cùng khắc nghiệt nơi núi rừng Việt Nam. .

          Đọc tiếp phần tóm tắt 15 bài thơ hay và tấm gương của đồng chí Yi

          Viết bài văn phân tích về Đồng chí Đoạn 2 – Văn mẫu 1

          Luyện tập viết đoạn văn phân tích ở vế thứ hai. Bạn sẽ giúp các em nắm vững các phương pháp nghị luận văn học và triển khai các ý hay.

          “Đồng chí” là bài thơ hay nhất của một người chính trực trong buổi đầu chống Pháp. Bài thơ này được viết năm 1948, tức là sau chiến thắng Việt Bắc thu đông năm 1947, nó đã đi qua nửa thế kỷ chặng đường, làm đẹp thêm hồn thơ của người chiến sĩ, chính nghĩa. Đoạn thứ hai rất ngắn, chỉ 10 dòng, ngôn ngữ giản dị, giọng trầm, cảm xúc lắng đọng. Nên thơ và đẹp như tranh vẽ, có một số câu thơ để lại nhiều bất ngờ cho bạn đọc trẻ hôm nay.

          Mở đầu phần hai nói về nỗi nhớ nhà của đồng chí: nghĩ đến ruộng, đến cái cày, đến cái nhà, cái giếng, cây đa. Bức ảnh nào cũng chan chứa tình quê :

          “Gửi bạn gái cày ruộng, giếng nhà rung chuyển bất kể gió, rễ cây nghĩ đến quân tử”

          Giếng nước cây đa là hình ảnh thân thương của dân làng, trong ca dao cổ có “cây đa, bến cũ… cây đa, giếng nước, sân đình…” và giới thiệu lẽ phải. Thơ rất phong phú, lời ít nhưng trích dẫn mạnh mẽ, thấm thía và hay. Ngôi nhà, um tùm, cây đa nhân hoá, dõi theo bóng dáng người em ngày đêm đánh giặc? Hay những “bộ đội” vẫn ngày đêm ôm ấp quê hương?

          Nỗi nhớ nhung đôi bờ, những người lính yêu quê hương đã hình thành nên tình đồng chí, đồng đội, tạo nên sức mạnh tinh thần cho những người lính vượt qua muôn vàn thử thách cam go trong thời đại đẫm máu. Nhắc lại nỗi nhớ ấy, Hoàng Trung Thông đã viết trong bài thơ “Không bao giờ trở lại”:

          “Khi con đi, mẹ thường nhắc: Biết bao giờ con về? Lúa xanh gãy chân. Con sẽ đi canh giữ quê hương. Xã Banyan Shuwharf Water, gặp con không bao giờ quên. một lần nữa.” Trên đường điBảy câu thơ tiếp theo tràn ngập những chi tiết rất thực phản ánh hiện thực buổi đầu kháng chiến. Sau 80 năm đô hộ của thực dân Pháp, nhân dân ta đã vùng lên giành lại núi rừng. Rồi với dùi cui, giáo mác…, nhân dân ta đã phải chiến đấu với xe tăng, pháo binh của giặc Pháp xâm lược.

          Những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống Nhật, quân dân ta gặp muôn vàn khó khăn: thiếu vũ khí, thiếu quân trang, thiếu lương thực, thuốc men… Bộ đội ra trận “chân đất tìm giặc” , với quần áo rách rưới, bệnh tật, dịch bệnh, sốt rét. “Sốt, vã mồ hôi trán”:

          “Bạn và tôi biết từng cơn ớn lạnh, cơn sốt, vầng trán đẫm mồ hôi. Áo anh ấy rách vai, quần tôi có vài vết nhăn và không có giày”

          Chữ “tri” trong bài thơ này có nghĩa là cùng nhau trải qua đau khổ. Các từ “anh với em”, “áo anh…quần em” xuất hiện trong đoạn thơ là một tình bạn bền chặt và cao đẹp. Cấu trúc của câu thứ tư khá tương phản: “Động chủy” thể hiện sâu sắc tinh thần lạc quan của hai người lính và hai người đồng chí.

          Bài thơ được viết theo thể liệt kê, những cảm xúc dồn nén bỗng trào ra: “Yêu nhau nắm tay nhau”. Tình bạn được thể hiện qua cử chỉ thân thiện, yêu thương: “Nắm tay nhau”. Anh nắm lấy tay tôi. Tôi nắm tay anh, động viên nhau, cho nhau tình yêu và sức mạnh để vượt qua mọi thử thách. “Tiếp tục tiến lên, chiến thắng”.

          Đoạn thứ hai của bài thơ “Đồng chí” nói về đời sống vật chất của người lính, ở đó không chỉ có vẻ đẹp của sự giản dị đồng áng mà còn có vẻ đẹp của sự cao cả, thiêng liêng và thi vị. Đời sống tinh thần, nói lên tình đồng chí – binh nhì trong những ngày đầu kháng chiến.

          Ngôn ngữ thơ mộc mạc, giản dị đúng như tiếng nói của người lính. Tục ngữ, thành ngữ, ca dao được chính nhân vận dụng linh hoạt tạo nên lời thơ giản dị, hồn nhiên mà giàu chất trữ tình. Sự kết hợp giữa lối viết hiện thực và màu sắc lãng mạn tạo nên hồn thơ quân đội.

          “Đồng chí” là bài thơ rất đặc sắc viết về những người lính già – những người nông dân trong bộ quân phục, những anh hùng của thời đại Hồ Chí Minh. Bài thơ là một tượng đài về người lính vĩ đại, mộc mạc và bình dị, cao cả và thần thánh.

          Mời các bạn tham khảo thêm 14 bản đồ tóm tắt của Sơ đồ tư duy Đồng Chí Công Lý

          Phân tích đoạn 2 bài Đồng chí hay nhất – văn mẫu 2

          Mời các bạn đọc tham khảo những bài văn mẫu phân tích về tình đồng chí xuất sắc tập 2 sau đây được các em học sinh tuyển chọn và chia sẻ.

          Chủ đề người lính là một trong những chủ đề phổ biến trong thơ ca kháng Nhật, mỗi nhà thơ đều phát hiện ra những vẻ đẹp khác nhau của người lính bằng sự trải nghiệm và cảm nhận của mình. .

          Nếu như trong “Tây Du Ký” (quang dũng), ta gặp vẻ đẹp táo bạo nhưng phóng khoáng, tao nhã của những người trẻ bước ra từ xứ sở sông xanh; , ta lại thấy sự gan dạ, tinh nghịch nhưng vô cùng những người lính mạnh mẽ lái xe, rồi họ đến với những người “đồng chí” chính nghĩa.

          Bài thơ được viết vào khoảng đầu năm 1948, sau khi tác giả cùng đồng đội tham gia chiến dịch thu đông ở Việt Bắc. Qua bài thơ, người đọc thấy được tình đồng chí chiến sĩ, một nỗi nhớ da diết.

          Như ở bảy câu thơ đầu, tác giả đã chỉ ra cơ sở để hình thành tình đồng chí chiến sĩ thì ở câu thơ thứ hai của phần tiếp theo, tác giả tiếp tục chỉ ra biểu hiện cao cả của tình đồng cảm. Đồng chí, đồng chí. Đầu tiên, các bạn đồng cảm với hoàn cảnh, suy nghĩ và cảm xúc của nhau:

          Cử bạn thân cày ruộng, mặc cho gió lay gốc giếng, vì nghĩa quân

          Ta thấy trong ba bài thơ chỉ xuất hiện đại từ “anh”, không có “tôi”, chứng tỏ bài thơ này viết cho một người và bày tỏ tình cảm với bạn mình. Đó là nỗi nhớ, đó là nỗi nhớ, đó là những người thân phía sau những người lính. Qua cách nói này, người đọc thấy được tình đồng chí, đồng chí sâu nặng, hiểu bạn bè, hiểu mình. Vì vậy, bài thơ này cũng là sự bày tỏ chân thành nỗi nhớ quê da diết của nhân vật trữ tình “tôi”.

          Cánh đồng, vọng lâu, giếng nước, cây đa… Ở mỗi làng quê Việt Nam đều có những hình ảnh bình dị, thân quen. Có lẽ lúc này các chiến sĩ rất nhớ quê hương, nơi có gia đình, người thân, ruộng vườn, nhà cửa và những tình cảm đẹp đẽ mà họ đã có từ thời thơ ấu.

          Nhưng từ “bỏ đi” thể hiện quyết tâm ra đi của người lính, họ gửi lại nhà cửa, ruộng vườn, nhà cửa và cả những vui buồn tuổi thơ cho người thân, cầm súng giết giặc cứu nước Quốc gia. Tinh thần xả thân mạnh mẽ ấy được nhà thơ thanh tao thể hiện trong thơ của mình:

          “Ta ra đi không tiếc đời, tuổi hai mươi làm sao không tiếc, tuổi hai mươi ai cũng tiếc, nước còn”

          Có thể thấy những người lính có tinh thần trách nhiệm công dân rất cao đối với quốc gia khi đất nước gặp khủng hoảng. Điều này thể hiện lòng yêu nước mạnh mẽ và sâu sắc của họ. Hình ảnh “Giếng Nước Gốc Nước” là một hình ảnh giàu sức gợi, vừa là nhân hóa, vừa là ẩn dụ, tượng trưng cho quê hương, những người thân phía sau luôn dõi theo, nhớ thương người lính. .

          Bài thơ nói bộ đội nhớ quê hương, nhưng thực ra bộ đội nhớ nhà. Nỗi nhớ hai chiều càng nên da diết, khôn nguôi. Nhưng chính nỗi nhớ quê hương ấy lại là động lực mạnh mẽ, thôi thúc họ đi theo vì sự nghiệp chung lớn lao của đất nước, của dân tộc mà trưởng thành mạnh mẽ.

          Không chỉ chia sẻ chuyện riêng, nỗi nhớ quê hương, người thân, các chiến sĩ còn sẵn sàng giúp đỡ nhau lúc khó khăn:

          Bạn và tôi biết từng cơn ớn lạnh, sốt, run rẩy, đổ mồ hôi trán. Áo anh rách, vai anh rách, quần em cười nhăn nhở, chân trần, yêu nhau, nắm tay nhau.

          p>

          Đầu tiên, những người lính đã chia sẻ và quan tâm lẫn nhau khi họ chống chọi với căn bệnh quái ác – căn bệnh sốt rét kinh hoàng. Hình ảnh: “ớn lạnh, ớn lạnh, toát mồ hôi” là cách nói cụ thể về một dạng sốt rét rừng rất nguy hiểm, khi chiến tranh không có đủ thuốc chữa. Vì vậy bạn phải nghiến răng chịu đựng, phải tự chủ và mạnh mẽ để vượt qua. Đây là hình ảnh từ khuôn mặt thật của những người lính trong chiến tranh. Trong bài thơ “Tây Du Ký” của Quảng Đông, nhà thơ cũng đã đề cập đến căn bệnh này:

          Xích quân trụi lông, quân xanh dữ tợn.

          hay Trong bài “Dấu chân qua đồng cỏ” của thanh thao cũng có một câu thơ như thế này:

          Những người mắc bệnh sốt rét bị đánh bầm dập trên đường phố trơn trượt.

          Nhưng khi ốm đau, người lính được bạn bè, đồng đội chăm sóc tận tình, yêu thương nên bệnh tật dù ác nghiệt đến đâu cũng không quật ngã được họ. Từ “cùng” trong “bạn và tôi” diễn tả sự chia sẻ với bạn bè khi người lính bị sốt rét.

          Chữ “với” ở đây có nghĩa là đồng cảm, chia sẻ, đồng cảm. Chính sự hỗ trợ, động viên chân thành đó đã giúp họ cùng nhau vượt qua cơn sốt rét hiểm nghèo – căn bệnh kinh hoàng của những người lính trong chiến tranh.

          Những người lính không chỉ chia sẻ với nhau trong bệnh tật, họ còn đồng lòng, đồng cam cộng khổ trước những thiếu thốn, gian khổ về vật chất. Hình ảnh: “Áo rách vai, quần vá, không giày” là hình ảnh có thật và nhằm diễn tả điều này. Nhưng trong trường hợp đó, họ chia sẻ, giúp đỡ nhau bằng những hành động chân thành: “dở khóc dở cười”, “nắm tay nhau mà yêu”. Chính nụ cười ấy đã xua tan cái lạnh của đêm đông lạnh giá.

          Họ vui vì nghèo. Động viên nhau bằng ánh mắt biết cười. Tuy chỉ là nụ cười gượng gạo trong “Leng Leng” nhưng nó vẫn chứa đầy tình cảm sâu sắc, thể hiện tinh thần lạc quan mãnh liệt của họ về cuộc sống chiến đấu. Và hành động “tay trong tay” là một hành động rất cảm động và cần thiết trong lúc này. Họ truyền hơi ấm của tình yêu thương, và vì lý tưởng cách mạng cao cả: vì hòa bình đất nước, họ cùng nhau tiến lên.

          Có lẽ, tình yêu dành cho nhau sẽ lấp đầy khoảng trống và làm vơi đi nỗi nhớ nhà, nhớ nhà. Tất cả những ánh mắt, nụ cười, cái nắm tay ấy càng khiến họ có thêm động lực để vượt qua khó khăn, thử thách. Điều này càng làm cho tình đồng chí, đồng đội thêm thắm thiết, gắn bó trong suốt cuộc kháng chiến trường kỳ, biến nó thành sức mạnh đoàn kết.

          Tóm lại, với ngôn ngữ thơ ngắn gọn, súc tích, trữ tình, trữ tình, giản dị nhưng đầy tính tạo hình; “Chính Hữu” sử dụng giọng điệu tình cảm, nhẹ nhàng chân thành, sử dụng bút pháp hiện thực và lãng mạn một cách sáng tạo, khắc họa thành công một cách sinh động hiện thực , vẻ đẹp giản dị, đơn sơ của những người cựu chiến binh trong cuộc kháng chiến chống Nhật.

          Đây là một trong những bài thơ thành công đầu tiên của thơ ca cách mạng Việt Nam. Khép lại trang thơ này, hình ảnh người lính với những người đồng đội vẫn mãi vang vọng trong tâm trí người đọc, thể hiện lòng biết ơn sâu sắc đối với những hy sinh cao cả của họ vì sự bình yên của Tổ quốc. Có như vậy chúng ta mới thực hiện đầy đủ trách nhiệm bảo vệ và phát triển Tổ quốc, dân tộc.

          Cách nhận thẻ cào miễn phí Nhận thẻ cào miễn phí mới nhất

          Phân tích đoạn 2 bài văn đồng chí – văn mẫu 3

          Xem Thêm: Nghị luận xã hội về tình mẫu tử (3 Dàn ý 30 Mẫu) Suy nghĩ về tình mẫu tử lớp 8, 9, 10, 12

          Bài văn mẫu phân tích ngắn gọn Tình đồng chí dưới đây sẽ giúp các em học sinh biết cách viết bài văn ngắn gọn, đủ ý.

          Những bài thơ về Đoàn quân kháng chiến không xa lạ với văn học Việt Nam. Những người lính xuất hiện trong thơ với vẻ hào hùng, khí thế. Họ nhanh chóng tìm đến tất cả chúng ta bằng tình yêu và nỗi nhớ. Tiêu biểu nhất phải kể đến bài thơ tình đồng chí của nhà thơ Chính Hữu, đặc biệt là khổ thơ thứ hai của bài thơ. Phần thứ hai nói về sự đồng cảm và thấu hiểu giữa những người lính.

          Ông là một nhà thơ chính nghĩa viết trong cuộc kháng chiến chống Pháp lâu dài và gian khổ. Bài thơ này được viết vào mùa thu và mùa đông năm 1948 trong cuộc chiến tranh Việt Nam. Do đó, có thể nói rằng anh ta cũng liên quan đến kinh nghiệm của chính nhà thơ.

          Ở khổ thơ thứ hai, chính nhân miêu tả tình cảm gắn bó sâu nặng giữa hai người đồng chí, trước hết là họ dành cho nhau sự quan tâm chân thành, thấu hiểu, tình cảm:

          Chàng sai bạn thân cày ruộng, mặc kệ gió lay gốc giếng, vì nhớ lính.

          Đối với người nông dân, không có gì quý hơn ruộng đất, nhà cửa. Nhưng khi tổ quốc gọi tên, tất cả đều làm ngơ. Họ bỏ đi một cách dứt khoát.

          Những thiếu thốn nơi chiến trường càng làm chúng ta thêm chạnh lòng và thêm thấu hiểu cảnh ngộ của những người lính:

          Áo sơ mi của anh ấy bị rách vai và quần của tôi có vài vết hằn do đi giày.

          Sự thiếu thốn về vật chất của người chiến sĩ được nhà văn chân chính tái hiện bằng tấm lòng nhân ái và thấu hiểu. Bởi vì có thể chính mình bị gãy vai, khóe miệng lộ ra một tia cười lạnh. Chiến trường liên miên khó khăn, nguy hiểm cản bước chân người chiến sĩ cách mạng.

          Nhưng đẹp nhất là họ truyền cho nhau sức mạnh niềm tin để kiên trì, vững vàng, vượt qua cái lạnh “sốt, run, vã mồ hôi trán”. Không có gì lạ khi bị bệnh ở đây. Người lính rất chăm chỉ. Nhưng không vì thế mà ta thấy họ nhụt chí.

          Hình ảnh thơ đôi bạn diễn tả chân thực, cô đọng những thiếu thốn mà người lính phải trải qua. Những người chính nghĩa đã không ngần ngại kể về những thiếu thốn vật chất mà quân và dân ta đã trải qua trong những ngày đầu chống Pháp, bởi cuộc kháng chiến chống Nhật này là cuộc “trường kì gian khổ tự lực cánh sinh”, nhưng những khó khăn đó đã vượt qua với tinh thần của người chiến sĩ cách mạng và tình đồng chí anh em keo sơn, ngọt bùi.

          “Nắm tay yêu thương”

          Tình đồng chí đã sưởi ấm hai anh em, giữa núi rừng hoang lạnh, trên gương mặt đã hiện lên sự cảm thông, chia sẻ cùng với cái bắt tay ấm áp. Đoạn thơ này không chỉ thể hiện tình cảm sâu nặng của người chiến sĩ mà còn phản ánh sức mạnh của tình cảm ấy. Bài thơ không có sự huy hoàng khải hoàn mà là tình đồng chí ấm áp đã giúp họ sống và lập nhiều chiến công nguy hiểm.

          Các liệt sĩ đã chọn những hình ảnh thơ thật đắt giá, thể hiện sâu sắc tình cảm anh em giúp đỡ các cựu chiến binh. Ngòi bút hiện thực và lãng mạn khiến ta vừa xúc động vừa đau xót. Nhưng các chiến sĩ đã dũng cảm đứng lên và vượt qua khó khăn. Cử chỉ “nắm tay nhau mà thương” thật cảm động, chan chứa tình cảm chân thành và tình cảm cách mạng. Đó là một mối ràng buộc của tình yêu cho đến khi kết thúc. Nó cũng là chất của thành công, bình an và hạnh phúc.

          Xem Thêm : Hướng dẫn Giải bài 10 11 trang 111 112 sgk Toán 7 tập 1

          Bạn đọc câu thứ hai sẽ hiểu rõ hơn cách biểu đạt tình cảm cao cả này. Đó là một cảm giác thiêng liêng vượt qua mọi rào cản để kết nối và yêu thương. Anh thật xứng đáng là mẫu mực của thơ ca chống Pháp, để lại trong lòng người những cảm xúc vô tận.

          Xem thêm bình luận về 15 bài thơ đồng tính hay nhất

          Phân tích bài văn Đồng chí Phần 2 – Văn mẫu 4

          Tham khảo đầy đủ bài phân tích tiết 2 dưới đây để giúp các em nắm được giá trị nghệ thuật và giá trị nội dung của bài thơ này.

          Chiến tranh đã gây cho chúng ta những tổn thất đau thương về người, của và tinh thần. Nhưng cũng trên chiến trường ác liệt chỉ có khói đạn, những giọt máu đỏ tươi, những bông hoa đẹp nhất về lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết nhất là tình đồng chí, đồng đội sâu nặng. Vẫn nở hoa. Nhà thơ chính trực – một cây bút trẻ tiêu biểu của văn học thời kỳ đầu chống Pháp – viết “Đồng chí” vào năm 1947, khi ông tham gia Chiến tranh Việt Nam.

          Bài thơ này được coi là kiệt tác tiêu biểu của thơ ca kháng chiến chống Nhật 1946 – 1954. Sau hơn nửa thế kỷ chặng đường, nó tô đẹp thêm hồn thơ của người chiến sĩ, chính nghĩa. Mười câu giữa khổ thơ thứ hai gửi gắm đến người đọc sự biểu hiện chân thành và sức mạnh của tình bạn, tình đồng chí chiến sĩ.

          Họ là những người con khắp đất nước Việt Nam, nghe theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc, bỏ quê hương lên đường tham chiến. Những người lính ấy đều xuất thân từ nông dân nghèo, và họ đều yêu quê hương đất nước như nhau. Họ đoàn kết trong mọi công việc, chia sẻ vui buồn, tâm sự nỗi nhớ nhà. Cứ như vậy, tình đồng chí ngày càng sâu đậm, dần dần trở thành tri kỷ:

          Cử bạn thân cày ruộng, nhà trống, để gió thổi gốc giếng, nhớ lính. Anh và tôi quen nhau, cả người run lên vì lạnh, trán ướt đẫm mồ hôi

          Áo anh rách, vai anh rách, quần anh rách mấy mảnh, miệng lạnh, chân trần, thương nhau nắm tay anh”

          Đoạn thơ chỉ 10 câu ngắn gọn nhưng đã lay động lòng người đọc bằng tình đồng chí, tình bạn. Bạn phải tin tưởng người khác và đến gần họ trước khi bạn có thể nói cho họ biết bạn cảm thấy thế nào. “Anh ấy” và “tôi” là tri kỉ của nhau, là tri kỷ của nhau, kể cho nhau nghe những hoàn cảnh, tâm tư, tình cảm của nhau mà họ thêm thấu hiểu nhau.

          Hóa ra tôi và anh cùng một lòng, gác lại chuyện riêng để phụng sự đại nghĩa của đất nước. “Ruộng nương…gửi người đi cày”, “không gian trống trải” và từ láy “lung lay” gợi hình ảnh trống vắng, hụt hẫng khi vắng bóng người trụ cột gia đình. Tuy nhiên, người lính đã cương quyết và hẳn đã “bất chấp” mọi đóng góp.

          Ở quê nhà luôn có người mong ngày khải hoàn trở về. Hình ảnh “Giếng Gốc Nhớ Người Lính” sử dụng nghệ thuật ẩn dụ nhân hóa “Giếng Nước Gốc” ở đây là chủ thể trữ tình của bài thơ, nó được dùng để miêu tả một cách chắc chắn nhất về gia đình, xóm làng và thế hệ mai sau. Đó cũng là động lực để những người lính nỗ lực hơn.

          Và trong lòng mỗi người lính đều rất nhớ gia đình. Vì vậy, họ nương tựa vào nhau, đồng cảm với hoàn cảnh chung, cùng nhau cố gắng hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao. Ở 10 câu giữa bài, ta thấy bằng bút pháp tả thực, người đọc có thể cảm nhận chân thực những vất vả, cơ cực mà người lớn đã phải chịu đựng. Họ phải sống trong một môi trường vô cùng khắc nghiệt và khó khăn, sống trong những khu rừng rậm rạp.

          Đêm gác, gió lạnh như cắt da cắt thịt. Không chỉ vậy, các khu rừng nhiệt đới của Việt Nam còn nổi tiếng về bệnh sốt rét. Nó hành hạ thể xác và tinh thần của những người lính, “rùng mình vì lạnh, mồ hôi ướt đẫm trán”. Những hình ảnh tương phản “rùng mình vì lạnh” và “mồ hôi ướt đẫm” dường như đã lột tả chân thực hơn những gian khổ mà người lính phải chịu đựng. Bản thân nhà thơ Quang Dũng cũng thấy tim đập hồi hộp khi nhớ lại hình ảnh người lính bị sốt rét trong bài thơ “Tây Du Ký”:

          “Ta đi về phía tây, người không mọc tóc, quân xanh bắt tôm hùm”

          Chỉ thế thôi cũng đủ hiểu nỗi vất vả của người lính. May mắn thay, ở đây họ cũng có bàn tay của những người đồng đội đến thăm và chăm sóc họ.

          Trong quá khứ, quân đội của chúng ta rất thiếu thốn, kể cả quần áo và giày dép cơ bản nhất. Hình ảnh “áo anh rách vai” và “quần em có nhiều mảnh vá” là hình ảnh sóng đôi vừa khắc họa sự khó khăn, thiếu thốn vừa thấy được sự gắn bó của cả hai. Hai hình ảnh thơ bổ sung cho nhau rồi hòa làm một. Tình đồng chí không còn là một câu thơ trữ tình tượng trưng mà hiện hữu trong miếng vá, chiếc áo, chiếc quần.

          Dù gian nan, vất vả nhưng nụ cười gượng gạo trong bóng tối gợi nhiều suy nghĩ trong lòng người đọc. Có vẻ như người lính này đã được ban cho tình cảm gia đình ấm áp và động lực, mặc dù nụ cười của anh ấy khiến người ta lạnh sống lưng nhưng nó cũng truyền động lực rất lớn.

          Nó còn là biểu tượng của sự lạc quan, yêu đời, đánh tan mọi mệt mỏi. Người lính chỉ cần thương yêu nhau, đoàn kết một lòng, nương tựa vào nhau là “thương nhau nắm tay nhau”. Một cái bắt tay chắc chắn vừa là lời chúc, lời cảm ơn, vừa là nguồn cảm hứng.

          Nét bút hiện thực mới lạ, hình ảnh thơ độc đáo, nhịp điệu nhẹ nhàng đưa người đọc vào tâm hồn của những người chiến sĩ. Có lẽ, càng nhiều trải nghiệm như vậy, họ càng yêu nhau hơn trên con đường phía trước, đồng hành cùng nhau và luôn mỉm cười.

          Người bạn tri kỷ cao đẹp và chân thành như thế đâu chỉ có trong thời chiến. Dù ở thời đại này, chúng ta cũng phải biết trân trọng những người bạn luôn bên ta, cùng ta vượt qua mọi khó khăn trở ngại. “Đồng chí” hy vọng sẽ mang đến cho bạn nguồn cảm hứng bất tận và xây dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa các cá nhân xung quanh bạn!

          Chia sẻ cảm nhận về những bài hát hay nhất của Đồng Chí

          Phân tích đoạn văn 2 đồng chí tiên tiến – văn mẫu 5

          Dưới đây là phần phân tích các bài văn mẫu trong tập 2 “Đồng chí tiên tiến”, hi vọng sẽ có giá trị tham khảo nhất định cho các em học sinh.

          Lịch sử nước ta trải qua bao thăng trầm. Mỗi sự thay đổi là một khoảnh khắc để con người chúng ta xích lại gần nhau hơn vì một mục đích chung cao cả. Đó là những ngày hào hùng, là khí phách của dân tộc ta trong cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ vĩ đại. Trong những thử thách và khổ nạn của chiến tranh, chiến tranh cũng nuôi dưỡng mối quan hệ giữa những người lính. Vì vậy, không khó hiểu khi vào năm 1948, tác phẩm “Đồng chí” của một nhà thơ tử tế đã lập tức trở thành một bản hit và được lưu hành rộng rãi trong giới quân nhân.

          Đoạn thứ hai của bài thơ “Đồng chí” ca ngợi những nghĩa sĩ, nông dân yêu nước đã tòng quân, giết chết tình bạn gian khổ của kẻ thù, sự sống, cái già, cái bệnh, cái chết và những năm tháng gian khổ đầu tiên của cuộc kháng chiến. chín năm kháng chiến. Người Pháp. Chính bài thơ đã gây xúc động mạnh trong lòng biết bao thế hệ.

          Trái tim người lính già thật cảm động khi giặc đến, tiễn người bạn thân không cày ruộng, ra trận bất chấp nhà cửa bị gió thổi bay. Cũng bình thường nhưng không có tình yêu nước sâu sắc thì không thể có thái độ bỏ đi như vậy được :

          “Gió thổi thế nào thì sai bạn thân cày nhà”

          Lý do họ đứng lên đấu tranh rất đơn giản: họ yêu Tổ quốc, ý thức dân tộc là máu thịt, là lẽ sống của họ. Vì vậy, họ sẵn sàng bỏ lại tất cả: ruộng đồng, làng mạc. Nhưng trong chiến khu, nghĩa sĩ nông dân quay lưng bỏ đi, ruộng không cày, nhà gió lay, lòng đầy lo toan. Nỗi nhớ của bạn thật cụ thể mà thật cảm động. Người lính luôn biết rằng mẹ già, vợ trẻ và con nhỏ đang đợi anh ở nhà:

          “Hóa ra là tốt, nhớ làm lính”

          Trong những tâm hồn ấy, việc ra đi lẽ ra chỉ đơn giản như đời thường, nhưng thực ra đó là một sự hy sinh cao cả. Cha tôi cả đời gắn bó với đất mẹ, ruộng vườn, giờ muốn ra đi là đã bỏ nửa đời người.

          Sống tình nghĩa, nhân ái, quan tâm nhau cũng là phẩm chất cao quý của người chiến sĩ nông dân. Đối với họ, vượt qua gian khổ, thiếu thốn của cuộc sống là chuyện bình thường, không có gì đặc biệt :

          “Em và anh đều biết từng cơn rét run, từng cơn sốt, từng giọt mồ hôi trên trán. Áo anh rách vai, quần em rách vài sợi cười, chân trần, yêu nhau, nắm tay!”

          /p>

          Cánh hữu vẽ nên một bức tranh về thực tế khó khăn mà quân nhân phải đối mặt. Đối mặt với những khó khăn đó, các binh sĩ không chút sợ hãi, các thử thách của Shenlin Poison Water lần lượt xuất hiện nhưng các binh sĩ vẫn đứng vững, trên khuôn mặt luôn hiện lên vẻ “cười nhạo”. Đó là hình ảnh của sự lạc quan, yêu đời hay đơn giản là động viên những người lính luôn ở bên nhau.

          Những câu thơ này gần như rất đơn giản, nhưng chúng có tác động sâu sắc đến trái tim và khối óc của độc giả chúng ta. Tuy nhiên, từ cái đời thường, hình ảnh người liệt sĩ vẫn toát lên vẻ sáng ngời, cao đẹp của lý tưởng, sẵn sàng hy sinh vì Tổ quốc bất cứ lúc nào, dũng cảm, lạc quan trước hiểm nguy rình rập của kẻ thù:

          “Đêm nay rừng sương đứng bên nhau chờ giặc tới, đầu súng trăng treo”

          Hình ảnh người lính đêm đêm chờ giặc đến trong rừng mù sương thật bình dị và thơ mộng làm sao. Các chiến sĩ kề vai, kề vai, chĩa súng vào quân thù. Trong cái tĩnh mịch bao la của rừng đêm, vầng trăng chợt hiện, lơ lửng trên họng súng. Những người lính nông dân lúc này hiện ra trong một tư thế khác, như những nghệ sĩ thi sĩ, giản dị mà cao đẹp.

          Nếu chỉ nhắc đến hình ảnh người lính mà không nói đến tình bạn, tình bạn của người lính trong bài thơ thì quả là một thiếu sót lớn. Biết nhau, những người lính hiểu rằng họ có chung một quê hương, chung gian khổ, chung đói nghèo, chung tình giai cấp, chung lý tưởng, chung mục tiêu. Điểm chung ấy như chất keo bền lâu gắn kết cuộc đời những người lính lại với nhau, tạo nên hai tiếng “đồng chí” đầy cảm động và thiêng liêng.

          “Quê anh nước mặn, làng tôi nghèo đất cày sỏi đá”

          Vẻ đẹp tâm hồn người lính không chỉ xuất phát từ hiện thực gian khổ, hiểm nguy mà còn từ ánh sáng nhấp nháy, đây là tình đồng chí trong vòng tay. Đi xuyên rừng không dễ chút nào. Bệnh tật, những đêm lạnh giá và sự thiếu hụt nguồn cung cấp trong một đội quân được tập hợp vội vàng. Nhưng những người lính đã cùng nhau vượt qua.

          Họ lo cho nhau từng cơn sốt, từng chiếc áo rách, chiếc quần vá. Bây giờ họ phải chăm sóc đồng đội cũng như chính họ. Ôi cái bắt tay ấm áp của đồng đội lúc khó khăn. Một cái bắt tay truyền tải sự ấm áp và sức mạnh ý chí của một người. Những người lính bên nhau, giúp đỡ nhau, ngẩng cao đầu trước mọi thử thách, khó khăn:

          Xem Thêm: Soạn bài Người trong bao | Ngắn nhất Soạn văn 11 – VietJack.com

          “Bạn và tôi biết từng cơn ớn lạnh…tay trong tay yêu nhau!”

          Trên con đường kháng chiến toàn dân còn có những trách nhiệm gian khổ, gian khổ và cả một chặng đường dài phía trước. Nhưng dường như trước mặt những con người này, sát cánh cùng đồng đội, mọi thứ không còn nguy hiểm nữa.

          Bài thơ này đã hết, nhưng nó sẽ luôn tồn tại chừng nào con người không đánh mất bản năng của mình: rung động. Thật vậy, văn học đã tạo cho mình một vị trí vững chắc hơn lịch sử. Cùng nhau, chúng tái hiện một thời đại đau thương nhưng vĩ đại và hình ảnh người lính, nhưng văn học đến với người đọc bằng con đường tinh thần, khơi dậy những xung năng thẩm mỹ trong tâm hồn con người, khiến con người xúc động, bồi hồi và khó quên.

          Đó là những năm tháng đau thương chứng kiến ​​những vĩ nhân và những chiến binh bất khuất. Họ không nhàm chán mà có nhiệt huyết cháy bỏng, đầy đức hy sinh và có tình bạn trong sáng, thân thiện. Chính những điều đó đã làm cho bài thơ “Đồng chí” đôi khi đọc lên mà vẫn ngân vang, tự hào khi nghĩ đến những con người bình dị và kì vĩ, cho hôm nay và mai sau. Luôn luôn ghi nhớ.

          Khám phá thêm bài phân tích thơ đồng tính của 10 bài hay nhất

          Phân tích đoạn 2 của bài văn học sinh giỏi văn – mẫu 6

          Tham khảo bài viết phân tích ở đoạn 2 của bài viết, các đồng chí học sinh giỏi dưới đây đã bàn sâu về nội dung văn học:

          Bài thơ “Đồng chí”, tác giả Chính Hữu, viết đầu năm 1948. Nó được liệt vào một trong những bài thơ tiêu biểu và thành công nhất trong thơ ca Việt Nam buổi đầu chống thực dân Pháp. Bài thơ đã khắc họa thành công hình ảnh chân chất giản dị mà đẹp đẽ của người lính già Hạ trong những năm tháng gian khổ của cuộc kháng chiến chống Nhật. Đặc biệt, đồng chí này đã miêu tả rất giản dị tình gia đình, tình thân giữa nông dân và bộ đội.

          Một chủ đề thơ rất mới lúc bấy giờ. Bài thơ sau đây là biểu hiện cụ thể của tình bạn – tình yêu cao cả đó:

          …Chàng sai bạn thân cày ruộng của nhà, bất kể gió giếng, nghĩ đến người đã sai lính đến với ta, ta biết từng cơn ớn lạnh, phát sốt, run rẩy, rịn mồ hôi trên trán

          Áo anh rách, vai anh rách, trên quần em còn nhiều mảnh cười nhăn nhở, chân trần, yêu nhau, nắm tay nhau.

          Có lẽ từ đồng chí ra đời ở nước ta do giai cấp vô sản lãnh đạo phong trào chống thực dân. Nghĩa của từ đồng chí, theo từ điển tiếng Việt, chủ yếu là những người cùng chí hướng. Đối xử với nhau. Nhưng ở Đồng chí, mối quan hệ giữa “anh” và “tôi” dường như không khô khan, không mang sắc thái trí thức như cách hiểu ở trên. Ở đây, tình người sâu sắc là trung tâm của tình bạn. Đồng chí đó biết rõ tâm tư của đối phương:

          ……Cử bạn gái cày ruộng, ngăn gió thổi gốc giếng vì nhớ lính.

          Đã là tri kỷ, biết bạn như biết mình, cũng bởi mình là người trong cuộc, người cùng cảnh ngộ. Với người nông dân, ruộng vườn, nhà cửa là di sản, là ước mơ ngàn năm của họ, họ luôn níu kéo, gìn giữ, chắt chiu những gì mình có. Nhưng họ đã bỏ tất cả và ra đi đánh giặc. Bài thơ này như một lời tâm sự, đầy cảm xúc, “tôi” không nói về quê hương, hoàn cảnh cá nhân mà kể cho “anh” nghe về gia đình mình.

          Là đồng chí, là “tri kỷ”, “tôi” biết “anh” đã để lại cho tôi bao nhiêu lưu luyến: ruộng phải gửi bạn, nhà chẳng màng của. gió, và biết bao người thân đang ngóng trông nhớ thương. Bài thơ “Nhà trống để gió lay” rất hàm súc và biểu cảm. Đó là sự hy sinh rất lớn và quyết định ra đi một cách liều lĩnh, để cả sự nghiệp trắng tay rồi ra đi, khi biết người mình yêu trống rỗng và “ngó lơ” điều đó.

          Hai anh em rất thân và hiểu nhau ở hậu phương: “Harui nhớ anh lính”, “giếng” và “gốc” là những hình ảnh hoán dụ về quê hương, nói về những người thân nơi hậu phương của người lính. Vì vậy, bài thơ “Đất nước nhớ bộ đội” thực chất là nỗi nhớ nhà của người lính, nỗi nhớ hai chiều càng thêm da diết.

          Thế là những người lính chia sẻ với nhau mọi tâm tư, tình cảm, kể cả những câu chuyện thầm kín, thân mật nhất của mình. Họ sống với nhau trong ký ức, trong hoài niệm và hơn thế nữa. Vì vậy, trước khi trở thành đồng chí thực sự, họ đã có sự đồng cảm sâu sắc, trước khi hợp tác, họ đã hiểu nhau rất rõ. Hiểu biết lẫn nhau là biểu hiện đầu tiên của tình người.

          Vì đã trải qua quá nhiều khó khăn, gian khổ trong những tháng ngày sát cánh chiến đấu nên họ và những người chiến sĩ cách mạng hiểu nhau hơn, đoàn kết hơn. Những khó khăn của cuộc sống chiến tranh không bao giờ là hiếm.

          Đây là về bệnh tật:

          Anh và em biết mỗi khi anh cảm, sốt, run, vã mồ hôi

          Đây là mức tối thiểu còn thiếu:

          Áo anh rách, vai tôi rách, quần tôi có nhiều nụ cười nhăn nhở, giày không có

          Người ta nói thơ chính nghĩa thì súc tích và xúc động. Đây là những ví dụ sinh động. Hình ảnh thơ gợi tả rất chân thực nhưng cô đọng và gợi cảm. Chỉ trong vài câu ngắn gọn, hình ảnh người lính thời chống Pháp được hiện lên sinh động. Mọi người dường như đang trải qua cơn sốt rét kinh hoàng và thuốc men đang thiếu hụt.

          Rồi hai anh em “cuỗm” quần áo vá, lội suối, leo núi chân đất. Chỉ có thể vượt qua tất cả nếu sự thiếu thốn giảm đi nhiều, bởi giữa các đồng chí mới có hơi ấm tình người. Tình yêu được vun đắp từ tình bạn và những nỗi đau trong cuộc đời. “Áo của anh”, “quần của anh”, từ trái nghĩa không phải đối lập mà nhấn mạnh sự đồng điệu của nhiều người, như một người trong hàng ngũ chiến sĩ cách mạng.

          Tác giả xây dựng một cặp câu sóng đôi, đối đáp (trong từng cặp câu và trong từng câu). Điều đáng chú ý là những người lính luôn nhìn bạn trước, nói về bạn trước rồi mới nói về mình, “anh” luôn xuất hiện trước “tôi”. Chẳng phải câu nói này phản ánh vẻ đẹp của việc yêu người khác như chính mình và tôn trọng người khác hơn chính mình sao? Chính tình bạn ấy đã sưởi ấm trái tim những người lính, cho họ cười nói, ca hát trong gió lạnh. Chỉ ở nơi khó khăn và bình thường như vậy, chúng ta mới có thể tìm thấy tình yêu đích thực của nhân loại.

          Có thể nói cốt lõi và sâu sắc nhất của tình bạn trong chiến tranh cách mạng-tình yêu cao đẹp trong thiên hạ là một câu thơ như thế này:

          Nắm tay yêu thương

          Một nửa câu nói về chất keo gắn kết mọi người với nhau: yêu nhau, và nửa còn lại nói về hành động cụ thể: nắm tay nhau. Không khoa trương, không lý lẽ, không giải thích, chỉ có tình bạn trong chiến tranh mới là sợi dây gắn bó nhất của tình bạn trong cách mạng.

          Họ quên mình để động viên nhau, truyền hơi ấm cho nhau: “Yêu nhau nắm tay nhau”. Đó là một cử chỉ rất cảm động, đầy tình cảm chân thành. Đây không phải là một cái bắt tay bình thường, mà là hai bàn tay nắm lấy nhau, sưởi ấm cho nhau, đánh tan cái lạnh, đôi bàn tay này dường như đang nói. Đó không phải là sự gắn bó bất chợt mà là sự gắn bó trong trận mạc, tình bạn, đồng cam cộng khổ, làm sâu sắc thêm tình đồng chí và đạt đến đỉnh cao của sống vì lý tưởng, chết vì lý tưởng.

          Trong suốt cuộc kháng chiến trường kỳ gian khổ ấy, tình đồng chí đã đi sâu vào đời sống, tâm hồn của những người lính và trở thành kỉ niệm không thể nào quên. Bài thơ không chỉ thể hiện tình cảm sâu nặng của người lính mà còn thể hiện sức mạnh của tình cảm này.

          Hình ảnh hai bàn tay siết chặt đã nói lên tất cả. Đó là sức mạnh vô địch mà kẻ thù phải khiếp sợ, là ân huệ chân chính, đẹp đẽ và quý giá nhất của quân đội ta. Bài thơ “Đồng chí” không rực rỡ vì chiến thắng, mà vì tình đồng chí nồng ấm, sống mãi và làm nên bao chiến công hiển hách.

          Tiếp theo Đọc 20 Đoạn Văn Mẫu Ngắn Hay Nhất Của Đồng chí Mở Đầu

          Phân tích đoạn 2 bài đồng chí Facebook – Mẫu 7

          Cùng chia sẻ phần 2 của bài văn mẫu phân tích bài văn, đồng chí facebook giúp các em có thêm tài liệu tham khảo phong phú.

          Là nhà văn chính nghĩa nổi tiếng với phong trào văn thơ yêu nước thời chống Pháp. Với những vần thơ giản dị, không khoa trương mà sâu sắc, nó không chỉ viết nên trang sử anh hùng, mà còn là khúc ca trầm lắng ăn sâu vào lòng người. Và trong hoàn cảnh khó khăn, khoảng cách giữa đồng đội, đồng đội đã được rút ngắn, họ trở thành người bạn tri kỷ của nhau. Tác phẩm “Đồng chí của Chính Hữu” ra đời năm 1948 kể câu chuyện về tình đồng chí thân thiết giản dị mà sâu sắc của những người chiến sĩ cách mạng vượt qua muôn vàn khó khăn lúc bấy giờ.

          Xem Thêm : Soạn bài Từ láy lớp 7 trang 41 SGK

          Mở đầu bài thơ, tác giả tinh tế đưa ra một nét tương đồng, nét chung của hai con người, như chiếc cầu nối đưa hai người lính cùng cảnh ngộ lại gần nhau hơn. Tiết thứ hai, chúng ta được biết những người lính có cùng sứ mệnh chiến đấu, cùng mục tiêu sống, cùng lý tưởng cách mạng đã cầm lấy súng tự do và cầm vũ khí của lòng trung thành. Kiên định và kiên cường:

          “Súng đối súng, đối đầu. Hàn Dã kết bạn với đồng đội”

          Hai câu thơ gợi cho ta hình ảnh hai người lính, nửa đêm ôm chặt súng, đứng bên nhau, mắt nhìn xa xăm. Họ đang cảnh giác và nhiệm vụ là nguy hiểm. Hai người lính hiên ngang đứng cạnh nhau, như không sợ nguy hiểm gánh vác trọng trách nặng nề.

          Trải qua hoạn nạn ấy, những con người xa lạ bỗng trở thành bạn bè, rồi thành “tri kỷ”, sẻ chia chút ngọt ngào, hơi ấm trong đêm lạnh. Từ “đồng chí” nghe thật thân thương, và cảm giác không thể diễn tả bằng lời, như thể tôi đang bị kìm nén và đột nhiên nói ra một cách vội vàng, tràn đầy sự mong đợi nồng nhiệt.

          Khi đất nước lâm nguy, nó đến từ những người nông dân cần cù, chất phác quanh năm gắn bó với ruộng đồng. Bạn đã nghe theo tiếng gọi của tổ quốc, bạn đã rời bỏ đất nước, cánh đồng và ngôi nhà của mình:

          “Xin gửi bạn thân Cảnh Gia, mặc kệ gió lay giếng gốc, nhớ binh”

          Trước tình quê hương, tình làng xóm thân yêu, có những người thân sẽ luôn che chở cho bạn. Rồi họ lên đường, khoác lên mình màu áo xanh, khoác lên mình khẩu súng trường và bảo vệ những điều hết sức bình dị mà họ yêu quý. Ruộng khô được bạn thân vun vén, căn nhà không “coi” gió lay, dứt khoát ra đi, bỏ lại cuộc sống thường ngày êm đềm bình dị không chút do dự.

          Nhưng tình cảm ấy, trái tim ấy luôn hướng về quê hương. Ngoài ra, tác giả còn sử dụng những từ ngữ quen thuộc ở làng quê như “giếng nước”, “gốc đa”. Đồng thời, dường như cả tâm hồn cũng được tiêm nhiễm vào những thứ vô tri vô giác ấy, từ “nhớ” thể hiện nỗi nhớ da diết, mong mỏi từng ngày.

          Ở đây không chỉ là nỗi nhớ “giếng nước”, “gốc đa”, mà còn là nỗi nhớ mong, chờ đợi người thân, mẹ già, vợ hiền, hay những người khác. Đó cũng là quyết tâm chiến đấu, là niềm hy vọng ngày trở về của đất nước, của nhân dân.

          Trong cuộc chiến khốc liệt đó, các anh đã trải qua muôn vàn khó khăn, trở ngại. Biết bao người đã phải ngã xuống, cống hiến máu xương cho Tổ quốc cho những người ở lại chiến đấu. Tuy nhiên, sự lạc quan vẫn luôn hiện hữu trong họ:

          “Bạn và tôi biết từng cơn ớn lạnh… nắm tay nhau yêu thương!”

          Với sự cụ thể hóa của hình ảnh hiện thực, hình ảnh người lính phong trần dần hiện ra. Họ đã phải đối mặt với cái lạnh giá, rừng thiêng bao bọc bởi nước độc, những cơn sốt rét kinh hoàng “sốt sình mồ hôi trán” hay cuộc sống vất vả, thiếu thốn đủ thứ “Áo anh rách vai, quần em rách mấy cái”. vá”, “không có giày”.

          Dù hiểm nguy nhưng trên môi họ vẫn nở nụ cười, tinh thần lạc quan, thận trọng không lay chuyển. Tác giả công lí dùng cách “khóc miệng” để khắc hoạ một hình ảnh giản dị nhưng đẹp đẽ và trong sáng. Nụ cười ấy như xua tan đi tất cả, như một lời động viên, một sức mạnh làm việc chăm chỉ vì cuộc sống và chiến đấu.

          Bài thơ này để lại trong chúng ta những kỉ niệm và sự khâm phục đối với những người cựu chiến binh đã trải qua gian khổ. Đồng thời cũng là những bức tranh giản dị, không tô điểm nhưng chứa đựng một tâm hồn lãng mạn và cao đẹp. Khổ thơ thứ hai của bài thơ “Đồng chí” như tái hiện chân thực cuộc chiến tranh gian khổ đầy đau thương mất mát, đó là tinh thần thép, khí huyết sôi sục, trách nhiệm chung của tình đồng chí, đồng đội.

          20 Đoạn văn mẫu ngắn hay nhất mà bạn có thể thích Kết luận về đồng chí

          Phân tích 2 khổ thơ đầu “Đồng chí” – Ví dụ 8

          Mời các em xem phần Phân tích hai khổ thơ đầu của cả bài thơ dưới đây, Đồng chí sẽ cung cấp cho các em những ý tưởng làm văn hay.

          Đề tài về cuộc kháng chiến toàn dân chống Pháp và những người lính trong cuộc chiến tranh khốc liệt ấy luôn là đề tài muôn thuở của thơ ca, có rất nhiều tác phẩm nổi tiếng. Mỗi nhà thơ, nhà văn đóng góp cho mảng đề tài một tác phẩm độc đáo, có phong cách riêng và toàn vẹn. Có thể nói, chính nhà thơ đã dùng bài thơ “Đồng chí sinh năm 1948” này để chúng ta hiểu hơn về những người lính, về tình đồng chí trong cuộc trường kỳ chống Pháp của dân tộc.

          Trong bảy dòng đầu của bài thơ, tác giả chính trực đã cung cấp cho người đọc những nền tảng, những viên gạch xây dựng giúp xây dựng tình đồng chí, tình đồng đội. Thứ nhất, họ là những người có cùng xuất thân:

          Quê anh nước mặn, làng tôi nghèo cày sỏi, chưa từng gặp người ngoài hành tinh

          Xem Thêm: Tên Hán Việt Của Bạn Là Gì ❤️ Dịch Tên Tiếng Việt Sang Hán

          Dường như bốn câu cộng với thành ngữ “đồng chua nước mặn” và cách dùng từ “cày đất đạp đá”, tác giả đã tóm tắt chân thực về lai lịch của những người lính. Họ đều xuất thân từ những vùng quê nghèo khó, lam lũ, lam lũ vất vả, lên đường đều nghe tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc mà “biết lòng nhau”. “Biết nhau”.

          Có thể nói, khi tác giả công lí thay từ “hai” bằng từ “đôi” thực sự có dụng ý, bởi dường như từ “đôi” đã xóa dần khoảng cách giữa người với người. . Những người lính, họ trở nên thân thiết và thân thiết với nhau hơn.

          Ngoài ra, những người lính còn là những người có cùng lý tưởng, khát vọng và mục tiêu.

          Súng kề đầu Súng kề đầu

          Khẩu súng là hình ảnh tượng trưng cho khát vọng bảo vệ đất nước trước quân xâm lược. Ngoài ra, từ “súng” được lặp lại hai lần như muốn nhấn mạnh một lần nữa tình đồng chí đã hình thành trên cơ sở chung một sứ mệnh cao cả.

          Các anh đến từ các buôn làng khác nhau và gánh vác nghĩa vụ thiêng liêng của đất nước. Đồng thời, một trong những cơ sở tạo nên tình đồng chí, đồng đội là sự cùng nhau sẻ chia, đồng cam cộng khổ, chịu đựng bao thiếu thốn, gian khổ, khó khăn để hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình. >

          Trải qua đêm lạnh như đôi tri kỷ

          Nếu như 7 câu đầu tác giả nêu ra cơ sở để hình thành tình bạn thân thiết thì ở 10 câu tiếp theo, nhà thơ đi sâu thể hiện tình cảm đáng trân trọng. Trước hết, tình đồng chí, tình đồng đội thể hiện ở sự hiểu biết, cảm thông, chia sẻ vui buồn.

          Cử bạn thân cày ruộng, mặc cho gió lay gốc giếng, vì nghĩa quân

          Những người lính đã bỏ lại tình cảm, quê hương, gia đình để đi theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc, nên có lẽ các anh hiểu lòng nhau hơn ai hết mà dệt nên ba câu thơ với bao cảm xúc. Hình ảnh “xứ trống” vừa gợi vẻ hoang tàn, đổ nát của làng quê nghèo khó, vừa gợi nỗi trống trải, cô đơn của người ở lại. Từ “buông tay” thể hiện rõ người chiến sĩ kiên quyết lên đường vì một mục tiêu cao cả.

          Đặc biệt là hình ảnh “Giếng nước gốc” là hình ảnh ẩn dụ cho người ở lại và quê hương. Tổ quốc nhớ anh, hay trong lòng người lính hình bóng quê hương luôn sống mãi trong anh. Có lẽ, hình bóng và nỗi nhớ quê hương là nguồn động lực to lớn, cổ vũ đồng chí vững bước trên con đường chính trị gian nan, thử thách, hiểm nguy.

          Ngoài ra, một biểu hiện nữa của tình đồng chí là sự bền bỉ, sẻ chia vui buồn, đồng bào trong cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc.

          Bạn và tôi biết từng cơn cảm lạnh, sốt, run rẩy, đổ mồ hôi trán. Áo anh rách vai, quần em thủng mấy vách giày không giày

          Có lẽ chỉ bốn dòng thơ thôi cũng đủ đúc kết cho ta những gian khổ, khó khăn, gian khổ mà tất cả những người lính đã chung sức, chung lòng vượt qua. Những đau khổ ấy là cơn sốt cao hành hạ họ nơi rừng thiêng nước độc, “áo rách”, “quần vá”, “không giày”. Khó khăn là thế, nhưng những người lính vẫn bên nhau, yêu thương nhau và cùng nhau vượt qua khó khăn.

          Những điều đó được thể hiện sinh động trong bài thơ “yêu nhau nắm tay nhau”. Một chiến binh đa cảm, dũng cảm được vẽ ra trong bài thơ. Những chiến binh ấy “nắm tay nhau” để cùng nhau sẻ chia, cho nhau hơi ấm yêu thương và là động lực để cùng nhau cố gắng.

          Tóm lại, phần một và phần hai của “Đồng chí của nhà thơ Chính Hữu” đã sử dụng thể thơ tự do, biện pháp tu từ và đặc biệt là hình ảnh giàu ý nghĩa tượng trưng để khắc họa thành công hình ảnh người chiến sĩ vĩ đại trong cuộc kháng chiến giữ nước của dân tộc. kháng chiến chống Pháp.Chiến tranh, gợi lên trong ta bao suy nghĩ về tình đồng chí, đồng đội.

          Tham khảo bài viết ở đầu trọn bộ cảm nghĩ 7 tiểu mục đồng chí 15 bài viết hay

          Phân tích đoạn 1 và 2 bài thơ Đồng chí——Ví dụ 9

          Khi viết bài Phân tích đoạn thơ đồng tính lớp 12, học sinh cần nắm vững giá trị nội dung và nghệ thuật của hai đoạn. Mời các bạn tham khảo các bài viết sau để phân tích các bài viết mẫu cho Phần 1 và Phần 2:

          Khi viết bài thơ “Đồng chí”, liệt sĩ từng tâm sự: “Tôi viết bài thơ “Đồng chí” như một lời tâm sự với đồng đội của mình”. Bài thơ là kết tinh của kinh nghiệm bản thân và tình cảm sâu nặng, bền chặt, thiết tha của nhà thơ với người đồng chí, đồng đội trong cuộc kháng chiến gian khổ.

          Trong kháng chiến chống Nhật có những tình cảm cao đẹp, không chỉ là tình cảm gia đình, tình yêu thương mà còn là tình đồng chí đồng đội. Là cảm giác như người trong cùng một nhà, ngày đêm quấn quít bên nhau:

          “Quê anh nước mặn, làng tôi nghèo đất cày sỏi đá”

          Hai câu đầu có kết cấu sóng đôi, cách xưng hô “anh-em” thân thiết, thể hiện nỗi tương tư về tình cảnh của những người lính. Có thể “anh” và “tôi” đều là những người nông dân đã quen làm ruộng với con cuốc, quê hương của họ đều là những vùng quê nghèo.

          Người miền xuôi, “ruộng chua nước mặn”, người đất cằn sỏi đá, khó canh tác. Khi họ nghe theo tiếng gọi của Tổ quốc, vác súng trên vai, trở thành những người lính dũng cảm, kiên cường, từ những người không quen biết, họ trở thành “đồng chí trong vòng tay”:

          “Anh và tôi là người lạ trên đời”

          Cuộc gặp gỡ tình cờ như sợi dây gắn kết giữa hai người lính vì lý tưởng cao cả bảo vệ Tổ quốc. Họ có cùng một hoàn cảnh, lý tưởng và nhiệm vụ chiến đấu: “đầu kề mũi súng”. Hai hình ảnh “súng” và “đầu” là những hình ảnh mang ý nghĩa tượng trưng cao đẹp. “Súng” đại diện cho nhiệm vụ chiến đấu và “đầu” đại diện cho lý tưởng. Câu thơ lặp lại hình ảnh song ngư hai lần, nhấn mạnh sự gắn bó thiêng liêng của những người đồng chí trong trận chiến gian khổ.

          Từ việc thể hiện tình cảm giữa những người lính trong một nhiệm vụ quan trọng, tác giả cho thấy một tình cảm gắn bó thân thiết trong cuộc sống hàng ngày: “Cùng nhau trong đêm lạnh, tình như anh em một nhà”. Đây là sự miêu tả chân thực về cuộc sống gian khổ của những người lính, những người phải chịu đói và chịu rét. Đặc biệt, họ biết rõ nhất bệnh sốt rét ở núi rừng Việt Nam. Nhưng giữa những khó khăn này, tình bạn thân thiết phát triển mạnh mẽ, từ “những người xa lạ” trở thành “những người bạn thân nhất”.

          Những câu thơ rất đỗi giản dị, chân thành đúc kết từ những trải nghiệm thời chiến, tái hiện không gian và thời gian, gắn kết những người lính lại gần nhau hơn. Họ là “đồng chí” một từ rất thiêng liêng. Dấu chấm than được thêm vào vế hai từ “đồng chí” để câu thơ ngắn gọn. Những người lính có cùng xuất thân, cùng lý tưởng bảo vệ Tổ quốc đã trở thành “bạn tâm giao” trong hoàn cảnh khó khăn ấy, trở thành một gạch nối bền chặt.

          Từ người quen trở thành “bạn thân” vì hiểu tâm tư, tình cảm của nhau:

          “Vì nhớ người lính, tôi tiễn bạn thân cày ruộng và không bao giờ quên gốc giếng nước lay động theo gió”

          Họ, nông dân, binh lính, hy sinh tình cảm cá nhân vì nước, vì nước. Những lo lắng, trăn trở chôn sâu về quê hương, làng xóm. Đối với chúng ta, nhà cửa, ruộng vườn, của cải đóng vai trò vô cùng quan trọng, nhưng các chiến binh lại có quan niệm khác: “ruộng đất” gửi “bạn thân đi cày”, còn “bãi trống” nghĩa là “gió” lay động. “Anh” ra trận bỏ lại tất cả vật chất và tình yêu.

          Trong câu thơ có từ “buông” nghe có vẻ tàn nhẫn nhưng thực chất lại trấn áp sự kiên quyết, mạnh mẽ của tình cảm riêng tư của người thanh niên có lý tưởng, có mục đích lớn. Dù quyết tâm đến đâu, trong lòng những người lính vẫn sâu nặng tình yêu quê hương, xóm giềng: “Người lính nhớ người lính” và ngược lại, “người lính xuất ngũ” lại nhớ quê.

          Hình ảnh nhân hóa kết hợp với hoán dụ “giếng”, “gốc” rất thân thương, góp phần thể hiện tình yêu quê hương của người chiến sĩ. Một sự hy sinh lớn lao như vậy cần được thấu hiểu và sẻ chia, dường như nỗi lòng của “anh” cũng là tâm sự của “em”. Anh cùng em trút bầu tâm sự để xoa dịu nỗi lòng. Chính tình yêu quê hương, nỗi nhớ làng quê thân thuộc đã tiếp thêm nguồn sức mạnh cho tình đồng chí.

          Không chỉ hiểu mà người lính còn chịu gian khổ, vượt khó:

          “Em và anh biết từng cơn ớn lạnh, từng cơn sốt, từng giọt mồ hôi. Áo anh rách, vai rách, trên quần có nụ cười băng giá, đôi chân trần tình tứ nắm tay”

          Người lính đã trải qua muôn vàn gian khổ, không ai không trải qua cảm giác nhiễm sốt rét nơi núi sâu, rừng già Bắc Bộ. Và thường không thể thiếu trang phục “vai áo trễ vai” trong mùa đông lạnh giá.

          Trong hoàn cảnh khó khăn ấy, những người lính vẫn luôn lạc quan, tràn đầy niềm tin và luôn nở nụ cười “lẳng lơ”, như thể họ đã mang hơi ấm của tình người, tình thân. Họ tươi cười bắt tay nhau, ra sức nói: “Yêu nhau thì nắm tay nhau”. Nắm tay là một sợi dây liên kết mạnh mẽ giữa cơ thể, tâm trí và cảm xúc. Họ truyền cho nhau hơi ấm và ý chí mạnh mẽ, cùng nhau tiến về phía trước, về nơi bom đạn, khói lửa mịt mù.

          Hai đoạn đầu của “Đồng chí chính nghĩa” tái hiện hình ảnh những người lính trong những ngày đầu toàn quốc kháng chiến chống Pháp. Tác giả để lại trong lòng người đọc những cảm xúc khó phai với lối thơ hàm súc cô đọng.

          Tiếp theo, đọc và phân tích 7 chương của Đồng chí mẫu mực ở đầu bài

          Phân tích đồng tính Mục 2 3 Điều – Ví dụ 10

          Dưới đây chia sẻ bài văn mẫu phân tích tình đồng đội phần 2 và 3 để các em tham khảo và vận dụng linh hoạt khi làm bài.

          Những vần thơ của đồng chí nhẹ nhàng nhưng ấm áp và tươi vui, những vần thơ viết bằng ngôn ngữ giản dị dường như là sự đồng cảm sâu sắc của một nhà thơ cách mạng đối với niềm tin, tình yêu, hy vọng và tình yêu. Phải chăng khí chất quân tử dần thấm vào thơ, đất nước dần hòa vào thơ của các thi nhân, tạo nên những vần thơ nhẹ nhàng, xúc động?

          Trong vô vàn cung bậc cảm xúc của con người, phải chăng tình bạn là trạng thái cao đẹp và lý tưởng nhất, hơi thở của thơ yếu hơn, hương thi ca cũng yếu hơn? Dường như Đại Nghi đã thổi vào hồn bài thơ này tình đồng chí, nỗi nhớ và âm vang muôn thuở, khiến bài thơ này mãi mãi là phần đẹp nhất trong các bài thơ của Đại Nghi. Kỷ niệm người lính, kỷ niệm riêng là vô tận:

          Cử bạn thân cày nhà mặc kệ gió

          Bản chất nông dân thật thà của những người lính mới đáng quý biết bao! Đối với người nông dân, ruộng vườn và nhà cửa là những thứ quý giá nhất. Họ sống trên cánh đồng và lớn lên lắng nghe tiếng hát du dương của bà ngoại. Họ lớn lên trong những ngôi nhà không bị gió lay. Tuy nhiên, họ vẫn yêu, yêu mảnh đất thân quen, mái nhà thân quen…

          Nhưng…họ đã vượt qua chân trời của cái tôi của mình và đến được chân trời của tất cả mọi người. Đi trên con đường ấy là đi theo tiếng gọi của trái tim, đi theo tiếng gọi tình yêu của lòng yêu nước. Bỏ lại sau lưng bao bóng hình quê hương, nó vẫn trở thành nỗi nhớ khôn nguôi của mỗi người lính. Dù thế nào đi chăng nữa, trong trái tim họ, nơi quê hương vẫn bao trùm, như muốn ôm trọn bao kỉ niệm.

          Không liệt kê, cũng không phải là phép đảo ngữ thường thấy trong thơ ca, nhưng có hai câu trong bài thơ cũng đủ làm rung động tâm hồn thi nhân: “Nguyên Kinh Kỷ Băng”. Nỗi nhớ quê hương với những người con lưu lạc đã bồi đắp cho tâm hồn dân tộc một sức sống mãnh liệt hơn. Nhà thơ nhân cách hóa Harai cũng có một nỗi nhớ da diết về người lính.

          Nhưng loại trừ những vật vô tri vô giác, tác giả còn sử dụng nghệ thuật hoán dụ để thể hiện nỗi nhớ nhà của con người, nỗi nhớ con của mẹ, nỗi nhớ chồng của vợ, vợ chồng. Trai gái yêu nhau…để lại nỗi nhớ thương, bỏ lại quê hương chiến sĩ gian khổ:

          Bạn và tôi biết từng cơn ớn lạnh, sốt, run rẩy, đổ mồ hôi trán. Áo anh rách, quần anh rách, quần tôi có mấy nụ cười nhăn nhở, chân tôi để trần

          Những câu thơ vang lên chậm rãi nhưng ngắt quãng, có lẽ chính những gian khổ, thiếu thốn của người lính đã làm cho nhịp điệu của công lí sâu lắng hơn. Đất nước mình còn nghèo lắm, bộ đội còn thiếu thốn quân trang, quân phục, đối mặt với những cơn sốt rét rừng, những đêm giá rét… chỉ vài chiếc quần vá, chiếc áo rách, những người lính vẫn vững bước đi theo. Chống cự, dù chỉ là nụ cười lạnh lùng, im lặng.

          Tình đồng chí thật sáng ngời trong gian khó, gần mà thật, thật mà xa… Tình cảm ấy lan tỏa trong trái tim mỗi người lính. Đồng chí:

          Là cùng nhau uống nước, chia đôi hạt gạo, chia nắng chiều mưa, anh em cùng nhắn một lời, đứng trong hào hẹp, cùng sống, cùng chết.(Nhớ-Hongyuan )

          Nụ cười lạc quan, niềm tin chiến thắng, cảm xúc chân thành được chị biến đổi bằng nụ cười chính trực – biểu tượng của người chiến sĩ, trên chiến trường, trong hòa bình và trong công cuộc xây dựng đất nước. , kiêu hãnh, nụ cười yêu thương, nụ cười đắc thắng…

          Thật vậy, bài thơ là một tình cảm thiêng liêng, một tình yêu lớn, điều vĩ đại nhất của đời người. Quen nhau trên cùng một con đường cách mạng, tình đồng chí như thắt chặt hơn bằng một sợi dây yêu thương vô hình. Đoạn hai và đoạn ba của bài thơ Đồng đội đã làm rung động lòng người bởi ngôn ngữ chân chất, hình ảnh lãng mạn và nụ cười tự hào của những người lính. Tình đồng chí ấy có thể tồn tại mãi mãi với Tổ quốc, với Tổ quốc, với hôm nay, mai sau và thế hệ mai sau.

          Đừng bỏ lỡ 🔥Sơ đồ tư duy Đội Chế Thơ không kính🔥12 mẫu đơn giản và đầy đủ

Nguồn: https://anhvufood.vn
Danh mục: Giáo Dục

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *