Phân tích hình tượng người lính tây tiến
Có thể bạn quan tâm
22 bài văn mẫu đầu tiên Phân tích hình ảnh người lính Tây trong thơ Tây Quảng Đông Siêu hay trong bài viết dưới đây sẽ giúp các em học sinh lớp 12 có thêm gợi ý tham khảo. Ôn tập, trau dồi kiến thức, biết cách làm bài văn phân tích hay, đủ ý để đạt điểm cao trong các bài kiểm tra sắp tới.
Bạn Đang Xem: Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng người lính Tây Tiến (22 Mẫu) Sơ đồ tư duy 22 mẫu bài văn hay lớp 12
Phân tích hình tượng người lính miền Tây, ta thấy hình ảnh người lính vừa lãng mạn, vừa tự phụ lại vô cùng trung thành, dũng cảm. Đây chính là điểm đặc biệt làm nên thành công của tác phẩm này. Ngoài ra, các em có thể xem thêm các bài văn mẫu phân tích thơ Tây Phương , Phân Tích Đoạn Đầu Tây Tiến .
Sơ đồ tư duy về người lính tây
Xem thêm: Bản đồ tư duy chống phương Tây
Phân tích sơ lược về hình tượng người lính Tây Tiến
I. Lễ khai trương
- quang dũng là một nghệ sĩ đa năng, hồn thơ luôn phóng khoáng, nhân hậu, lãng mạn và tài hoa.
- Bài thơ này được in trong đám mây đầu tiên, và nó được viết bởi Quảng Đông khi rời khỏi quân đội phía tây.
- Hình ảnh nổi bật trong bài thơ là người lính Tây Tiến.
- Các địa danh Sài Gòn, Mường Lát gợi sự xa xôi, hẻo lánh; những từ thông tục mang tính tượng hình: “cong”, “sâu”, “ngọt”, ám chỉ “nghiêng” chỉ địa hình hiểm trở, khúc khuỷu, hiểm trở.
- Câu thơ ngắt nhịp “ngàn bộ…xuống dưới” mang âm hưởng nguy hiểm tột độ.
- Những hình ảnh nhân hoá: “hổ vui”, “thác gầm” gợi sự hoang sơ, man dại; thời gian: “chiều”, “đêm” Người chiến binh sẽ thường gặp hiểm nguy nơi rừng thiêng nước độc.
- Sử dụng hầu hết các thanh để nhấn mạnh độ gồ ghề của địa hình.
- Hình ảnh “Súng trời” thể hiện những ngọn núi cao mà người lính phải chinh phục, đồng thời cũng phản ánh sự khôn ngoan của người lính trong gian khó.
- “Quân đoàn trụi lông”: Đây là hậu quả của đợt sốt rét rừng ác tính. Phần nào thể hiện sự kiêu ngạo, bản lĩnh, ngang tàng của những người lính trẻ.
- “Lục quân xanh”: Là hình ảnh làn da xanh xao như màu lá do sốt rét rừng (chắc là màu xanh của quân phục rằn ri, có thể hiểu là màu áo lính). Đây cũng là những sự hy sinh thầm lặng (sức khỏe hao mòn dần).
- “Đôi mắt ngố”: Với dáng vẻ dữ dằn, những người lính Tây vừa mang vẻ đẹp của những người lính xưa, nhưng cũng gợi nhớ về khuôn mặt hốc hác với điều kiện vật chất nghèo nàn.
- “binh đoàn”: Gợi hình ảnh một đoàn quân đông đảo, có đặc điểm chung cho mọi binh lính (đầu không có tóc, da xanh, mắt dữ)
- “Coi em ăn mặc…tạo nên hồn thơ”: Ánh mắt nồng ấm yêu thương của những người lính miền Tây đang hướng về phía trước trước vẻ đẹp quyến rũ của những con người Đại Tây Bắc. Tâm hồn người lính bay bổng, đắm chìm trong bầu không khí ấm áp và nhân văn.
- “Gửi giấc mơ”, “Đêm mơ”: Lính Tây là những chàng trai Hà Nội mộng mơ, nên họ mang theo nét thơ mộng, lãng mạn của tâm hồn mình ra chiến trường (so sánh với những người lính nông dân trong bài Đồng chí- Chính nghĩa ).
- “Hà Nội” là khoảng trời của nỗi nhớ, là không gian khác hẳn với cuộc sống gian khổ nơi chiến trường, với nỗi nhớ quê hương da diết.
- “Hương thơm” gợi hình ảnh thiếu nữ Hà Nội yêu kiều, kiêu sa, hình bóng được lính Tây ưa chuộng. Đây chính là nguồn động lực để họ chiến đấu trên chiến trường cam go.
Hai. Nội dung bài đăng
1. Tổng quan chung
– tay tien: Là tên gọi của một binh đoàn được thành lập năm 1947. Nhiệm vụ của binh đoàn này là cùng quân đội Lào bảo vệ biên giới Việt Lào, tiêu hao sinh lực giặc Pháp.
– Từ lính Tây: Chủ yếu là người Hà Nội, trong đó có nhiều sinh viên.
– Cảm hứng sáng tác: Quang Dũng làm thơ để bày tỏ nỗi nhớ quân tiến đánh sau khi ra trận.
2. Vẻ đẹp tinh thần của lao động cần cù, vượt khó
– Tháng ba gian nan:
+ Khung cảnh thiên nhiên có lúc êm dịu và tràn đầy sức sống: “Ai đang pha…”, “Khói bay nương lúa”, “Mai Châu vào mùa em…”, giọng đọc truyền cảm. Cảm giác nhẹ nhàng, êm đềm. Thở phào nhẹ nhõm sau chặng đường dài hành quân.
3. Vẻ đẹp hình thể: dữ dội, hùng tráng, oai vệ
– Nhận xét: Nếu nhìn chúng ở điểm nhìn bình thường thì vẻ ngoài của chúng thật kỳ lạ, nhưng chỉ với ba từ “lì lợm, dữ tợn” tác giả đã làm nổi bật vẻ đẹp của sự dữ dội, dũng mãnh và oai phong. /p>
4. Vẻ đẹp bên trong: phong trần, yêu đời, lãng mạn của người lính trẻ
– Nhận xét: Trong môi trường chiến đấu khắc nghiệt, họ vẫn giữ được vẻ hào hoa, lãng tử vốn có của tuổi trẻ trí thức Hà Nội.
5. Vẻ Đẹp Cuộc Sống: Tinh Thần Hy Sinh Cao Thượng
– Hình ảnh hào hùng của những người lính miền Tây “lăng xê” và “quên đời”: đó là sự yên nghỉ vĩnh viễn, cái chết tựa lông hồng.
– Chuẩn bị hiến dâng tuổi thanh xuân cho đất nước: “Trao mộ”, “Không tiếc tuổi trẻ”, “Trở về với đất”, ra đi thanh thản, nhẹ nhàng.
– Cái chết được lí tưởng hoá trong hình tượng những người anh hùng thời xưa: “Chiếc áo bào”, “Hành khúc độc thân”; thiên nhiên cũng đau khổ chứ không phải đau khổ như họ phải đau khổ.
– Bình luận: Binh lính phương Tây có vẻ đẹp bi tráng, dáng người so sánh với chiến binh thời xưa. Cảm hứng lãng mạn bất tử hình ảnh của họ.
Ba. Kết thúc
– Nêu ấn tượng của em về hình ảnh người lính Tây Tiến.
– Nêu một số giá trị nghệ thuật tiêu biểu: bút pháp lãng mạn, ngôn ngữ sáng tạo, cách dùng phép đối, phép đối, hình tượng thơ độc đáo, mới lạ.
– Tổng kết giá trị nội dung: Đoạn thơ tái hiện vẻ đẹp nên thơ hùng vĩ của núi rừng Tây Bắc; vẻ đẹp của hình tượng người lính Tây Bắc.
………..
Tải file để xem thêm hồ sơ phân tích hình ảnh lính Tây
Phân tích hình ảnh người lính tốt nhất
quang dũng là nhà thơ nổi tiếng với tấm lòng bao dung, nhân hậu và tâm hồn lãng mạn. Ông đã đưa sự hào hoa của người Hà Nội và tình đất vào nhiều tác phẩm của mình, phủ lên nhiều tác phẩm của ông một lớp men lãng mạn, và những bài thơ thể hiện thành công phong cách tự do lãng mạn của ông là sự tiến bộ của phương Tây. . Loạt ảnh đặc sắc thể hiện thành công vẻ đẹp của hình tượng người lính miền Tây trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
“Tây du ký” do Quảng Đông ở thôn Lưu Lưu sáng tác năm 1948, in trong tuyển tập ô đầu. Hình ảnh người lính Tây Phương trong tác phẩm Quảng Đông toát lên vẻ đẹp bi tráng và lãng mạn giữa núi rừng thiên nhiên.
Hình ảnh người lính, người lính miền Tây, được vẽ một cách lạ lùng để lột tả màu da khi anh bị sốt rét rừng:
“Tây tiến không mọc tóc, quân Thanh dữ tợn, nhìn mộng vượt biên, Hà Nội Mạnh Nghiệp Mai Hương.”
Những người lính giữ một tư thế oai phong lẫm liệt, “dữ dội” nhưng tư thế ấy được khắc họa sống động và hầu như ai cũng đã từng trải qua. Quân Tây chết vì bệnh hiểm nghèo nên người hành quân phải đương đầu với mọi khó khăn, nguy hiểm và thiếu thốn. :
“Bạn và tôi biết từng cơn ớn lạnh, cơn sốt, mồ hôi trán.
Đằng sau vẻ bề ngoài là một sức mạnh tâm hồn:
“Mắt đẹp gửi mộng qua biên giới, đêm mơ hương sắc Hà Nội.”
Vẻ đẹp lãng mạn trong hoàn cảnh hiểm nghèo của cuộc kháng chiến chống Nhật. Xưa kia, giấc mơ lãng mạn ấy bị coi là giấc mơ tiểu tư sản viển vông, thể hiện tâm hồn yếu đuối không nên có mặt khi người anh hùng ra trận. Tác giả mang đến cho chúng ta sự quý giá của thứ thơ hiện thực này. Giấc mơ ấy thật bay bổng, và đó cũng là sức mạnh tinh thần của Tây phương. Ước mơ đó đã trở thành động lực giúp các chiến sĩ vượt qua muôn vàn khó khăn, rèn giũa, đánh thắng mọi kẻ thù.
Lí tưởng và khát vọng của những người lính miền tây được thể hiện sâu sắc trong đoạn thơ:
“Biên cương mồ mả rải xa, chiến trường xanh không tiếc.”
Tuổi trẻ và hoài bão của những người lính trẻ còn ở phía trước, nhưng Tổ quốc thân yêu còn ở phía trước, không có tình yêu nào cao bằng Tổ quốc. Vì vậy mong muốn của họ là ra đi, là cống hiến, là hy sinh bản thân. Biết bao dũng sĩ lao ra chiến trường vung gươm. Ai không ngoảnh lại với tình cảm tốt đẹp đã hiện thân và trở thành lý tưởng của người lính.
quang dũng không né tránh hiện thực phũ phàng:
“Biên cương mồ mả rải xa, chiến trường xanh không tiếc.”
Trên con đường gian nan, nhiều chiến sĩ đã không thể vượt qua, đã vĩnh viễn ngã mũ sắt, quên đời. Đã có nhiều hy sinh trên đường đi. Sự hy sinh bi tráng của họ được miêu tả thật đẹp:
“Chiếc áo choàng không phản chiếu anh ta trở lại trái đất, nhưng con hà mã vẫn hát và gầm.”
“Áo phản anh về đất” kể về sự ra đi của họ và cường điệu hóa sự hy sinh cao cả. Những người lính nằm xuống chiến trường không có gì ngoài một tấm đệm thô sơ, hoặc thậm chí là một tấm lót. Sự hy sinh của những người lính còn được thể hiện trong giai điệu của bài ca lịch sử: “Hà mã gầm lên hát đơn ca”. Dòng sông mã được đi kèm với một cuộc hành trình qua dày và mỏng. Xinhou là tiếng kêu của thiên nhiên, thể hiện sự hy sinh anh dũng của người lính, nâng cái chết lên tầm anh hùng ca. Quang dũng đã tạo nên nền thơ dân tộc đậm chất lãng mạn. Hiện thực phũ phàng dưới lăng kính lãng mạn không mang đến nỗi buồn mà là sự sang trọng, phóng khoáng và đẹp đẽ.
Những câu thơ hào hùng, thư pháp đa dạng, ngôn ngữ quen thuộc, độc đáo kết hợp với những hình ảnh ẩn dụ giàu ý nghĩa đã khắc họa vẻ đẹp của người lính Tây Tiến.
p>
Những người lính Tây Tiến trong bài thơ vừa bi tráng vừa lãng mạn, với tâm hồn lạc quan, tin rằng mọi gian khổ, khó khăn đều có thể mang lại độc lập, tự do cho Tổ quốc.
Phân tích hình tượng người lính Tây tiến đầy đủ
Ví dụ 1
Vào một đêm khuya năm 1948, trong một ngôi làng nhỏ bên sông Daihe, trong bùn vôi, Guangyong nhớ lại những kỷ niệm một cách sống động. Lúc bấy giờ, Quang Dũng giữ chức đội trưởng Tây quân, nhiệm vụ của ông là phối hợp với quân đội Lào bảo vệ biên giới Việt Lào và chống địch trên đường núi Tây Bắc từ Lai Châu đến bắc Thanh Hóa. Những người lính trung đoàn miền Tây sống trong hoàn cảnh vô cùng thiếu thốn, khó khăn, bởi rừng thiêng nước độc, sốt rét hoành hành, dược liệu khan hiếm, dưới chân núi cằn, biển hiểm.
Lính Tây phần lớn là thanh niên Hà Nội, phần lớn là học sinh, trí thức tiểu tư sản, tuy chiến đấu trong hoàn cảnh khó khăn nhưng họ vẫn toát lên khí chất lãng mạn hào hùng. Năm 1918, Quảng Đông viết bài thơ “Tây du ký” (tên cũ là “Nhớ phương Tây”), bày tỏ nỗi nhớ thương những năm tháng chiến tranh gian khổ mà hào hùng, ác liệt và nồng nàn.
Khi miêu tả chân dung người lính, Quang Dũng đã sử dụng những chi tiết, hình ảnh có thật về quân Tây, nhưng những hình ảnh này được miêu tả theo phong cách lãng mạn để làm nổi bật tài năng phi thường của họ và để người đọc cảm nhận được một giai đoạn lịch sử hiếm có. binh lính. .Bài thơ được viết theo mạch cảm xúc của nỗi nhớ nên mở đầu bằng những dòng bộc lộ nỗi nhớ.
<3
Hình tượng Giang Hà anh hùng ở đầu bài thơ như hé lộ cho người đọc thấy những chiến công anh dũng của Tây quân. Trên đường viễn chinh, những người lính phương Tây đã được Mahe tháp tùng, vì vậy những bài thơ tiếng Quảng Đông bắt đầu được đặt tên một cách tự nhiên là “Mahe”. Lời thơ như tiếng gọi thê lương, tận thế như người bên cạnh, nỗi nhớ thường trực. Ở chính giữa khổ thơ thứ hai, từ “nhớ” được sử dụng, ngắt 4/3 ở giữa thể hiện một cách tinh tế tiếng khóc thương, nhớ nhung, nhớ mong của tác giả. Đặc biệt, trong ba từ “nhớ chơi” thì từ “chơi” khiến người đọc có cảm giác đi xuyên không gian, ăn sâu vào lòng người một chút gì đó chống chế, một chút hụt hẫng, một nỗi nhớ nhung da diết. Miền Tây tưởng như xa xôi mà lại gần trong tầm tay, nhẹ nhàng mà ám ảnh, không những thế, người đọc còn nghe được tiếng “nhớ” trong hai chữ “nhớ chơi bời”. Ở phương Tây, những câu thơ có vần “Ôi” tạo cảm xúc dịu dàng, nhẹ nhàng, nỗi nhớ ở đây như sợi tơ tình quấn vào lòng người, được nhà thơ cụ thể hóa nỗi nhớ.
Sai Pan xuất hiện trong đêm và mệt mỏi trở về Huajun
sài khao, mường lấp địa danh trở nên gần gũi đến lạ lùng trong nỗi nhớ của quang dũng, viết về hình ảnh đoàn quân mòn mỏi “quang dũng thêm vào đó những hình ảnh “sương mù”, “hoa về”, “đêm chạng vạng”. rõ ràng ở đây chủ nghĩa hiện thực gắn liền với chủ nghĩa lãng mạn, tạo nên một bức tranh phương Tây độc đáo.
Trong hoài niệm của nhà thơ, hình ảnh miền Tây hiện lên đầy mộng ảo, nên thơ, đậm chất lãng mạn, cảnh núi rừng hành quân ở miền Tây vừa nên thơ vừa hùng vĩ. .Trong nỗi nhớ, kí ức dường như tươi mới, nhà thơ nhớ lại khung cảnh một thời khốn khó:
Trượt đèo dốc, hút rượu ngửi trời
Hai câu thơ giàu giá trị làm cảnh đã miêu tả những gian khổ của những người lính Tây Tiến một cách cụ thể và sinh động nhất. Khổ thơ đầu ngắt nhịp 4/3 và tập trung vào việc gieo trồng, gợi lên trong người đọc cảm giác thăng trầm hiểm nguy. Nhưng cái hay của bài thơ chính nằm ở hai chữ “vặn vẹo” và “sâu” cho người đọc cảm nhận được cảm giác về không gian rộng mở, cao, rộng, sâu, xa, cho người ta cảm giác sẻ chia. với người lính sự gian khổ, gian khổ Ở vế 2, từ “hút” được dùng rất hay, nó khác với hun hút, nếu như “hút hút” gợi chiều sâu, sức hút vô hạn thì từ hút không chỉ gợi chiều sâu. , nhưng nó cũng làm tăng thêm cảm giác hoang vắng, lạnh lẽo và cô đơn. Địa hình chiến trường của Xibing thực sự đầy gian khổ và nguy hiểm. “Trời” được sử dụng thật tài tình, hệt như hình ảnh “Đầu súng trăng treo” của người tả hữu bao trùm lên hình ảnh đó là một không gian tưởng tượng lãng mạn nhưng lại bắt nguồn từ hiện thực cuộc sống, xuất phát từ nhãn quan tinh tế và ngòi bút linh hoạt của nhà thơ. Hình ảnh ấy, diễn tả gian khổ nhưng ánh lên khí phách hiên ngang, tư thế kiêu hãnh của con người, ngoài ra nó còn thể hiện chút vui tươi, phong thái quân nhân trẻ trung, lãng mạn. không cảm thấy nhỏ bé, cô đơn mà khẳng định sự thống trị của mình, khẳng định bản lĩnh của các anh hùng, chiến sĩ và niềm lạc quan của con người.Không những vậy, hình ảnh một thời gian khó còn được thể hiện qua câu thơ:
Buổi chiều thác hùng vĩ gầm, đêm hổ gầm, hổ quyến rũ
Những cảnh “thác nước ầm ầm hùng vĩ” và “Mạnh Tây Hổ trêu người” là những ví dụ sinh động nhất về những gian khổ nguy hiểm mà những người lính phương Tây trải qua trong thời kỳ “buổi chiều”. “Đêm” trở thành một thời gian quy ước, in sâu vào tiềm thức của chính tác giả như một nỗi ám ảnh về thời gian phương Tây. Viết về gian khổ của người lính, ngòi bút của Quang Dũng cũng ghi lại những hình ảnh rất thực:
Người bạn luộm thuộm không đi nổi nữa, ngã vào họng súng và quên mình
Từ “nhờn” cho thấy sự vất vả của người lính. Tuy nhiên, từ “mưa phùn” vẫn khiến người đọc cảm nhận được sự phong trần của những người lính đang hành quân, hình ảnh của họ là thấp thoáng của những anh hùng một thời và những kẻ chinh phạt. Qua hai chữ “quên đời” ta thấy được bản lĩnh của người chiến sĩ tỏa sáng từ thực tế tưởng chừng khó khăn-hơi cẩu thả nhưng luôn là vật trang trí của người anh hùng, dù gian khổ, thậm chí hy sinh, họ vẫn coi những biểu hiện ấy là rất nhẹ. . Những người lính miền Tây hào hùng trong trận chiến, và đầy lãng mạn và nồng nàn khi nghỉ ngơi:
Doanh trại sáng đèn hoa khoe sắc, tôi luôn cài áo nằm nghe tiếng nhạc bẽn lẽn của nàng mục đồng xây hồn thơ
Họ đã bỏ lại bom đạn, gác lại những ưu phiền của chiến tranh, trong cuộc sống đời thường, những người lính miền tây hiện lên thật bình dị và nhân hậu. Dưới lăng kính lãng mạn của các nhà du hành vũ trụ trong đêm Hội Đuốc, bữa tiệc bỗng chốc biến thành lễ hội tưng bừng, có hoa rực rỡ, có rực rỡ chói lọi, có thảm họa nên thơ. Từ “gấu” được dùng nhuần nhuyễn, nó không chỉ là ánh đèn lóe lên, ngọn đuốc trong đêm mà là sự bùng nổ của niềm hân hoan, tự hào. Sự sống động của đêm hôm đó tập trung vào hình ảnh của cô em gái, như thể có vô số cặp mắt đổ dồn vào cô em, khiến cô không bao giờ mặc quần áo của chính mình” – một cảm giác sửng sốt, xúc động nhưng sau đó là ngây ngất, mê đắm, mê đắm, từ “siêm áo” tạo cảm giác trang trọng, hình ảnh người em gái như được làm đẹp thêm ở đây, tiệc tùng với người chị ấy đã lâu rồi, tự dưng tôi thấy rất lạ. tô đẹp khiến người đọc có cảm giác chị em này giống như tiên nữ bước ra từ truyện cổ tích, trong hiện thực phũ phàng, người ta gặp được hình ảnh huyền thoại, đó là màu sắc lãng mạn của câu chuyện, thêm hình ảnh âm nhạc vào bức tranh lễ hội đêm là một hình ảnh của Khan, nhịp thơ cũng là nhịp tim rạo rực say mê, điệu nhạc của tâm hồn như lan tỏa từng câu chữ, chuyện tình say và lính tây còn được gọi là một hình ảnh rất đẹp :
Nhớ khi nào nếp thơm hương khói Mai Châu
Hình ảnh hạt gạo bốc khói, hương vị gạo nếp nồng ấm, nghiêm trang dường như quyện chặt vào tâm hồn người phương xa. Những câu thơ chủ yếu là phát thanh, tạo cảm giác nhẹ nhàng, một chút hoài niệm, một chút lo lắng đủ khiến người ta nhớ về miền Tây với bao xúc cảm. quang dũng viết về thời say đắm ấy, những vần thơ rất tài hoa.
Nghìn thước cao, ngàn thước thấp có nhà mưa đằng xa
Khổ thơ đầu như bị đứt đôi, gợi tả bức màn rừng nguy hiểm phía tây. Khổ thơ thứ hai như một sự thư thái vô cùng nhẹ nhàng. Những câu thơ như đẩy tâm trí người đọc đến một thứ hoài niệm xa xăm trong tâm trí tác giả: tưởng thất thường, vu vơ nhưng lại luôn quẩn quanh trong lòng tác giả, khắc khoải. Cũng có những tiết tấu du dương rất rõ ràng thể hiện tính nhạc cao. Vì vậy, những người lính cũng là những nghệ sĩ. Cuộc sống kháng chiến chống Nhật không chỉ gian khổ mà còn đẹp đẽ, sáng ngời trong lòng người lính. Chính nếp sống ấy, lối sống đầy chất thơ và mộng mơ ấy đã xua tan đi những mệt mỏi, gian khổ của cuộc đời chiến đấu của người lính. Tiếp đó, mạch cảm xúc chuyển từ giọng sôi nổi sang trầm lắng, bâng khuâng, đượm chút hoài niệm:
Ai đến Châu Mục chiều sương mù ấy thấy hồn lau bờ, hình người trên gò bồng bềnh trong nước, hoa lay động
Nỗi nhớ của tác giả bắt đầu bằng hình ảnh “buổi chiều sương mù ấy”, không gian như bị bao trùm bởi một nỗi buồn vô bờ bến. Từ “ấy” mang ý nghĩa định vị không gian, như muốn đẩy nỗi nhớ về một nơi rất xa, để người đọc cảm nhận được sự xa xăm của nỗi nhớ. Đường nét gợi nhiều hơn tả, những hình ảnh gợi không phải là hình ảnh của những chi tiết cụ thể mà là những hình khối, hình dung mơ hồ, khó nắm bắt. Nhà thơ dường như không miêu tả cảnh tượng mà chỉ nhớ lại linh hồn của nó, hay đúng hơn là cảnh tượng được nhìn qua lăng kính của nỗi nhớ, mờ ảo, mịt mờ, hư ảo. Không phải tả dài mà là “hồn sậy”, cũng không phải tả người mà là “xác”, người đọc cảm nhận được một không gian vắng lặng, hoang sơ, đượm nỗi buồn vô tận. có nhớ”, đây không chỉ là một câu hỏi mà hơn thế như một lời nhắc nhở, một lời nhắn nhủ trìu mến, thân thương. Nó đã trở thành một hình ảnh đọng lại trong sâu thẳm tâm hồn tác giả, để nỗi nhớ ấy như một nét chấm phá của cảm xúc, đặc biệt , “đã thấy”, “nhớ” và các cụm từ khác cũng là một sự thay đổi về giác quan, không chỉ là vẻ bề ngoài mà còn là tâm hồn và trái tim được đánh thức. So với hình ảnh “hoa đung đưa”: một bên dữ dội, dữ dội, một bên bên nhẹ nhàng, mềm mại Có lẽ hình ảnh “Đang cắm hoa” không còn là hình ảnh hiện thực nữa mà đã trở thành hình ảnh diễn tả tâm trạng, cảm xúc của tác giả. miêu tả hình dáng và hành động giống như nhân vật “Đặng”, Và nó tràn đầy tình yêu, nhưng cũng là sự sóng gió của đôi mắt đầy hoài niệm. Khái niệm đầy đam mê, đầy chất lượng và sắc thái lãng mạn và phong cách nghệ thuật độc đáo. Đọc tây , ta như được thăm lại đội quân lẫy lừng đã được ghi vào lịch sử Một thời khói lửa, khi khắc họa hình ảnh những người lính, nhà thơ đã sử dụng những chi tiết, hình ảnh thực về quân Tây nhưng miêu tả bằng bút pháp lãng mạn để làm nổi bật sự phi thường của họ. tài năng và mang đến cho người đọc những cảm xúc thẩm mỹ độc đáo, hiếm có về người lính trong các thời kỳ lịch sử. :
Tây quân không mọc tóc, quân xanh dữ tợn
Nhà thơ quang dũng đã đặt cho đội quân của mình một cái tên thú vị là “đội quân không tóc”. Thật buồn cười khi những người đó biến những thực tế khó khăn và khắc nghiệt thành niềm tự hào. Nhà thơ Phạm Tiến Duật cũng đặt tên cho đội mình là “Tiểu đội đeo kính” xuất phát từ thực tế khắc nghiệt đói nghèo, từ đó ta thấy được tinh thần lạc quan, tự trọng, phẩm chất quân nhân hóm hỉnh, hóm hỉnh. Một mặt là không quản ngại gian khổ, khó khăn, mặt khác là sự anh dũng của người chiến sĩ. Ba chữ “dũng” tạo nên âm hưởng hùng tráng, hùng tráng cho bài thơ, cho người đọc cảm nhận được khí phách của người chiến sĩ trên chiến trường.Bài thơ có nhịp điệu mạnh mẽ, đậm chất cá nhân.Người lính miền Tây cũng là những người có nhiều ước mơ và những hoài bão.Hình ảnh người lính trong chiến tranh được miêu tả chân thực. hông:
Đôi mắt tuyệt vời gửi ước mơ xuyên biên giới Hà Nội Mạnh Diệp Phương Hoa
Cả hai câu đều nhấn mạnh từ “ước mơ” và “ước mơ”. . .”Nhìn chằm chằm” chỉ một động tác mạnh mẽ, nhưng không phải là trừng phạt hay đe dọa, mà là một cái nhìn đau đớn, kiên cường, thể hiện sự khao khát, khao khát. Từ “mơ” làm cho tứ thơ như trùng xuống, chất chứa một nỗi niềm man mác. Những dòng của Quang Dũng làm người đọc nhớ đến những dòng của Nguyễn Đình Thi: “Đêm dài, hành quân dữ dội – chợt nhớ mắt người yêu. Nỗi nhớ người yêu về một “tuyệt sắc giai nhân” thật bình dị, giản dị mà cao cả càng làm cho hình ảnh người lính thêm phần cao thượng. gần gũi hơn.Sức mạnh, ý chí quyết chiến và quyết thắng như một học sinh Hà Nội tuổi còn trẻ bỏ ghế nhà trường đi chiến đấu-những con người “tay mềm cầm bút”.
Lính sống anh hùng, chết anh hùng:
Bên mộ Tam Sa Trường không tiếc tuổi trẻ không tiếc áo cơm đổi lấy đất đai Mahe ca hát một mình rống lên
Điều độc đáo là khi viết về sự ra đi của họ, nhà thơ đã không tô đậm nỗi điêu tàn bị làm nô lệ cho hận thù mà nhấn mạnh đến lòng dũng cảm, khí phách anh hùng của người anh hùng. Sau những câu thơ rắn rỏi, đẹp đẽ đến đây, giọng điệu các câu thơ bỗng trầm bổng, trùng xuống, như một thước phim quay chậm.
Không có gì thiêng liêng, cao quý hơn sự hy sinh, chấp nhận gian khổ của người lính. Trong cuộc hành quân, những người lính miền tây bắt gặp những ngôi mộ của nhiều người đã hy sinh ở phương xa. Nhưng những người lính của chúng tôi đã bình tĩnh theo dõi vì họ đã chấp nhận. Nếu câu đầu in đậm chữ bi thì câu thứ hai in đậm chữ “trương”, “hung”. Câu thứ hai như một cái gật đầu đầy tự hào của những người lính miền Tây: Dù khó khăn, sống chết, chiến sĩ miền Tây vẫn kiên cường, dũng cảm và anh dũng. Tác giả mượn hình ảnh “áo bào” để miêu tả cảnh người lính ra đi. Đặc biệt, nó còn gắn với hình ảnh thiêng liêng, tạo sắc thái trang trọng làm giảm đi nỗi buồn đau. Nó tạo nên một hình ảnh rất cảm động, cũng như sự đồng cảm của tác giả đối với những người lính miền Tây. Hình ảnh Ma He xuất hiện trong phần tiếp theo – nhân chứng của lịch sử. Ma He đã chơi “Hành khúc độc thân” – một bài hát cô đơn và buồn bã. Từ “rầm” – một đoạn nhân hóa, một nỗi niềm tiếc thương cho lòng người, dường như là một nỗi nhớ sông, hay một câu hò mà dòng sông mang nỗi đau của con người. “Ông về với đất” là hiện thân của vị khai quốc công thần đã làm tròn bổn phận vẻ vang của mình. Tiếng rống của Ma He như hàng loạt đại bác rơi xuống, tiễn biệt đứa con yêu dấu của nòi giống này. Cuối cùng, sau khi nhớ lại những bức ảnh chụp đoàn quân phương Tây nồng nàn và lãng mạn đang hành quân về phía trước, Guangyong bày tỏ mong muốn được gặp lại phương Tây:
Đi tây đi tây, người đi không hẹn trước. Đường nứt sâu, tây đi xuân hồn không về
Câu thơ trở về với mạch cảm xúc chung của thơ, hoài niệm mà vẫn có âm hưởng xúc động. Bài thơ nói về sự chia tay, về sự xa cách, tiếc nuối nhưng đầy dũng khí và quyết tâm. Khoảng cách càng xa thì nỗi nhớ càng da diết, bởi vì xa cách rồi chúng ta sẽ không bao giờ gặp lại nhau nữa. Người đọc cảm thấy cái nồi hoài niệm như cái nồi đầy thơ. Ở hai dòng cuối, giọng điệu và vòng cảm xúc chuyển hướng: câu thơ như một lời mời gọi, một lời nhắn nhủ, một lời hẹn ước tình cảm chân thành. Đây là điểm hẹn gặp gỡ miền Tây vào mùa xuân – mùa xuân sum họp, mùa xuân chiến thắng. Điều này chứng tỏ tác giả mong ngày quân về tây là ngày toàn thắng. Câu thơ kết vang lên kiêu hãnh như một lời thề, một lời hứa quyết tâm. Từ nỗi nhớ quân, nhớ người cụ thể, đến nỗi nhớ một mảnh đất, một quê hương, Tây Du Ký đã trở thành một nỗi nhớ và tình yêu Quảng Đông nồng nàn.
Các nhà phê bình Phong Lan nhận xét: “Tây tiến là tượng đài bất tử của người chiến sĩ vô danh”—bất tử với vẻ đẹp hoành tráng, hào hùng và bi tráng. Vì vậy, những người lính Tây du qua bài thơ cùng tên của Quảng Đông sẽ sống mãi trên đời.
Bài văn mẫu 2
Trong nền văn học dân tộc, thơ ca cách mạng Việt Nam luôn được coi là một kho tàng quý giá của đất nước bởi chúng phản ánh lịch sử đấu tranh hào hùng của đất nước và dân tộc Việt Nam qua một thời kỳ. Đặc biệt trong thời kỳ kháng chiến chống Nhật, những bài thơ lấy cảm hứng từ lòng yêu nước đã tạo nên những bức tượng vĩ đại về những anh hùng, chiến sĩ của “những viên đá của thế kỷ XX”. Hình ảnh Bộ đội Cụ Hồ đã trở thành hình ảnh đẹp đẽ, đáng tự hào nhất trong các bài thơ thời chống Pháp. Họ là những người có lý tưởng, sẵn sàng vẽ nên lá cờ Tổ quốc bằng máu của mình, đồng thời cũng đầy tâm hồn lãng mạn và hào hoa. Ta có thể thấy rõ hình ảnh người lính trong bài thơ “Tây tiến” của Quảng Đông tiêu biểu nhất trong các bài thơ chống Pháp nói chung.
“Hướng Tây” là tên gọi của một đơn vị quân đội được thành lập vào những năm 1947-1947, trùng với thời kỳ chống thực dân Pháp vô cùng gian khổ của những ngày đầu chống Pháp. Lính Tây hầu hết là thanh niên Hà Nội, trong đó có nhiều sinh viên và trí thức trẻ. Lực lượng này hoạt động chủ yếu ở vùng rừng núi từ Tây Bắc Lào đến Thượng Lào, có nhiệm vụ bảo vệ biên giới Việt Lào và phối hợp với quân đội Lào tiêu diệt quân Pháp. Cuộc sống cơ cực nghèo khó nhưng khí chất anh hùng, lãng mạn của những người lính Tây Tiến vẫn được bộc lộ trọn vẹn. Bài thơ này được viết vào cuối năm 1948, không lâu sau khi Quảng Đông xuất quân, ban đầu nó có tên là “Taitian của tôi”, sau đổi thành “Taitian”. Bài thơ thể hiện lòng ngưỡng mộ các nghĩa sĩ chống Pháp qua nỗi nhớ về cảnh vật và con người miền Tây, ca ngợi một thời kỳ hào hùng và gian khổ trong lịch sử dân tộc. Nỗi nhớ này xuyên suốt cả ba khổ thơ và bốn dòng cuối của bài thơ.
Trước hết, trong khổ thơ đầu tiên của bài thơ này, Quang Dũng bày tỏ nỗi nhớ Tây quân. Qua nỗi nhớ ấy ta thấy được hình ảnh bi tráng thể hiện vẻ đẹp của những người anh hùng Tây tiến. Chuyển tiếp:
Mahe còn rất xa, hãy đi xa hơn về phía tây! Đừng quên núi rừng, đừng quên chơi Lulu, lấp đầy đội quân mệt mỏi bằng hoa đêm.
Nỗi nhớ bắt đầu từ tiếng gọi từ phương Tây. Tiếng gọi ấy nghe thật tha thiết, như vang vọng trong không gian Ma Heo, trở về miền kí ức xưa. Một thời, bom đạn ấy để lại nỗi ám ảnh khôn nguôi đối với những người trực tiếp tham chiến. Cách mỗi dòng kết thúc bằng vần làm cho các dòng càng vang vọng hơn vào ban đêm: “Ồ vâng, một chút”. Như hơi thở mệt nhọc của người lính Tây Phương sau một ngày hành quân. Hai địa danh Sài khao và Mường Lát dường như khắc sâu trong nỗi nhớ của tác giả. Hai địa danh này gắn liền với hành trình tiến quân của các đoàn quân. “Đêm hơi” gợi cho người đọc bao điều kì thú, đêm hơi có thể là đêm đầy sương, đêm hơi cũng có thể là đêm hơi lạnh nơi rừng sâu, nhưng cũng có thể là đêm hành động nhẹ nhàng. Ánh đèn của binh đoàn Tây Tiến và sương mù trong đêm xung trận đều thể hiện sự gian khổ, vất vả của đoàn quân. Những gian khổ của cuộc trở về Tây quân trở nên đẹp và nên thơ trong thơ Quảng Đông. Đó là những gian truân mà người lính phải trải qua, và chính những gian truân đó đã làm toát lên vẻ đẹp bi tráng của họ… Sườn đồi dốc đứng thoạt nhìn đã thấy ngượng ngùng, những lời ý tứ trong bài thơ càng làm cho người ta cảm thấy dễ chịu hơn. Khói từ sườn đồi ngày càng trở nên nguy hiểm.
Trèo lên khúc cua dốc, hít mây, súng ngửi trời cây số, dưới nhà ai cây số, mưa tuôn rơi đằng xa
Chi tiết, hình tượng thơ của tác giả thật ấn tượng. Một màn sương mù dày đặc dường như bao trùm toàn bộ đội quân, mưa như trút nước, những ngôi nhà như lênh đênh giữa biển. Nhiều câu thơ sử dụng hàng loạt điệp âm như “thơ”, “qu”, “sâu” để bộc lộ những gập ghềnh, thăm thẳm, khúc khuỷu, gập ghềnh của đường hành quân. Những độ cao và độ sâu này, được đo bằng hàng ngàn feet, nhấn mạnh những khó khăn mà quân đội phải vượt qua. Thứ hai là từ ngữ rất táo bạo, đặc biệt là ba chữ “Súng ngửi trời” khiến người ta lóa mắt.
Hai câu sau có sự hài hòa rất độc đáo. Điệp từ “Nghìn thước” là một thủ pháp nghệ thuật ước lệ, miêu tả vẻ đẹp hùng vĩ, chênh vênh, đến ngỡ ngàng của núi rừng miền Tây. Từ ám chỉ “Tiền nguyên” trong hai câu tương đồng, tính chất tương phản của động từ “lên xuống” khiến bài thơ có cảm giác gấp khúc đột ngột, mạnh mẽ, cũng là cách miêu tả tài năng của nhà thơ. Dốc thì thăm thẳm, vực sâu thăm thẳm: đường lên núi bên này dốc đứng, cao chót vót, bên kia vách núi dựng đứng, hiểm trở. Cả hai bài thơ đều đặc biệt phong phú về hình thức và cách diễn đạt, đều trực tiếp hoặc gián tiếp miêu tả Xipo, nhưng đều đồng thời miêu tả sự nguy hiểm và vẻ đẹp hùng vĩ. Qua những bức tranh về thiên nhiên ta thấy được vẻ đẹp tâm hồn của những người lính Tây Tiến: họ lạc quan, mạnh mẽ, coi thường mọi khó khăn trở ngại, những thử thách của thiên nhiên càng làm cho ý chí, sức mạnh, tâm hồn tươi trẻ và bản lĩnh nghệ thuật của họ thêm rõ nét. Sau câu thơ nói về sự nguy hiểm của sườn đồi, câu thơ tả cơn mưa không ngớt trong bảy thanh rơi xuống, kèm theo nhiều âm tiết mở đầu. Đoạn thơ diễn tả không gian bao la, trải rộng, mờ ảo trong mưa “nhà ai phương xa mưa rơi”. Đường nét rộng mở vô biên, lời thơ như bay. Tôi có thể hình dung một người lính leo lên cồn cát, một hôm, dừng lại bên triền đồi, nhìn ra xa, mắt người lính xa xăm, nhìn những ngôi nhà thấp thoáng, thấp thoáng, ẩn hiện trong màn mưa hư ảo. … Tinh tế Sự khác biệt giữa họ chỉ khiến cụm từ “con nhà ai” trở nên mờ nhạt và xa cách. Sắc thái đáng ngờ làm tăng mối quan tâm. Cả bài thơ chỉ có tiếng “quê”, mang âm hưởng huyền bí, như một khoảnh khắc tĩnh lặng, một suy tư để rồi, tất cả những âm thanh ấy đều chơi vơi không chút hoài niệm. Trong mưa rừng lạnh giá, trong bạt ngàn núi rừng, ở những địa danh xa lạ như Sai Kao, Meng La, Meng Xi, Pa Liang… càng tôn thêm vẻ hoang sơ, kỳ vĩ và bí ẩn của chốn rừng thiêng. Hình ảnh ngôi nhà gợi cảm giác ấm cúng, hoài niệm dễ làm xao xuyến lòng người xa quê. Chúng không chỉ kể về những vùng đất bộ đội đã đi qua, mà còn kể về những lúc “đọc đã mỏi chân” (Trần Lê Văn).
Núi rừng miền Tây tiếp tục vẽ nên một bức tranh ấn tượng:
“Chiều thác hùng vĩ Đêm hổ gầm dân chơi”
“Thác hú” và “Hổ vồ” là hai hình ảnh nhân hóa, thể hiện vẻ hoang sơ kỳ bí, hoang sơ của núi rừng miền Tây. Phong cách đối lập của cảm hứng lãng mạn trong đối âm thể hiện rất tinh tế trong hai câu thơ này. Nếu câu trên có các âm “thác”, “gào” nhưng ở cao độ thì câu dưới có các âm “hừ”, “hổ” cũng có thanh điệu nhưng ở giọng trầm. Dấu sắc ở câu trước có thể thấy như gợi tiếng thác dữ dội trong vòm sâu, dấu nặng liên tiếp ở câu thơ sau như tiếng bước chân nặng nề của thú dữ, gợi sự đe dọa u tối, bí hiểm nơi núi rừng u tối. . “Chiều” và “đêm” là những trạng ngữ chỉ thời gian tuần hoàn, trường tồn, vĩnh cửu. Thiên nhiên khủng khiếp cai trị núi rừng miền Tây không phải một chiều, một sớm một chiều, mà “chiều đến tối” – muôn đời thống trị! Nhưng nó cũng làm cho chân dung của những người lính phương Tây trở nên anh hùng và mạnh mẽ hơn: họ hành quân qua những vùng đất hoang vu, hung dữ, không có người ở, tưởng chừng chẳng có gì khác ngoài những vương quốc. Ta ngậm mây trời, rừng thiêng nước độc, mảnh đất ấy giờ in dấu chân các chiến sĩ Tây Tiến anh dũng.
Những gian khổ, gian khổ và vẻ đẹp của những người lính hành quân về phía Tây ít nhiều được thể hiện trong những bài thơ tả cảnh thiên nhiên miền Tây và Tây Du Ký, bên cạnh đó cũng có những bài thơ miêu tả trực tiếp hình ảnh, kỉ niệm của người lính. những người lính đang hành quân. Đầu tiên, Quang Brave bị ấn tượng bởi hình ảnh Tây quân hành quân:
“Đừng dẫm lên dầu nữa, đổ lên mõm đi, quên đi! Nhớ, tranh thủ mùa nếp, nấu tiếp”
Từ “dầu lụa mưa phùn” đã nói lên những gian nan, vất vả của anh em trong cuộc viễn chinh miền Tây, băng qua bao núi, vực thẳm, thác ghềnh, nắng mưa, gió tây. Hai dòng này đọc lên như một bức ký họa ấn tượng về người lính Tây. Sự hồn nhiên của người lính thể hiện ở giây phút kiệt sức, ngủ quên trên ba lô, bỏ lại sau lưng bao gian khổ, hiểm nguy của cuộc trường kỳ kháng chiến. Hình ảnh người lính tựa súng, đầu đội nón mỡ, không còn bước đi là một hình ảnh đẹp. Bài thơ này là để giảm bớt cái chết và sự hy sinh của những người lính đó. Đó là vẻ đẹp của một tấn bi kịch, sự hy sinh khác mất mát, nhưng trong tấn bi kịch ấy ta thấy được sự cao cả vô hạn. Họ có thể hy sinh, nhưng trong trạng thái rất thảnh thơi, ký ức về sự ở lại mòn mỏi “quên đời”, ký ức về những chiều đêm cùng tiếng thú gầm, nhớ về đêm mùa nếp nương Mai Châu.
Ở những câu thơ tiếp theo, người lính mang dáng vẻ hồn nhiên, ngây thơ và đời sống tinh thần của anh cũng vô cùng tươi vui, lạc quan, hình ảnh ngày hội thường nhật, cùng với cô gái chăn mền xinh đẹp, duyên dáng mang vẻ đẹp quân nhân thân thiện. Những chiến sĩ bất chấp gian khổ, hiện lên với vẻ đẹp oai hùng, hút hồn.
Doanh trại sáng đèn hoa khoe sắc, tôi luôn cài áo nằm nghe tiếng nhạc bẽn lẽn của nàng mục đồng xây hồn thơ
“Doanh trại” là nơi đóng quân của Tây quân, đồng thời cũng là nơi diễn ra các lễ hội văn hóa đậm đà tình quân dân. Đồng bào các dân tộc tập trung về đây để góp phần cổ vũ tinh thần cho Tây quân. Từ “thịnh vượng” gợi cảm giác ấm áp, niềm vui lây lan. Một đêm trong rừng trở thành một đêm lễ hội. Đuốc tre, đuốc chà bông trở thành “đuốc hoa” (“đuốc hoa” là hoa chúc – nến thắp trong nhà mới đêm tân hôn). Ở đây, “đuốc hoa” mang ý nghĩa gợi không khí ấm áp, gợi niềm vui, niềm hạnh phúc trong lòng người chiến binh. “Ngọn lửa” có nghĩa là ánh sáng đuốc hoa, lửa trại rực rỡ, còn có nghĩa là tưng bừng tiếng kèn, tiếng ca, tiếng cười nói. Có thể hình dung cái đêm mà Kwang Yong viết ở trên là một đám cưới tập thể. Từ “Nhìn” ở vế thứ hai diễn tả sự ngạc nhiên, sửng sốt của lính Tây trước vẻ đẹp của cô gái vùng cao trong “váy” lộng lẫy và dáng vẻ “e lệ” của một cô gái còn rất trẻ. Quang dũng thấy cô gái này xinh đẹp, vừa yêu vừa ghen tị. Yêu cơ thể và quần áo. Chính những bộ trang phục truyền thống mang đậm bản sắc văn hóa của những cô gái Tây Bắc càng làm nổi bật vẻ đẹp của họ. Quang dũng không khỏi ngẩn ngơ trước vẻ đẹp ấy. Bạn trở thành cốt lõi của bức tranh với vẻ đẹp kỳ lạ. Những cô gái Mơn, Thái, Lào xinh đẹp, duyên dáng xuất hiện trong những bộ trang phục lộng lẫy. Cũng có thể hiểu là anh bộ đội hóa trang thành một cô gái trong bộ quốc phục rất độc đáo để tạo tiếng cười cho đêm văn nghệ.
Điều ngạc nhiên hơn nữa là tiếng kèn của “tiếng người”. Tần là một loại nhạc cụ của các dân tộc thiểu số ở Tây Bắc Trung Quốc, và “man điệu” là một loại nhạc “dị” đặc trưng trong văn hóa dân tộc nơi đây. Cùng với tiếng hát say sưa, điệu múa mê hồn của các cô gái Lào đã “xây hồn thơ” trong lòng các chiến sĩ trẻ. Chính sự khác lạ này đã làm say đắm trái tim của những chàng trai Tây hào hoa đến từ Hà Nội. Chính trong không khí âm nhạc và vũ điệu ấy đã chắp cánh cho tâm hồn những người lính miền tây thăng hoa, mọi mệt mỏi dường như bị đẩy lùi, chỉ còn lại lòng yêu đời, yêu nước. Thế là mọi mệt mỏi, mọi đau khổ đều tan biến. Ngược lại, sự lạc quan, yêu đời càng khiến họ mạnh mẽ hơn trên con đường “xây hồn thơ mục tử”. Qua đó, ta thấy được rằng ngay cả trong những giờ phút vui vẻ, thoải mái nhất của những người lính ta, tâm hồn họ luôn hướng về lý tưởng cách mạng cao cả, cao đẹp.
Bốn câu cuối tả cảnh chia tay trên nền sông nước Tây Bắc vừa thực vừa mộng, hoang vắng, vắng lặng và thơ mộng. Bốn câu đều là phong cảnh Tây Bắc đẹp mê hồn :
Xem Thêm: Tập làm văn lớp 4: Tả con mèo (Dàn ý 32 Mẫu) Hãy tả con mèo mà em yêu thích
Ai về Châu Mục chiều sương mù ấy, có thấy hồn lau bến bờ, có còn nhớ dáng người trên cây cô đơn, nước chảy hoa rung?
So với không khí đêm hội được miêu tả ở bốn câu thơ trên với ánh đèn lấp lánh và tâm hồn trẻ trung, yêu đời của những người lính miền Tây, thì ở bốn câu thơ tiếp theo, người đọc quang dũng đến với hình ảnh sương chiều, con người và núi rừng Tây Bắc. Một không gian khói bụi như trong mơ hiện ra như thế này đây. Tây Bắc tự nhiên hiện ra phương hướng. Sự dữ dội, hung dữ được đẩy lùi, thay vào đó là những hình ảnh dịu dàng, thơ mộng. Đầu tiên là hình ảnh giọt sương buổi chiều thể hiện nét phong trần vốn có của núi rừng nơi đây. Nhưng sương ở đây không phải là che, không phải là che, không phải là sương mà là kiểu “người đi rừng chiều về”. Nó gợi lên những gam màu của bảng màu, nỗi buồn của khói lam chiều. Đại từ “ấy” làm rõ nghĩa của từ chiều sương, nhấn mạnh đây là một buổi chiều sương rất đặc biệt, và buổi chiều sương trong nỗi nhớ đã trở thành kỉ niệm nên tình trên đời cũng mong manh, lưu luyến!
Không gian thơ mộng làm nền cho sự xuất hiện của nhà thơ: trong hình ảnh thiên nhiên Tây Bắc sinh động, lãng mạn, hình ảnh con người nơi đây hiện lên trong vẻ đẹp khỏe khoắn, bất khuất, kiên trung: ”Nhớ con số trên một cây”. Cụm từ “thấy-nhớ” có sức hấp dẫn như khắc ghi nỗi nhớ da diết, da diết trong lòng người. Hình ảnh trên cây đòn gánh ở đây có thể là hình ảnh người con gái Thái mềm mại, uyển chuyển và chú mèo cõng người lính trên lưng. .Cũng có thể hiểu là bóng dáng đầy kiêu hãnh của người lính Tây Phương chèo thuyền vượt sông, vượt thác, dũng mãnh tiến lên.Tất cả những hình ảnh ấy đều để lại trong lòng người Quảng Đông một ấn tượng khó phai.Thiên nhiên Tây Bắc nổi tiếng với những Sông Mã chất chứa biết bao hung bạo Ở đây sông Mã hiện ra nhẹ nhàng lạ lùng Cánh hoa trong rừng không “lấp ló” Mà là “lắc lư theo nước hoa” Từ “lung đưa” rất cảm động: cánh hoa rừng cũng gắn bó với người, cánh hoa dại như vẫy gọi người chiến sĩ đưa họ qua sông giết giặc.
Sự bền bỉ của họ làm cho ý chí, quyết tâm của người lính không bao giờ phai nhạt dù gian khổ, gian khổ bộ đội có tác động tiêu cực đến thân thể của bộ đội nhưng chính tinh thần của bộ đội miền Tây thì không hề phai nhạt.
“Tây quân không mọc tóc, quân hàm xanh oai phong, mắt đưa mộng qua biên giới. Đêm mơ Hà Nội”
Không chỉ những khó khăn trên chiến trường mà cả những câu chuyện về bệnh tật, thời tiết xấu cũng được Quang Dũng đưa vào thơ. Không còn bí bách, thiếu thốn hay bệnh tật như sốt rét. Người chính trực trong bài thơ “Đồng chí” tả trực diện căn bệnh:
“Anh và em biết mỗi khi anh cảm, sốt, vã mồ hôi trán”
Căn bệnh khủng khiếp khiến cả quân đội rụng hết tóc được các chiến binh miền Tây thật thà sử dụng, dù gặp muôn vàn khó khăn nhưng tinh thần chiến đấu của họ vẫn không hề suy giảm. Hình ảnh Quân xanh gầy gò nhưng không yếu ớt mà vẫn dữ dằn. Đôi mắt sắc lẹm gợi cho ta nhớ đến lòng căm thù giặc của các anh hùng phương Tây. Trong mắt có ngọn lửa hi vọng cùng tinh thần chiến đấu anh dũng, không có chút nào phản bội số mệnh, có thể là bởi vì nơi biên cương lo lắng, hoặc là tỉnh táo không ngủ được mở mắt ra nghĩ tới bóng người. Hải ngoại. Những người lính đã hy sinh, phần lớn là trí thức, ngày đêm nhớ quê hương, trong tim một bóng hồng không bao giờ phai. Đó là cẩm thạch của vẻ đẹp quân sự. Nhưng nó rất đẹp, vì người ta chết cho lý tưởng cao cả, và đó là cái chết đẹp. Sự ra đi của bạn không phải là điềm báo trước mà được ví như sự ra đi của một người được kính trọng và biết ơn. Áo choàng được thay bằng đệm, thể hiện sự giản dị của người lính. Chiến trường tàn khốc khiến anh ra đi chỉ với một chiếc chiếu. Tổ quốc là nơi con sinh ra và cũng là nơi con trở về, Tổ quốc sẽ luôn canh giữ con trong giấc ngủ vĩnh hằng. Hình ảnh Mã He lại hiện lên, gầm rống hành khúc, như tiễn đưa hồn bạn, đây không phải là chơi mà là rống, càng tạo thêm chất riêng cho thơ.
“Tây tiến” được đánh giá là một bài thơ xuất sắc, gần như đạt đến sự hoàn mỹ về nghệ thuật. Lối viết hiện thực kết hợp lãng mạn, kịch tính và sáng tạo trong hình ảnh, ngôn ngữ, giọng điệu. Hình ảnh thơ sáng tạo giàu sắc thái thẩm mỹ. Ngôn ngữ thơ đa sắc thái, phong cách; (trang trọng, cổ kính; sinh động, gợi hình, gợi cảm…), với những kết hợp điệp ngữ độc đáo (có nhớ chơi, Mai Châu vào mùa bạn…), địa danh cụ thể, xác thực. Ba nhóm thơ là giọng tha thiết, giọng hồn nhiên vui tươi, giọng buồn, giọng trang trọng và giọng trầm lắng. Cả bài thơ là nỗi nhớ của nhà thơ đối với đơn vị miền tây: nỗi nhớ về những gian khổ, thiếu thốn, hi sinh, mất mát trên suốt chặng đường nhưng đọng lại bao kỉ niệm đẹp, thú vị, ấm áp; nỗi nhớ đồng đội miền Tây anh hùng. Như vậy, tác giả đã khắc họa thành công những người lính miền Tây anh dũng, hào hùng và vẻ đẹp nên thơ hùng vĩ của các nước miền Tây. Vì vậy, màu sắc lãng mạn pha chút bi tráng là nét đẹp độc đáo của hình tượng người chiến sĩ cách mạng trong thơ Quảng Đông.
Trong tác phẩm Hào kiệt ở Quảng Đông, hình ảnh người lính phương Tây vừa hiền lành vừa chất phác rất vui tai. Qua đây ta cũng thấy được vẻ đẹp bi tráng của những chiến binh Tây tiến, và cảm thấy mình yêu nhân dân, đất nước hơn. Bài thơ xứng đáng là một tượng đài ngôn ngữ làm bất tử chủ nghĩa anh hùng của người cựu chiến binh này trong cuộc kháng chiến chống Pháp gian khổ mà vui vẻ:
“Pháo hoa đi tây biên cương, đi qua muôn trùng hang đá, rừng cây, người ấy, thơ ấy trường tồn cùng cảnh vật”
Bài 3
Thơ Tây ra đời năm 1948, khi cuộc kháng chiến chống Pháp bước vào giai đoạn cam go và ác liệt nhất. Nhà thơ Quang Dũng bằng tài năng và tấm lòng của mình đối với những người đồng đội năm xưa đã khắc họa những nét chân thực nhất về hình ảnh những người lính Tây thời chống Pháp một cách hào hùng và bi tráng.
Tháng Ba Tây được thành lập năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới Việt Lào và đánh địch trên tuyến đường núi Tây Bắc giáp ranh giữa hai tỉnh Lai Châu và Thanh Hóa. Cuộc sống chiến đấu của những người lính miền Tây vô cùng khổ cực và thiếu thốn. Nguyên nhân chính là do núi rừng hiểm trở, rừng thiêng nước độc, sốt rét hoành hành, dược liệu khan hiếm. Lính phương Tây chết vì bệnh tật nhiều hơn là chết vì chiến trường.
Lính Tây hầu hết là thanh niên trí thức ở thành phố, đa số là học sinh, sinh viên còn đang ngồi trên ghế nhà trường. Dù phải chiến đấu trong một môi trường khắc nghiệt như vậy nhưng họ vẫn hiện lên trong một hình ảnh lãng mạn, nhưng rất hào hùng và bi tráng.
Nhan đề bài thơ nhấn mạnh tên đoàn quân, đồng thời thể hiện nỗi nhớ của nhà thơ về thời kỳ Kháng chiến ác liệt nhưng rất hào hùng.
Nhà thơ quang dũng đã khắc họa hình ảnh người lính Tây Tiến bằng những hình ảnh tỉ mỉ, vừa hiện thực vừa lãng mạn. Mạch cảm xúc của bài thơ là nỗi nhớ nên đầu bài thơ. . .
“Mahe đã xa, đi thêm về phía tây, nhớ núi rừng, nhớ rong chơi”.
Hình ảnh người anh hùng Hedian là hình ảnh đầu tiên trong kí ức của nhà thơ. Có lẽ, Ma He là người bạn đồng hành lâu dài của những người lính trên chiến trường. Những câu thơ như một tiếng gọi chân thành đọng lại trong tim, khoảng cách địa lý xa xôi cách trở luôn khiến người ta nhớ nhung da diết. Đoạn hai sử dụng nhiều nhất hai từ “nhớ” và “4/3”, thể hiện một cách tinh tế tiếng khóc, nỗi nhớ mong, nhớ nhung của tác giả. Nỗi nhớ “nhớ chơi vơi” lan tỏa theo thời gian và không gian, thấm vào lòng người một cảm giác trống vắng, vương vấn khó tả về quá khứ vinh quang. Các vần “ơi” được gieo vần tạo nên sự dịu dàng và nỗi nhớ da diết.
“Sài Long Lư nửa đêm điều binh mỏi mệt”.
Có thể thấy “sài không, mường lâm” là một địa danh thuộc tỉnh miền núi phía Bắc nơi quân Tây hành quân. Đoạn thơ này kết hợp chủ nghĩa lãng mạn và chủ nghĩa hiện thực. Tôi đã chán viết về Trường Chinh, nhưng không khí trong “Sương mù”, “Hoa hồi” và “Ánh đêm” vẫn rất lãng mạn.
Cảnh thiên nhiên của núi rừng Tây Bắc được nhà thơ Quảng Đông miêu tả bằng một hình ảnh rất lãng mạn, qua con mắt của những người lính phương Tây, trong sự trùng điệp của núi non trùng điệp, những vách đá hiểm trở. , nhưng theo quan điểm của người lính, một cảnh như vậy là quá buồn cười và buồn cười.
“Tựa một khúc quanh, dốc cao hun hút mây và hương trời”.
Hai câu thơ có sức khái quát cao đã diễn tả sinh động những gian khổ của người lính.Ba từ “xoắn quéo” gợi lên một không gian rộng mở nhiều chiều, một không gian đậm nét thiên nhiên. Tuyệt vời, nhưng trực tiếp đe dọa đến tính mạng. Chữ “ngọt” dùng rất hay, cúi đầu thì có ý sâu, ngẩng lên thì vắng vẻ. Tuy nhiên, chiến trường của quân đội phía Tây thực sự đầy gian khổ và nguy hiểm. Hình ảnh “Ngắm ngọn giáo” thật hóm hỉnh, vui tươi đọc thơ không khỏi khiến người ta nhớ đến bài thơ “Đầu súng trăng treo” của nhà thơ Chính Hữu trong tác phẩm “Đồng chí”. Đó là hình ảnh lãng mạn nhưng là hình ảnh hiện thực toàn vẹn, xuất phát từ nhãn quan tinh tế và khát vọng hòa bình của nhà thơ. Nhưng chỉ cần cụm từ “súng ngửi trời” cũng là một thứ khí phách hào hoa, giữa cánh đồng lạnh lẽo, hình ảnh người bị kiểm soát càng khẳng định bản lĩnh của người lính
“Chiều chiều thác nam gầm thét” ban đêm hổ dữ đùa giỡn người.
Có lẽ những câu thơ này diễn tả chân thực nhất nỗi gian khổ của những người lính Tây thời bấy giờ, nhất là những người lính thời chống Pháp. Những hình ảnh “Hổ chơi dân chơi” và “Thác nước Pentium” là những minh chứng chân thực nhất cho sự bền bỉ và hung dữ của các loài động vật trong tự nhiên.
“Người bạn cẩu thả không bao giờ giẫm súng quên mạng”.
Từ “nhờn” diễn tả nỗi vất vả của người lính. Cuộc hành quân dường như đều đặn, chậm hơn một chút. Qua hai chữ “quên đời” ta thấy hình ảnh và tinh thần của các anh đã hy sinh trên đường hành quân trong một sự thật đau thương nhất. Dù có kiệt quệ, hy sinh đến đâu, họ vẫn thấy đó là điều dễ dàng và bình yên.
Sau những chiến dịch gian khổ và những cuộc kháng chiến anh dũng chống quân xâm lược, những người lính miền Tây đã trở về với những lễ hội văn hóa đặc sắc.
“Doanh trại sáng trưng hoa nở Một khi em mặc vừa người Nàng chẳng dám nghe nhạc mục đồng xây hồn thơ”.
Sau một cuộc chiến cam go bằng súng và cocktail Molotov. Đau đớn, bệnh tật, cái chết bỏ mặc mọi thứ ập đến bất cứ lúc nào, và hình ảnh những người lính miền Tây lúc này thật gần gũi. Buổi tối được thắp sáng với niềm vui và sự phấn khích. Trại tràn ngập tiếng hát vui vẻ, và sự giao lưu giữa những người lính và người dân địa phương đến và đi. Từ “打” được dùng rất hay để diễn tả sự phấn khích. Đêm hôm đó, làm sao chúng tôi quên được hình ảnh cô gái vô cùng xinh đẹp và trang trọng trong bữa tiệc. Tâm trạng của những người lính như ngẩn ngơ trước vẻ đẹp lung linh của đêm hội, rồi thả hồn mình theo điệu múa, tiếng nhạc của ngày hội.
“Nhớ ta đi Mai Châu khói mùa hương nếp thơm”.
Hương vị gạo nếp đầu mùa đã thực sự trở thành kỷ niệm khó quên trong lòng người lính miền Tây. Những câu thơ gieo hạt bằng âm thanh, tạo nên một nỗi nhớ da diết, khó tả
Theo dòng cảm xúc hoài niệm, nhà thơ Quang Dũng viết:
Xem Thêm : Vô cảm: Thật đáng sợ!
“Cao ngàn thước, dưới ngàn thước nhà ai mưa xuống.”
Khi miêu tả núi rừng Tây Bắc, nhà thơ đã sử dụng từ “cây số” gợi cảm giác dựng đứng, như thể một tấc cũng chạm tới trời. Câu thứ hai như miêu tả trí tưởng tượng của những người lính mệt mỏi vì hành quân, đứng trên cao nhìn ra xa chỉ thấy từng lớp sương mù, đó là những ngôi nhà dân. Người lính như đã hóa thân thành người nghệ sĩ, thả hồn vào thiên nhạc và tâm hồn của chính mình. Cảm giác phiêu lưu, sự nhẹ nhàng sau một cuộc hành quân vất vả.
Vốn dĩ với tâm trạng nhẹ nhàng, lãng mạn, nhà thơ Quảng Đông bỗng chuyển sang giọng điệu trầm lắng, hoài cổ, hoài cổ.
“Ai đến Châu Mộc chiều sương mù ấy, có thấy hồn lau bờ bến, bóng người bồng bềnh trên mặt nước, hoa lay động?”
Hồi ức của nhà thơ bắt đầu bằng khung cảnh “buổi chiều đầy sương ấy”. Chiều bao giờ cũng gợi lên trong lòng người đọc những nỗi buồn man mác. Nỗi buồn ấy, có khi là nỗi nhớ nhà, nhớ người thân, có khi là sự vu vơ cuối ngày. Nhưng với nhà thơ đó là một sự trống vắng, một nỗi nhớ về một hình ảnh không định danh, mà đối với nhà thơ là “hồn của cây sậy”, còn “thân xác” của người đọc cảm nhận một không gian im lìm đượm buồn. Những từ ngữ “thấy thì nhớ” như lời nhắc nhở đầy yêu thương. Những hình ảnh phản cảm của “Lũ lụt” và “Hoa cỏ” một mặt bạo lực và mặt khác nhẹ nhàng. Nhà thơ sử dụng bút pháp lãng mạn và miêu tả để gợi lên nỗi nhớ về hình ảnh thiên nhiên của Mị Châu.
Để khắc họa hình ảnh người lính, nhà thơ đã sử dụng bút pháp lãng mạn để làm nổi bật hiện thực bi tráng, phi thường của một người lính điển hình miền Tây trong kháng chiến chống Pháp.
“Tây quân không mọc tóc, nhưng quân trẻ mà dũng mãnh.”
Đây có lẽ là sự thật trần trụi nhất mà nhà thơ quang dũng từng viết ra. Lính miền Tây tóc rụng, xanh xao vì sốt rét rừng tàn phá. . Bệnh tật là vậy, nhưng khí chất của họ vẫn có nét “dữ dội”, tạo nên một âm hưởng hùng tráng, là tinh thần chiến đấu của các sĩ phu chống Pháp thời bấy giờ.
<3
Đó là chủ nghĩa anh hùng, tâm hồn của người lính ở phía tây thật mơ mộng. Nếu sắp có chiến tranh vào ban ngày thì “nhìn chằm chằm” là cái nhìn trực diện, sâu sắc, thể hiện ý chí, quyết tâm bảo vệ đất nước. Đêm tàn sau chiến tranh, tâm hồn những người lính mơ về Hà Nội, nơi họ yêu nhất. Nỗi nhớ ấy như tiếp thêm sức mạnh và tinh thần chiến đấu. Đọc bài thơ này, tôi chợt nghĩ đến câu thơ của nhà thơ Nguyễn Đình Thi:
“Đêm dài hành quân, khắc khoải, khắc khoải, nhớ mắt người yêu”.
Nhà thơ lại viết về sự hy sinh, nhưng cái chết lần này anh dũng hơn,
“Rải rác bên mộ, xa chiến trường, không tiếc tuổi trẻ. Y phục không phản ảnh về với đất, hà mã một mình hót vang.”
Viết về nỗi đau của cái chết, nhưng không buồn bã, than thở mà ngược lại, đầy dũng cảm và oai hùng. Sau những vần thơ hùng tráng đượm nỗi buồn hy sinh, trên đường hành quân, lòng họ không khỏi ngậm ngùi trước những nấm mồ xa xôi của những liệt sĩ. Họ vì Tổ quốc ra đi nên không tiếc tuổi xuân xanh. Tác giả khéo léo mượn hình ảnh “ tà áo dài” để diễn tả cảnh người lính ra đi. Nó gắn liền với sự uy nghi, tôn nghiêm và làm giảm đi những phiền muộn, đau buồn. Songma, một nhân chứng lịch sử, đã chơi bản “Hành khúc độc thân” để tiễn họ về đất mẹ. Động từ “rầm rầm” được nhân hóa một cách bài bản Nỗi nhớ trong lòng người như dư âm, để lại nỗi đau trong lòng người ở lại.
“Tây du thì vô tận, lên thì thăm thẳm, một khi đi về tây, xuân ấy linh hồn không trở lại.”
Câu thơ trở lại với mạch cảm xúc thơ nhưng nỗi nhớ lại mang âm hưởng bi tráng. Nói đến chia tay vẫn hùng tráng và dữ dội. Mong một ngày gặp lại, nỗi nhớ đầy ắp thời gian và không gian, lời thơ là lời nhắn nhủ, lời thề, tình cảm. Câu cuối như một lời thề, nỗi nhớ quân đã in sâu trong ký ức. Tây tiến đã trở thành ký ức xương máu của cuộc đời nhà thơ Quang Dũng.
Thông qua bài thơ “Tây Du Ký”, nhà thơ Quang Dũng đã khắc họa một chân dung và hình ảnh bi tráng của người lính Tây Phương trong Cách Mạng Vệ Quốc vừa hiện thực vừa lãng mạn, tiêu biểu cho sức mạnh của dân tộc. Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp.
Bài 4
Đề tài này, hình tượng vị tướng, là nguồn cảm hứng của nhiều tác giả, làm nên nhiều thi phẩm, để lại tên tuổi cho nhiều tác giả. Nhà thơ tự hào khi sử dụng những người lính làm chủ đề trong nhiều tác phẩm của mình. Thơ ca phương Tây có một vị trí rất quan trọng, đặc biệt là trong thơ ca Việt Nam.
Bài thơ “Tây Du Ký” là một trong những bài thơ có chủ đề về các chiến sĩ giải phóng dân tộc và chống Nhật trong thời kỳ chống Pháp. Binh đoàn Tây Nguyên là đơn vị bộ đội được thành lập sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới Việt Lào. Địa bàn đóng quân và hoạt động của Tây Binh đoàn khá rộng, bao gồm tất cả các tỉnh như Lai Châu, Hợp Hoan, San Na, Thanh Hóa…
Họ đều là những người lính đến từ thủ đô Hà Nội, được người dân địa phương gọi là những nhà Nho yêu nước, có tâm hồn lãng mạn trưởng thành, có học vì chủ yếu là học sinh. Dù chịu nhiều gian khổ trong trận chiến và mắc những căn bệnh hiểm nghèo như sốt rét rừng khiến tóc rụng hết, thân hình tiều tụy nhưng tâm hồn ông lại vô cùng lạc quan, trong sáng. thần dũng cảm.
Nhiều người lính thủ đô với tấm lòng đa cảm, lãng mạn đã mang danh nghĩa người lính thành phố, cống hiến hết mình cho công cuộc Kháng chiến bảo vệ quê hương, đất nước.
p>
Thơ Tây được hình thành từ nỗi nhớ da diết về tình đồng đội trong những năm kháng chiến gian khổ. Đó là một kỉ niệm khó quên của tác giả với đoàn quân Tây tiến, đầy thi vị và đẹp như tranh vẽ, gợi nhớ về vùng đất gian khổ mà oai hùng.
Nỗi hoài niệm ấy đánh thức và khơi dậy những ấn tượng rất sâu sắc trong kí ức, thể hiện một nỗi nhớ da diết trong lòng người lính ở miền Tây.
Nhà thơ quang dũng có phong cách cực kỳ lãng mạn mà không xa rời hiện thực, bài thơ đã khắc họa một hình tượng người lính vô cùng hào hùng, bi tráng và chịu đựng. Hình ảnh người lính mang nhiều nét thô mộc, thô kệch, thể hiện sự mộc mạc, giản dị của những người lính trong quân đội phương Tây:
Tây quân không mọc tóc, nhưng quân xanh dữ dội
Ta thấy hình ảnh người lính hào hùng, hóm hỉnh và lạc quan trong bài thơ hài hước “Đoàn xe không kính” của Phạm Đình. Đó cũng là hình ảnh người lính chất phác, giản dị trong nhà thơ chính trực “Đồng chí”.
Trong bài thơ “Tây Du Ký”, những hình ảnh mạnh mẽ, ngang tàng của đoàn quân Tây Phương được thể hiện một cách chân thực và sinh động, cho thấy cuộc sống gian khổ, ngoan cường của những người lính Tây Tiến. Hình ảnh người lính miền Tây có chút dân dã, mộc mạc và hình ảnh không tóc vừa nặng nề vừa bi đát, thể hiện những cơn sốt rét rừng, không thuốc men, màu lá khốc liệt.
Khi tác giả Quảng Đông miêu tả lính Tây trong thơ của mình, ông đã không quên sử dụng những hình ảnh hết sức gay gắt để nói lên hiện thực của căn bệnh này. Nhưng ẩn sau vẻ bề ngoài bất cần là sức mạnh nội tâm vô cùng sâu sắc và thần thái oai phong của những người lính miền Tây.
Đôi mắt tuyệt vời gửi ước mơ xuyên biên giới Đêm mơ Hà Nội
Hai câu thơ thể hiện những nét chính về sự mơ mộng của người lính Tây Tiến. Bài thơ này đã thể hiện trọn vẹn những mong ước của người lính trong trái tim và tâm hồn của những người lính trẻ. Nó nói lên niềm khao khát tâm hồn của những người lính ở phía tây. Ở bài thơ này gợi nhớ đến những ước mơ bình dị của những con người bình dị, khi đến tuổi yêu đương muốn có một người mộng mơ để yêu và nhớ.
Mỗi chúng ta đều có ước mơ hạnh phúc của riêng mình. Họ mơ ước về một cặp đôi hạnh phúc, một gia đình đầm ấm, hạnh phúc và tràn ngập tiếng cười. Hình bóng đẹp, đầy sang trọng. Những người lính ra đi vì tự do và độc lập của đất nước, vì những người thân yêu mà họ luôn ngưỡng mộ. Họ muốn bảo vệ sự bình yên cho những người thân yêu của họ ở quê nhà.
Bóng hình “dáng đẹp” là điểm tựa tâm hồn và là niềm hy vọng của những người lính miền Tây trên bước đường hành quân gian khổ.
Hình ảnh người lính dũng cảm vô cùng anh dũng, sự hi sinh của anh cũng đầy anh dũng, hệt như một tượng đài bi tráng. Nhà thơ Quang Dũng đã không né tránh cuộc sống gian khổ của người lính mà miêu tả nó một cách sinh động, khắc nghiệt, gian khổ nhưng không vì nó mà quên đi.
Người bạn xiêu vẹo không bước nữa, ngã trên áo giáp, quên đời; tan nát bờ mộ, xa chiến trường, đời xanh không tiếc; áo phản anh về đất, nước sông gầm thét một tiếng đơn ca.
Hình ảnh những người lính nằm xuống và chết trên chiến trường rất giản dị, nó cho thấy người lính Tây phương ngã xuống sau khi đã yên nghỉ và từ giã cõi đời này, nhưng chết không có nghĩa là ngừng chiến đấu, bởi tâm hồn người lính thể hiện ước nguyện của một người lính, và nó sẽ tồn tại mãi mãi. .
Các chiến sĩ đã ngã xuống, nhưng trái tim non trẻ của những người chiến sĩ cách mạng anh dũng và vẻ vang vẫn cháy mãi trong tim. Nó thể hiện sự hi sinh anh dũng của những người lính Tây Tiến khiến người đọc vô cùng nghẹt thở.
Hai nhân vật ly tán, mồ mả xa xôi… Cho thấy chiến sĩ ra đi trong khói lửa còn nhiều, bôn ba khắp nơi. Đồng thời cũng thể hiện niềm xót xa, thương cảm của tác giả đối với những người lính nơi chiến trường.
Câu thơ “Ra chiến trường không tiếc tuổi thanh xuân” thể hiện tâm hồn kiên cường của người lính, dù hi sinh thân mình cũng không tiếc thân mình.
Hình ảnh người lính trong thơ ca phương Tây đã trở thành hình tượng trường tồn, bất tử, thời gian trôi qua, dòng lịch sử có thể thay đổi nhưng hình ảnh người lính phương Tây vẫn luôn là hình ảnh đẹp nhất, bi tráng nhất. Người lính miền Tây thể hiện những con người tuy có khó khăn, trở ngại nhưng họ luôn lạc quan, yêu đời, thể hiện niềm tin vào tương lai.
Bài 5
“Tây Du Ký” là một bài thơ quân sự viết về Lực Lượng Phòng Vệ Quốc Gia, một người lính trong cuộc kháng chiến 9 năm chống Pháp. Quang Dũng làm thơ trong lúc cầm súng bắn giặc, thơ ông rất bình dị và phóng khoáng. Bài thơ này được viết vào năm 1948. Khi cuộc kháng chiến thiêng liêng của dân tộc bước sang năm thứ ba, chặng đường trường kỳ kháng chiến vẫn còn nhiều mưa gió.
“Tây Du Ký” đề cập đến nỗi nhớ và niềm tự hào của Guangyong đối với những người đồng đội thân yêu của mình đã hy sinh trong trận chiến.
Mở đầu bài thơ là tiếng gọi rung động lòng người. Nỗi nhớ, nỗi nhớ tưởng chừng như bị đè nén bỗng trào dâng:
“Ma Jiangyuan, đi về phía tây! Đừng quên núi, đừng quên chơi”.
Từ “oi” bắt vần với từ “chơi vơi” tạo nên âm điệu của câu thơ nghiêm trang, sâu lắng, da diết. Từ “nhớ” như hai nút gợi lên nỗi nhớ rạo rực của “chơi vơi”. Từ cây bồ đề, ông nghĩ đến Mahe, vùng núi phía tây, quân đội phía tây – hoạt động ở vùng núi phía tây Thanh Hóa, Hòa Bình, Sơn La – một lực lượng ở biên giới Việt – Lào những ngày đầu của cuộc chiến. Bao kỉ niệm đẹp đẽ của những ngày chiến tranh bỗng sống dậy. Tên làng, tên núi cũ, rừng già năm xưa, tình yêu bỗng gần nhau, khiến người lính hãi hùng:
“Lương nồng đầy lính mỏi, hoa về đêm”.
sai khao, mường lap…đây là những nơi tốt đẹp mà các chiến binh phương tây đã để lại dấu chân của họ. Trong “sương mù”, trong “đêm sương mù” lạnh giá, ngày nối ngày, đêm nối đêm, đoàn chiến sĩ dũng cảm này vượt bao dầu, vượt qua chặng đường hành quân vô cùng gian nan. Núi rừng phía tây là một biển sương mù, “quân đội mệt mỏi” tưởng chừng như “mặc quần áo”, kiệt sức và khó khăn, nhưng đột nhiên, “Yeguihua” đột nhiên thở ra. Những vất vả dường như đã tan biến, sáu dấu bằng liền nhau thể hiện sự nhẹ nhàng, hân hoan trong lòng người lính trẻ khi về đến đích sau chặng đường hành quân dài gian khổ: “Meng Pianhua trong đêm trở về.”
Những trận chiến ác liệt diễn ra ở núi rừng phía tây. Đèo dốc chưa từng in dấu chân người! “Mây hút”. Núi cao bao nhiêu, thung lũng sâu bao nhiêu, anh dũng như đạo quân bấy nhiêu:
“Dốc lên khuỷu tay dốc đứng, ngửi trời, lên cây số, đi xuống cây số, xa xa có người, có mưa.”
Các chữ “sâu”, “uốn éo”, “ngọt ngào” được chọn lọc là những nét in, nét có giá trị tạo hình đặc biệt, thể hiện những dốc, đồi, mây, sương mà nhà thơ cùng đồng đội đã phải vượt qua bao năm tháng . Tian: “Quần áo săn bắn chân trần” (Hong Ruan). “Súng bắn trời” là một hình ảnh nhân hóa thể hiện sự trong sáng, hồn nhiên và yêu đời của người lính trẻ. Có một đoạn thơ hai đoạn, trong đó sự dẻo dai của lính Tây được “đo” bằng “nghìn thước lên/nghìn thước xuống”. Hết núi này đến núi khác, đèo này đến đèo khác, từ cao đi lên, từ dưới thấp đi lên, đoàn quân đi trong sương mù, trong rừng mưa. Các chiến binh đứng trên độ cao “ngàn cân treo sợi tóc” và nhìn vào khoảng không. Trong làng của người Mông thấp thoáng Diaojiaolou. Một câu thơ đầy giọng điệu gợi cảm xúc vui tươi, bình yên dâng lên trong tâm hồn người lính trẻ rất lạc quan, yêu đời nhìn về phía xa trong rừng mưa: “Xa nhà ai hòa cùng mưa?”.
Điều gì đã xảy ra trên con đường dài gian khổ, đẫm máu đó? Giọng điệu câu thơ bỗng trùng xuống, thút thít:
“Bạn cẩu thả dừng bước, ngã súng quên đời!”.
“Anh ơi” nghe như tiếng khóc thầm. Trong gian khổ “rớt dầu”, trong những ngày dài hành quân, chiến đấu, biết bao đồng đội thân yêu đã “lảo đảo”, chia tay bộ đội, “quên đời”, quên đồng đội, bạn bè nằm trên giường bệnh lúc chân núi, góc núi. Hai chữ “mũ sắt ngã” thể hiện một sự hi sinh hết sức bi tráng: ngã xuống, ngã xuống trong lúc hành quân ra trận, tay còn súng, mũ vẫn đội trên đầu. Mặc dù Quảng Đông đã thay các từ “chết” và “hy sinh” bằng những từ như “buwu”, “sụp đổ” và “quên đời”, nhưng anh vẫn đầy đau buồn, hối hận và tiếc nuối. Sự thật của chiến tranh vẫn còn! Tuy nhiên, những dòng của Quang Dũng tuy nói đến sự hy sinh của các chiến sĩ nhưng không gợi lên sự đau buồn, bi tráng mà thay vào đó, trong niềm tiếc thương đó là sự khẳng định đầy tự hào: Vì độc lập tự do, biết bao chiến sĩ anh dũng đã ngã xuống chiến trường Trên, trong cái thế hung dữ “ngã mũ…”!
Bối cảnh chiến trường không chỉ có đèo cao, mây mù, dốc cao, không chỉ mưa dầm, muỗi mòng núi rừng, mà còn cả những thử thách của Thần rừng ngàn đời, một dáng vẻ hoang sơ, huyền bí, bí ẩn, hùng vĩ, và hùng vĩ.Một buổi chiều, đêm đêm, tiếng thác “gầm” và tiếng “chơi với hổ” vang lên trong chiến khu. Trong không gian rộng lớn của Đại Thiên, từ pha Luông đến mường hịch hoang vắng, cái chết luôn rình rập và đe dọa. Khu rừng thiêng ẩn chứa nhiều bí mật “thần kỳ”, được nhân hóa với cường độ ngày càng tăng. Thác nước “gầm thét”, còn hổ thì “điệu bộ” như thử thách lòng dũng cảm của các chiến binh phương Tây:
“Buổi chiều thác hùng vĩ gầm thét. Đêm hổ vui”.
Sau bao gian khổ, hy sinh, hành trang của người lính đầy ắp những kỷ niệm quân ngũ. Tôi quên sao được “cơm khói”, vị đậm đà của “mùa nếp thơm”. Trong hương vị đậm đà của bát cơm nghi ngút khói, hương nếp dẻo thơm còn hòa lẫn với tình yêu sâu đậm của người làng Mai Châu dành cho “quý tử”. Hai từ “nhớ em” gợi lên muôn vàn nỗi buồn man mác, lưu luyến, thấm thía, ngọt ngào:
“Nhớ ta đi Mai Châu khói mùa hương nếp thơm”.
Phần thứ hai của bài “Tây tiến” gồm 8 câu nói về “Hội Đuốc” và buổi chiều sương mù trên cao nguyên Zhoumu. Âm hưởng thơ buồn man mác. Nhà thơ tự hỏi mình “có thấy không” và “có nhớ không”. Sự tài giỏi, tinh hoa và chuyện tình của các chiến binh đã được nhắc đến rất nhiều trong đêm Hội Đuốc Hoa. Từ “kìa” là đại từ chỉ phương xa, gây nhiều bất ngờ, cảm mến. Trong ánh đuốc lung linh, sự xuất hiện của những cô gái Mường trong bộ trang phục dân tộc đầy sức sống, những cô gái Thái Tây Bắc, những cô gái Lào đã mang đến niềm vui, sự yêu mến cho những người lính trẻ của đoàn quân Tây Bắc nơi tiền tuyến. Có “đa điệu” của núi rừng, có giai điệu du dương “xây dựng hồn thơ”. Có dáng điệu e ấp duyên dáng của “nàng” và dáng điệu nhún nhảy của “hoa dại”:
“Khu cắm trại rực rỡ ánh đèn và đầy hoa. Hãy nhìn xem, bao lâu rồi bạn không mặc quần áo, chơi bài hát của một cô gái rụt rè, và tiếng nhạc của mục đồng, và bạn đã xây dựng một tâm hồn thơ mộng.”
Chữ “lõm” là họa thần. “Lửa” là vào đêm “Đuốc hoa đăng”, khi những ngọn đuốc được thắp và cháy sáng rực. Nó còn có nghĩa là tiếng khèn rộn ràng qua “giọng nam”, những giọng ca da diết của dân ca Thái, Lào.
Nhớ miền tây là nhớ chiều sương trên cao nguyên, nhớ xuồng, nhớ cái “chạm hồn”. Nhớ nhiều, nhớ hoài “bóng dáng độc hành”, nhớ mãi không quên hình ảnh thơ mộng “hoa trôi nước lững lờ”. Nếu không sống mạnh mẽ và sống cuộc đời của người lính trẻ trong những năm tháng gian khổ thì không thể nào viết được bài thơ hay và nên thơ như vậy. Nhạc điệu bài thơ trầm, nhẹ như ru hồn ta vào giấc ngủ. Chất nhạc, chất thơ, chất nghệ thuật toát ra từ lời thơ, thể hiện thẩm mỹ độc đáo của các ngòi bút thơ Quảng Đông, đồng thời khắc họa vẻ đẹp tâm hồn của người chiến sĩ Tây Phương: giữa gian khổ, gian truân, giữa gian khổ, chết chóc, họ vẫn lạc quan yêu đời, ước mơ hồn nhiên.
Đây là đoạn thơ hay nhất trong bài “Tây tiến”, thể hiện sự cảm nhận và biểu đạt tinh tế, tài hoa vẻ đẹp của thiên nhiên và con người, đồng thời làm say lòng người đọc một thời hồn nhiên vô cùng. Độc giả say rượu:
“Người đến Chu Mục trong chiều sương mù, có thấy hồn chạm bến bờ, nhớ dáng người trên cây cô đơn, bồng bềnh trong nước, hoa lá đung đưa.”
Phần ba, Quảng Đông dựng tượng đài hùng tráng bi tráng cho đoàn quân tiến lên. Đoàn quân xuyên rừng, xuyên biển sương mù, vượt cồn cát, bất chấp mưa gió, vượt qua bao núi cao, đèo cao, dốc cao “săn giặc chân đất” rồi bất ngờ xuất hiện:
“Tây tiến không mọc tóc, quân xanh mắt dữ gửi mộng thâu đêm, Hà Nội đẹp thơm”.
Bài thơ đã miêu tả sự tàn khốc của chiến tranh bằng sự chân thực và khí chất anh hùng, và một tập thể nhân dân các dân tộc đã nổi dậy chống lại kẻ thù sắt thép với giáo mác và dùi cui. Hình ảnh thơ được đặt trong sự tương phản để khẳng định một chí khí dũng cảm, anh hùng và một tâm hồn nhiều ước mơ cao đẹp. “Đội quân không tóc”, “Quân đội xanh”, trông gầy guộc và bị sốt rét rừng, nhưng tư thế thì vô cùng oai phong: “hùm dữ”. Đây cũng là câu nói truyền thống trong các bài thơ dân tộc ca ngợi sức mạnh Việt Nam: “Ba nắm tay đỡ hổ bò” (phạm ngũ lão), “Tam hổ tam quyền – gươm sáng” (trương hán siêu), “Lính giỏi lấy tay chàng chọn nanh” (Nguyễn Trãi),… và trong những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, Người đã dùng ý chí của mình để đem sức mạnh của Việt Nam ngàn năm trước ra chiến trường. Khí thế hung hãn vô song: “Quân Thanh hung mãnh vô song”. Đã trải qua bao nhiêu năm trận ác liệt, nếm trải bao nhiêu thăng trầm, chịu bao nhiêu gian khổ, chiến đấu đẫm máu nơi sâu thẳm núi rừng. Quang Dũng đã kế thừa một cách sáng tạo nền thơ cổ điển của dân tộc và viết nên một bài thơ hào sảng như thế!
Xem Thêm: Elly Trần: Tôi ngu ngốc khi chọn hôn nhân
Cán bộ, chiến sĩ đội tiền phương Tây quân phần lớn là thanh niên, học sinh, sinh viên trên đường 36. Nơi đây có bề dày nghìn năm văn vật. Là những “trai chưa mắc nợ anh hùng…” đã ra trận với những “ước mơ” và “ước mơ” đẹp đẽ:
“Mắt đẹp gửi mộng qua biên giới, đêm mơ Hà Nội Phương Hoa”.
Chiến thắng trong mơ. Mơ thấy phá đồn địch, cướp súng địch, giết địch. “Lườm” vạch ra tư thế chiến đấu tay đôi ác liệt vô song, vượt qua pháo đài địch! Đồng thời, trong hành trang và trong tâm hồn của các chiến sĩ trẻ cũng chứa đựng biết bao ước mơ tươi đẹp. Nhớ đường xưa khuôn viên cũ, mơ váy thướt tha, “dáng kiều thơm” Hà Nội thân yêu.
Bài thơ “Đêm mơ Hà Nội có một khuôn mặt đẹp” thể hiện sự tài hoa, phô trương của những người lính Tây Tiến. Người lính trong “Đồng chí” của He Yiren có nỗi nhớ cánh đồng, “ngôi nhà gió không lay chuyển”, giếng nước nguyên thủy… Nỗi nhớ người lính cảnh vệ Trung Quốc trong bài thơ “Nỗi nhớ” của Hồng Ruân đầy ắp, trìu mến , và Tình yêu Tổ quốc sâu nặng:
… “Gửi lại quê hương ba năm mái lều tranh, tiếng đêm dài, ruộng đất đỏ, mấy thiếu nữ qua xay gạo canh khuya”.. .
Từ đó ta thấy được nỗi nhớ, ước mơ của người nông dân từng đi lính hay của những người tiểu tư sản ở thành thị đẹp đẽ, đáng yêu bởi nỗi nhớ, ước mơ ấy thể hiện tình yêu quê. Nửa thế kỷ qua, thời gian và người đọc đã khẳng định vẻ đẹp độc đáo của thơ ca Quảng Đông, bởi nó đã làm phong phú thêm hình ảnh “ông già đi lính” trong kháng chiến chống Pháp.
Bài 6
Cuộc kháng chiến chống Pháp đã đi qua, tính từ thế kỷ thứ VIII đến nay đã gần 80 năm nhưng hình ảnh những người cựu chiến binh vẫn còn in đậm trong tâm trí nhân dân thế giới. Thời kì thuộc địa. đến thế hệ trẻ ngày nay. Đặc biệt qua bài thơ “Về miền Tây” của nhà thơ Quang Dũng viết vào cuối năm 1948, chúng ta càng hiểu rõ hơn về chân dung người lính lúc bấy giờ. Bài thơ này không chỉ là nỗi nhớ sâu sắc của tác giả về thời kỳ trăng mật ấy và tình đồng đội kề vai sát cánh, mà còn là nỗi nhớ của ông đối với những người lính Tây Tiến anh dũng nơi núi rừng Tây Nam hùng vĩ, tráng lệ.
Tây chinh quân không mọc tóc, nhưng quân Thanh hung hãn.
Tác giả đã vẽ nên một bức chân dung khác thường về người lính Tây. Họ không phải là những “mỹ nam, mỹ nữ” mà là hình ảnh những người lính cần cù, chăm chỉ, chết không bệnh tật nơi nước độc Thâm Lâm. Sốt cao đến nỗi tóc rụng không thể mọc lại. Để tô thêm màu sắc và hình ảnh người lính, Quang Dũng đã sử dụng những câu thơ rất nhẹ nhàng, nhưng cũng không thể che giấu một sự thật rằng trên chiến trường khắc nghiệt, hình ảnh người lính rất đời thường, giản dị, rất lạ và rất thực. Họ sống trong cảnh nghèo khổ cho đến khi da xanh xao và ốm yếu.
Tuy nhiên, mặc dù bên ngoài trông lạnh lùng và nhợt nhạt, nhưng bên trong anh ấy rất dũng cảm và anh hùng. Câu thơ: “Quân Thanh xông pha dữ dội” hàm ý tính cách của ông rất anh dũng, hiên ngang, hiên ngang trước kẻ thù.
Hình tượng đội quân trọc đầu không chỉ tạo nên khí thế hào hùng mà còn tạo nên nét hào hùng dữ dội, khắc họa nên bức tranh sinh hoạt đời thường đậm nét.
Coi em chưa mặc áo bao giờ.. Âm hưởng bài hát này nói về sự thẹn thùng của em, về tiếng nhạc chăn cừu xây dựng một hồn thơ.
Khác với vẻ ngoài rắn rỏi, rắn rỏi, mạnh mẽ, hào hùng nhưng không kém phần hào hoa, lịch lãm của một công tử Hà Nội với tâm hồn lãng mạn. Tâm hồn người lính cũng đa dạng, thơ mộng. Trước vẻ đẹp quyến rũ của người con gái, bất cứ người đàn ông nào cũng sẽ bị choáng ngợp, và những người lính tây cũng không ngoại lệ. Tâm hồn họ cũng xúc động trước sự ra đi của một cô gái xinh đẹp và thanh lịch. Họ cũng mang trong mình vẻ đẹp của trái tim thi sĩ, và họ cũng yêu vẻ đẹp của sự quyến rũ.
Giấc mơ vụt qua mắt, Hà Nội đẹp thơm trong giấc mộng đêm.
Những người lính miền tây là những kẻ mộng mơ, những đứa con của thành phố và thành phố, vì vậy tâm hồn của họ vào chiến trường với màu sắc thơ mộng và lãng mạn. Nếu như trong tác phẩm của Đồng chí Yi, những người lính ở vùng quê nghèo khó “cày trên đá”, tâm hồn họ thường chỉ xoay quanh cây đa bến nước và một lòng hướng về nước. Ngược lại, những người lính Tây phương đã vượt lên trên lý tưởng giết giặc, bảo vệ Tổ quốc, họ vẫn mang trong mình vẻ đẹp lãng mạn của tuổi trẻ Hà Nội. Có lẽ vì thế mà tác giả đã khéo léo sử dụng hai câu thơ “Gửi giấc mơ” và “Đêm nằm mơ”. Họ mơ về một Hà Nội hoài cổ, một không gian khác với cuộc sống khắc nghiệt nơi chiến trường. Họ cũng mơ thấy hình bóng yêu kiều của cô gái Heqing, là hình bóng yêu dấu của những người lính phương Tây. Nỗi nhớ quê hương, nhớ người yêu cũng là động lực để họ chiến đấu trên chiến trường gian khổ.
Bạn cẩu thả không đi được nữa, ngã vào mõm và bị cuốn đi!
Hình ảnh người lính nằm trên họng súng không thể bước đi là một hình ảnh bi tráng của người lính đi tây. Đó là sự yên nghỉ vĩnh viễn, coi cái chết như lông hồng, như giấc ngủ vĩnh hằng. Những lời thoại nghe dịu dàng, nhẹ nhàng như cái chết của họ, nhưng lại đè nặng lên lòng người đọc. Vì vậy, tôi càng khâm phục những người lính Tây Viễn hơn, họ sẵn sàng hy sinh thân mình vì lợi ích chung của đất nước.
Thậm chí, họ sẵn sàng hiến dâng tuổi thanh xuân cho đất nước, không quản ngại thân xác, không quản ngại tuổi thanh xuân, thanh thản ra đi:
Tiêu mộ, ra trận không tiếc. Đổi áo lấy ghế, anh trở lại mặt đất, hà mã hát một mình.
Cái chết đã được lý tưởng hóa, hình ảnh người cựu chiến binh với những từ như “áo bào”, “lính đơn độc hành quân” cho thấy thiên nhiên cũng xót xa cho nỗi đau của họ. Những người lính phương Tây trông trang trọng và oai vệ, và cơ thể của họ có thể so sánh với các chiến binh cổ đại. Có thể nói, Quang Dũng đã bất tử hóa hình ảnh quan họ bằng cảm hứng lãng mạn.
Chân dung người lính phương Tây vừa lý tưởng hóa vừa bất tử. Hình ảnh người lính miền Tây vừa đời thường vừa lãng mạn, vừa hiện thực vừa mộng mơ. Người lính hy sinh tuổi thanh xuân vì lý tưởng, tâm hồn tạc núi sông, Dù thác lũ vẫn theo đồng đội, đồng đội vẫn sống mãi trong tim.
Bài 7
Có thể nói, nếu chọn ra 5 nhà văn tiêu biểu trong thời kì đầu văn học kháng chiến chống Pháp, có thể không có một tráng sĩ nào, nhưng nếu chọn ra 5 bài thơ tiêu biểu thì không thể không kể đến họ và đứng trên hàng danh dự. Đọc về miền tây và sống lại những năm tháng chinh chiến của đội quân lẫy lừng đã được sử sách ghi vào sử sách, có thể chúng ta sẽ quên một số câu thơ trong bài thơ nhưng chúng ta không được quên hình ảnh của đội quân đó:
Tây chinh không mọc tóc, quân Thanh hung hãn, thấy mộng bên kia biên giới. Đêm mơ Hà Nội, người đẹp nằm rải rác quanh mộ, xa chiến trường, không tiếc tuổi thanh xuân. Quần áo phản chiếu anh ta trở lại mặt đất, và Ma Jiang gầm lên một mình!
Nếu như ở khổ thơ đầu, hình ảnh đoàn quân mới được thể hiện bằng những nét gián tiếp – ám chỉ những gian khổ, hy sinh, địa bàn chiến đấu – thì ở đây hình ảnh đoàn quân ấy được thể hiện bằng những nét đứt. Vẽ cụ thể, mạnh mẽ và rõ ràng. Nó đã trở thành một câu nói sáo rỗng để nói về lòng dũng cảm của một chiến binh. Ở đây, dường như chúng ta đã gặp một mô-típ như vậy:
Tây chinh quân không mọc tóc, lục quân dũng mãnh
Nhưng trước hết, đây là những bài thơ miêu tả hiện thực – trần trụi: Binh lính Tây Phương thời ấy đánh nhau nơi núi hiểm, rừng thiêng nước độc. Có nhiều bệnh tật, rụng tóc thì có suối ngâm chân, gội đầu rụng tóc. “Quân xanh” ở đây có thể hiểu là những chiếc áo màu xanh, màu xanh rằn ri, da xanh do thiếu máu. Những hình ảnh rất thực đó, kết hợp với giọng điệu lãng mạn và cách diễn đạt Quảng Đông trong bài thơ, dường như mang một ý nghĩa tượng trưng và rất du dương. Mười bốn chữ thơ, đã khắc ghi vào lịch sử hình ảnh một đội quân phi thường, có một không hai, cả trong đời và trong thơ. Những chàng trai Hà Nội hào hùng, hào hoa “xuất trận” ngày ấy.
Khó khăn, gian khổ là vậy nhưng những chiến binh miền Tây vẫn không ngăn được cảm xúc lãng mạn:
Mắt long lanh gửi ước mơ qua biên giới Hà Nội đêm đẹp mộng mơ.
Những “ước mơ”, những “ước mơ” của người lính được gửi về hai hướng: biên cương nơi còn bóng quân thù – ước mơ giết giặc lập công và Hà Nội quê hương yêu dấu – giấc mơ của những nhân vật thân yêu… “Ngọt ngào và Rực rỡ”, đó là ánh sáng lóe lên trong ký ức, “lên án” phong cách của người lính. Nhưng với những người lính Tây, nỗi nhớ ấy chính là sự cân bằng, thư thái trong tâm hồn sau mỗi cuộc hành quân gian khổ, để họ không nản chí. Thế nhưng, đã có lúc, câu thơ “lãng mạn và đẹp đẽ” này đã khiến chính tác giả và bài thơ bị “phong sương vùi dập”.
Các bán huyết thống cổ đại đã chiến đấu chống lại những người của thế kỷ này — trong quá khứ, khi họ ra trận, rất ít người trở về, và những người lính phương Tây không tránh khỏi mất mát và hy sinh.
<3
Sau những câu thơ chắc và đẹp, đến đây, giọng điệu của các câu thơ bỗng trở nên trầm bổng, trùng điệp, giúp người đọc thấy rõ hơn thực chất của sự việc. Đây dường như là một cảnh chuyển động chậm có chủ ý. Không có gì thiêng liêng và cao quý hơn sự hy sinh, chấp nhận gian khổ của người lính. Trên đường đi, các chiến binh miền Tây gặp phải rất nhiều “mồ mả” của những đứa trẻ “trốn nhà ra đi”. Nhưng những người lính mà chúng tôi thấy có đôi mắt bình thản vì họ đã chấp nhận điều đó. Một trong những động lực thôi thúc họ là hình ảnh người anh hùng da bọc ngựa mà họ có được trong văn chương, sách vở. Niềm đam mê thuần túy đan xen với sự lãng mạn.
Hai câu thơ cuối tiếp tục mang âm hưởng bi tráng, làm nổi bật sự hi sinh mất mát là cái chết cao cả, cái chết bất tử của người lính Tây Tiến.
<3
Hai câu cuối tôi đọc tưởng như chỉ miêu tả và thông báo sứ mệnh một cách bình thường, nhưng lại có sức gợi rất lớn. Đâu đó, vẫn còn những giọt nước mắt đằng sau những con chữ. Hai câu thoại mạnh mẽ và sâu sắc về tình cảm, nhân ái. Làm sao bạn có thể dửng dưng trước cảnh “người ấy về”? “Ông về với đất” là hiện thân của vị khai quốc công thần đã làm tròn bổn phận vẻ vang của mình. Tiếng gầm của Mahe như một loạt đại bác, tiễn biệt những người con yêu dấu của dân tộc.
Trước đây khi nhắc đến những bài thơ này, người ta chỉ thấy “Lạc Mông”, “Lạc Bội”… Nhưng thời gian đã cho chúng ta nhìn rõ hơn bản chất, đã có một thời đại văn học.
Tây Du Ký là một bài thơ, là tiếng lòng của kẻ sĩ đi Tây Phương. Thơ có nhạc có hình, bên cạnh bi kịch là anh hùng, bên cạnh mất mát, đau thương là hào khí anh hùng. Nửa thế kỷ sau, tiếng thơ ấy ngày càng da diết, bài thơ tả cảnh hành quân đã trở thành ký ức khó quên về giai đoạn lịch sử hào hùng những ngày đầu kháng chiến chống Pháp.
Phân tích hình tượng người lính Tây Tiến
Ví dụ 1
Một bài thơ hay, cho đến ngày nay, những vần thơ ấy vẫn như một khúc ca đi cùng năm tháng, Tây tiến đã trở thành một hiện tượng trong thơ ca Quảng Đông và là một trong những bài thơ nổi tiếng nhất thế giới. Thơ hay nhất về người lính. Lời thơ hùng tráng, đậm chất nghĩa sĩ. Không chỉ vậy, qua bài thơ này, ta còn thấy được vẻ đẹp bi tráng trong cuộc hành quân về Tây của người lính, cũng như của một thời hào hùng đã qua đi.
Đoạn mở đầu giống như một khúc nhạc không bao giờ hát được, đoạn nhạc trong câu mở đầu ám chỉ hình ảnh Mã Giang và phương Tây, còn được gọi thân mật là “Tây Tiến”. Bên nhau Một trong những tiếng gọi của năm tháng Mahe hùng vĩ chứng kiến vinh quang năm xưa không ngừng xô bờ Vẻ đẹp của những anh hùng Tây phương cũng từ đó hiện ra, và vẻ đẹp của những con người đã để lại dấu chân trên đường hành quân.
“Mã Giang đi xa về tây, nhớ núi rừng, nhớ chơi sương, đêm hoa nở quân mỏi”
Một thời, bom đạn ấy để lại nỗi ám ảnh khôn nguôi đối với những người trực tiếp tham chiến. Cách mỗi dòng kết thúc bằng vần càng khiến cho dòng đó vang xa hơn trong đêm: “Ồ vâng, một chút”. Như hơi thở mệt nhọc của người lính Tây Phương sau một ngày hành quân. Hai địa danh Sài khao và Mường Lát dường như khắc sâu trong nỗi nhớ của tác giả. Hai địa danh này gắn liền với hành trình tiến quân của các đoàn quân. “Đêm hơi” gợi cho người đọc nhiều điều tuyệt vời, đêm hơi nước có thể là đêm đầy sương và sương, đêm hơi nước vẫn có thể là đêm rừng sâu lạnh lẽo, nhưng cũng có thể là một hành động nhẹ nhàng. Ánh đèn của binh đoàn Tây Tiến và sương mù trong đêm xung trận đều thể hiện sự gian khổ, vất vả của đoàn quân. Những gian khổ của cuộc trở về Tây quân trở nên đẹp và nên thơ trong thơ Quảng Đông. Đó là những thử thách mà người lính phải trải qua, và chính những thử thách ấy đã làm toát lên vẻ đẹp bi tráng của họ, sườn đồi dốc đứng thoạt nhìn đã thấy ngượng ngùng, lời thơ sâu lắng khiến người ta chạnh lòng. Những con dốc ngày càng trở nên nguy hiểm hơn. Hơn cả là hình ảnh người lính, khẩu súng của người lính đang vờn mây.
“Lên dốc cao hun hút mây, lên ngàn thước ngửi trời, xuống ngàn thước nhà ai mưa như trút nước”
Những độ cao và độ sâu này được đo bằng hàng nghìn feet và nhằm mục đích nhấn mạnh những gian khổ mà quân đội phải vượt qua. Nhưng ở cuối câu thơ, cả một dòng thanh điệu đều lại xuất hiện như bù đắp cho câu thơ đa âm tiết. Sự cân bằng này mang lại cho chúng ta cảm giác bình yên thực sự. “Mưa ở đâu đó xa”. Khi gặp mưa gió, đoàn quân nghỉ ngơi, nhìn mưa lớn trút xuống, cả vùng trắng xóa như nước.
Những gian khổ ấy đã tạo nên hình ảnh cao đẹp của những người lính ấy. Cũng có những lúc, sự hồn nhiên của người lính được thể hiện trong những giây phút kiệt sức, gục đầu vào ba lô ngủ, bỏ lại sau lưng những gian khổ, nguy hiểm của cuộc kháng chiến. Hình ảnh người lính tựa súng, đầu đội nón mỡ, không còn bước đi là một hình ảnh đẹp. Câu này là để giảm bớt cái chết và sự hy sinh của những người lính đó. Đây là vẻ đẹp bi tráng, hy sinh khác là mảnh cẩm thạch, nhưng ở mảnh cẩm thạch ấy ta thấy vẻ đẹp tráng lệ vô hạn. Họ có thể hy sinh, nhưng trong trạng thái rất thảnh thơi, ký ức về sự ở lại mòn mỏi “quên đời”, ký ức về những chiều đêm cùng tiếng thú gầm, nhớ về đêm mùa nếp nương Mai Châu.
Ở những câu thơ tiếp theo, người lính mang dáng vẻ hồn nhiên, ngây thơ và đời sống tinh thần của anh cũng vô cùng tươi vui, lạc quan, hình ảnh ngày hội thường nhật, cùng với cô gái chăn mền xinh đẹp, duyên dáng mang vẻ đẹp quân nhân thân thiện. Những chiến binh bất chấp gian khổ và xuất hiện với vẻ đẹp oai phong và hút hồn.
“Doanh trại thắp đuốc kết hoa, em mặc y phục thi thoảng, nàng thổi khúc du dương, nàng sợ khúc nhạc mục đồng, mục đồng xây hồn người lên non núi Sương chiều có thấy hồn bến bờ, nhớ dáng em lênh đênh trên sào đu hoa trong lũ”
<3
“Tây quân không mọc tóc, quân hàm xanh oai phong, mắt gửi mộng ngoài biên ải. Đêm mơ Hà Nội mộng”
Không chỉ những khó khăn trên chiến trường mà cả những câu chuyện về bệnh tật, thời tiết xấu cũng được Quang Dũng đưa vào thơ. Không một chút bí mật, thiếu thốn hay căn bệnh sốt rét làm bộ đội rụng tóc, Quang dũng cảm sánh vai cùng một mỹ nhân Tây quân rất thật, một tinh thần chiến đấu không bao giờ lụi tàn dù gian khổ. Hình ảnh Quân xanh gầy gò nhưng không yếu ớt mà vẫn dữ dằn. Đôi mắt sắc lẹm gợi cho ta nhớ đến lòng căm thù giặc của các anh hùng phương Tây. Trong mắt có tia hy vọng và tinh thần chiến đấu anh dũng, không chút khuất phục số phận, có thể đó là sự trằn trọc không ngủ được vì nỗi lo nơi biên cương hay bóng hình hải ngoại. .Đó là sự hy sinh của những người lính ấy, phần lớn là những người trí thức, ngày đêm nghĩ về quê hương, với một bóng hồng không bao giờ phai trong tim. Đó là cẩm thạch của vẻ đẹp quân sự. Nhưng nó rất đẹp, vì người ta chết cho lý tưởng cao cả, và đó là cái chết đẹp. Sự ra đi của bạn không phải là điềm báo trước mà được ví như sự ra đi của một người được kính trọng và biết ơn. Những chiếc áo trấn thủ được thay bằng đệm, thể hiện sự giản dị của những người lính. Chiến trường tàn khốc khiến anh ra đi chỉ với một chiếc chiếu. Tổ quốc là nơi con sinh ra, cũng là nơi con trở về, Tổ quốc sẽ luôn canh giữ con trong giấc ngủ vĩnh hằng. Hình ảnh Mã He lại hiện lên, gầm rống hành khúc, như tiễn đưa hồn bạn, đây không phải là chơi mà là rống, càng tạo thêm chất riêng cho thơ.
Trong tác phẩm Hào kiệt ở Quảng Đông, hình ảnh người lính phương Tây vừa hiền lành vừa chất phác rất vui tai. Qua đây, ta cũng thấy được vẻ đẹp bi tráng của những người anh hùng viễn chinh về phía tây, cảm nhận được tình yêu đất nước, con người. Hình ảnh của bạn vẫn sống động trong lớp học.
Bài văn mẫu 2
Những bài thơ Tây phương của nhà thơ Quảng Đông là một trong những bài đặc sắc lấy hình tượng người lính làm chủ đề. Nó thể hiện chân dung của những người chiến sĩ cách mạng trong cuộc kháng chiến chống Pháp với vinh quang của dân tộc một cách bi tráng và hào hùng. Nhà thơ Quang Dũng đã viết bằng những cảm xúc chân thành về người lính đến từ miền Tây này – lực lượng được thành lập từ năm 1947, gánh vác trách nhiệm nặng nề bảo vệ biên giới Việt – Lào – và niềm kiêu hãnh, tự hào của ông.
Lính Tây hầu hết là thanh niên, học sinh, sinh viên Hà Nội. Họ là những người đã biết những hiểm nguy, hiểm nguy nơi chiến trường từ khi còn trong quân ngũ. Thơ miền Tây là ký ức, hoài niệm của tác giả, không phải là lời của người chiến sĩ bất khuất mà là lời của đồng bào ta. Hình ảnh người lính Tây Tiến trong bài thơ mang khí chất quân tử điển hình thời Chống Pháp.
Tây tiến không mọc tóc…… Ha ha ha Mạnh Dã Tương Yến mỹ nhân
Người lính miền Tây toát lên vẻ đẹp rất anh dũng trong môi trường chiến đấu khắc nghiệt. Sinh ra trong những chàng trai Hà Nội lãng mạn, những người lính nhìn cuộc đời bằng đôi mắt mơ màng, tràn đầy sự lạc quan của tuổi trẻ. Ngoài điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, khó khăn của quân đội còn hiện hữu khi những người lính trẻ phải chống chọi với bệnh tật. Sốt rét khiến “đội quân hói đầu”, rụng tóc, da xanh xao như “màu lá”. Tuy nhiên, tinh thần của họ không bao giờ tuyệt vọng. Họ vẫn tiến tới với tâm lý “hăm dọa”, “dòm ngó”. Họ cũng mơ “Hà Nội tỏa hương kiều”. Họ vẫn là những chiến binh trẻ tuổi, lãng mạn trong tình yêu và lạc quan trong cuộc sống. Sự lạc quan này dường như tiếp thêm cho họ sức mạnh để luôn kiên cường và dũng cảm dù gặp khó khăn, hoàn cảnh khắc nghiệt đến đâu. Hoang vu nguy hiểm làm sao, dáng vẻ lính Tây vượt biên mới oai hùng làm sao:
Trèo lên một khúc cua dốc…….có người ở đằng xa đang mưa
Những con dốc “cong” và “sâu” hiểm trở có thể giết người lính bất cứ lúc nào. Vượt qua nhiều chướng ngại vật, tư thế của người lính thật hiên ngang và dũng mãnh, có thể gọi là “tiếng súng vút trời”. Những người lính cầm súng kiêu hãnh bảo vệ non sông Tổ quốc. Trong thiên nhiên hoang vắng, hiểm trở, chân dung những người chiến sĩ vẫn hiên ngang, sẵn sàng lên đường.
Đèn trong doanh trại sáng…
Những người lính miền Tây mang một triết lý sống cao cả đầy tính nhân văn. Ngoài “đôi mắt căm giận” khi đối đầu sinh tử với kẻ thù, cử chỉ dũng cảm đấu tranh với bản chất đê tiện, những chiến sĩ ấy còn có một đời sống tinh thần thắm thiết với đồng bào các dân tộc. Họ trở lại như những chàng trai thành phố chơi với những cô gái Lào sang trọng. Họ chìm đắm trong nỗi nhớ nhung những tháng ngày bám dân, bám đất. Đằng sau tinh thần quyết tử phục quốc là một tâm hồn yêu thiên nhiên, yêu quê hương, yêu đồng bào.
Bên những ngôi mộ xa điểm xuyết những vì sao… Mahe gầm lên khúc ca đơn độc
Vẻ đẹp bi tráng của những người lính ở miền Tây sáng ngời với vẻ đẹp lí tưởng của người thanh niên kháng Nhật. Bảo vệ đất nước là trường kỳ và khó khăn, và hòa bình được mua bằng máu, mồ hôi và vô số hy sinh. Tây Bắc từng có biết bao người lính trẻ ngã xuống giữa đất trời. Cơ thể của bạn đang ở trên biên giới “xa xôi”. Tuy nhiên, họ vẫn anh dũng giương súng bảo vệ quê hương, đất nước, không tiếc “đời xanh”. Cho đến khi ngã xuống, trên người họ chỉ còn tấm đệm quý giá như “bộ quần áo” được chôn một cách “lỏng lẻo”. Sự hy sinh ấy vừa bi tráng vừa hào hùng, để lại ấn tượng sâu sắc cho các thế hệ mai sau về sự hy sinh bất khuất của các chiến sĩ Tây tiến anh hùng.
Qua bút pháp lãng mạn Quảng Đông của nhà thơ, hình tượng người lính Tây Tiến hiện lên một vẻ đẹp độc đáo, hiên ngang và anh dũng trong bất cứ hoàn cảnh, tâm trạng nào. Chân dung người lính Tây Tiến sáng ngời vẻ đẹp lý tưởng, sẵn sàng hi sinh vì độc lập dân tộc. Chúng ta được hưởng nền độc lập từ xương máu của tổ tiên và những người đi trước đã hy sinh. Tôi vô cùng xúc động, tự hào và biết ơn những chiến binh đi về phía Tây – những chiến binh vĩ đại.
Bài 3
Thơ ca cách mạng là một chủ đề lớn trong kho tàng thơ ca Việt Nam. Trong những năm tháng chiến tranh, những bài thơ, bài hát đã đi vào lòng hàng trăm triệu đồng bào. Hình ảnh người lính đi vào thơ cũng rất tự nhiên, thân thiện, là đề tài thường thấy trong thơ ca cách mạng. Nhà thơ Quang Dũng cũng góp vào kho tàng một bài thơ rất hay, khắc họa hình ảnh người lính xuất thân là một trí thức trẻ Hà Nội. Đoạn thơ này đã khắc họa thành công hình ảnh người lính hành quân về hướng tây vừa mang vẻ đẹp phóng đại, lãng mạn lại vừa mang vẻ đẹp rất dũng cảm, dũng cảm, bi tráng.
Hình ảnh những người lính Tây Tiến hiện lên trên trang thơ trước hết là sự hào hoa, lãng mạn trong hoàn cảnh. Vì họ là những học sinh, sinh viên trẻ ngồi trên ghế nhà trường và ra đi theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc nên sự tế nhị, khoa trương của tâm hồn cũng là điều hết sức bình thường và dễ hiểu. Điều này ban đầu thể hiện ở cái nhìn háo hức, say mê trước vẻ đẹp thiên nhiên và con người Tây Bắc:
“Manghua Pian về đêm, ôi, đi Mai Châu khói hương nếp thơm”
Vẻ đẹp kỳ ảo của núi rừng Tây Bắc sâu thẳm trong tâm hồn người lính nhỏ là “đóa hoa đêm” của nhà họ Mạnh, và hình ảnh nồi hương nghi ngút khói đến từ “mùa lặng” – mùa vàng ruộng bậc thang đầy hạt và bát cơm nếp thơm. Lính Hà Thành cũng hào hứng và say đắm trước vẻ đẹp của chiều mây:
<3
Mục đích Xibing vào là để hòa vào màn sương mờ ảo trên sườn núi trong “buổi chiều sương hôm ấy” và hòa vào “linh hồn lau sậy” phấp phới theo gió bên bờ. Và bằng con mắt lãng mạn của mình, bạn còn có thể ngắm nhìn vẻ đẹp của hoa mai, hoa mận, hoa đốm… giữa rừng hoa rực rỡ “lắc lư” bên dòng “dòng suối”. Phải có một tâm hồn thơ rất tinh tế mới có được vẻ đẹp bình dị này.
Không chỉ bị ám ảnh bởi vẻ đẹp của sông núi mà những người lính trẻ còn phải lòng với vẻ đẹp của con người nơi đây. Đó chính là vẻ đẹp của những cô gái cao nguyên xúng xính “đỡ một cây” bên lửa trại ấm áp:
“Doanh trại thắp đuốc hoa….Nhạc mục đồng làm nên thơ”
Xem Thêm : 36 câu trắc nghiệm Sinh học 11 bài 2
Chính vẻ đẹp của sự dịu dàng e ấp, vẻ đẹp của những ánh đuốc hoa rực rỡ, của tiếng tù và, của điệu nhạc đã làm cho tâm hồn lãng mạn của người lính nở hoa và chắp cánh cho những vần thơ tuyệt vời. Tuyệt. Hồn thơ của người lính miền tây là một nét độc đáo và tài hoa.
Vẻ đẹp lãng mạn còn thể hiện ở nỗi nhớ quê hương, con người mà họ gắn bó. Và khi màn đêm buông xuống, những giấc mơ Hà Nội sâu lắng hoài niệm, những cô gái Hà Nội thanh lịch vang vọng trong nỗi nhớ “Đêm mơ người đẹp Hà Nội”.
Người lính Tây phương không chỉ đẹp ở vẻ hào hoa mà còn ở sự dũng cảm, ngoan cường. Dù chiến đấu trong hoàn cảnh khó khăn nhưng các anh luôn cố gắng vượt qua. Nơi bạn đang du lịch là những ngọn núi hùng vĩ “vòng vèo” đến “ngàn thước”, những sườn đồi dốc đứng “thâm sâu” và “hút hồn” đến “choáng ngợp”
“Lên khúc quanh co,.. ngàn thước lên, ngàn thước xuống”
Không chỉ vậy, ở vùng núi hoang vu và sương mù, các chiến binh còn phải đề phòng những con thú nguy hiểm và đáng sợ:
“Chiều chiều thác nam gầm thét, đêm hổ dữ chọc cười”
Không chỉ có núi rừng hoang vu hiểm trở, lính Tây còn phải đối phó với căn bệnh sốt rét, căn bệnh khiến tóc không mọc được, da dẻ xanh xao. Cũng giống như “đội quân không mọc tóc”, “quân đội xanh”.
Tuy nhiên, dù khó khăn, gian khổ, thiếu thốn đến đâu, những người lính vẫn dũng cảm, hào hoa và khỏe mạnh. Băng qua những đỉnh núi hùng vĩ, đứng trên đỉnh núi cao vút tận mây, người lính này vẫn ung dung tự tại, noi gương “một phát lên trời”. Dù bệnh tật, chiến binh vẫn dũng cảm:
“Tây quân không mọc tóc…
Bắt đầu gửi ước mơ qua biên giới”
Những người lính so sánh “đội quân không có tóc” thậm chí không có tóc dài. Một cách nói rằng không mọc tóc là bình thường và không mọc tóc cũng không sao. Với các anh, tuy nước da xanh nhưng càng oai phong, kiêu hãnh, “sợ hãi” hơn, như thể hiện ý chí sắt đá, hiên ngang, giữ vững ý chí, tinh thần chiến đấu. Điều đó khẳng định tinh thần, ý chí bất khuất của những người lính trẻ, mang khát vọng mãnh liệt về một đất nước độc lập, tự do và nhiệt huyết sôi sục của tuổi trẻ.
Hình ảnh người lính Tây Phương nổi bật nhất là bi tráng và hào hùng:
“Rải rác bên bờ lăng mộ xa xa… Mã Giang một mình đi lại gầm thét”
Nhà thơ nhìn thẳng vào sự thật, không trốn tránh cái chết, sự thật tất yếu của chiến tranh ác liệt. Nhưng sự hy sinh đó cũng bi tráng và hào hùng như của những anh hùng đã từng phục vụ trong quân đội năm xưa. Hình ảnh những ngôi mộ nơi vùng biên giới xa xôi trông thật đau thương, tuy không bi thương nhưng rất bi thương. Đồng hành cùng chiếc “áo bào” oai phong đưa các anh về với Tổ quốc thiêng liêng là “độc cô cầu hồn” tiễn đưa các anh. Màu cổ kính hiện lên trong thơ độc đáo và đẹp đẽ. Dựng tượng đài hùng tráng những người lính Tây tiến oai hùng, trang nghiêm, bi tráng.
Đọc bài Tây du ký của nhà thơ Quảng Đông, người đọc có thể cảm nhận được vẻ đẹp hào hùng, lãng mạn, dũng cảm, anh dũng của những người lính Tây tiến, đặc biệt là vẻ đẹp bi tráng, hào hùng. Bài thơ là một bài ca đẹp còn vang vọng đến thế hệ trẻ hôm nay mãi mãi ghi nhớ công lao to lớn của những người đã hy sinh vì hòa bình, ấm no, hạnh phúc của dân tộc.
Bài 4
quang dũng là nhà thơ quân sự đa tài, có tấm lòng bao dung, nhân hậu. “Tai Tian” là bài thơ tiêu biểu trong đời thơ của Quang Dũng, là kết tinh kinh nghiệm chống Pháp của ông cùng các đồng chí trong Tây quân. Thành công nổi bật của bài thơ này là ở chỗ nó đã khắc họa được hình tượng người lính Tây Tiến vừa mang dáng dấp của người lính xưa, vừa mang vẻ đẹp hiện đại của người lính thời chống Pháp.
Đọc về phương tây, có câu “bộ đội ở đây mang dáng dấp của bộ đội ngày xưa”, có câu lại nhấn mạnh “hình ảnh bộ đội thời chống Pháp mang vẻ đẹp của người lính”. Hai quan điểm này tưởng chừng như đối lập nhưng lại hoàn toàn thống nhất với nhau, bởi chúng đều là những nét đẹp trong hình tượng quân nhân điển hình của phương Tây. Quy luật của văn học trung đại, “mang vẻ đẹp của người lính vào thời chống Pháp” là hướng đến vẻ đẹp của người chiến sĩ Vệ quốc đoàn thời kỳ chống Pháp thời hiện đại.
Xuất hiện trước tiên là hình ảnh người lính Tây phương oai phong, lẫm liệt, hiên ngang với phong thái bất khuất, coi thường cái chết như lá cờ đỏ:
<3
Hình ảnh những người lính miền Tây được đặt trong một không gian cổ kính và hào hùng, gợi cho người đọc nhớ về không gian bi tráng xa xưa nơi những người lính anh dũng chiến đấu. Trong bài thơ “Trời Thái”, tác giả Quang Dũng sử dụng hàng loạt từ Hán Việt như “biên giới”, “tháp đất”, “áo dài” để tăng thêm phần trang trọng và khiến người ra về. Những người lính xoa dịu nỗi đau và thánh hóa sự im lặng. hy sinh.
Không gian chiến trường trong bài thơ “Đi về miền Tây” dường như là một vùng đất xa xôi, một biên cương, đây là chiến trường và cũng là nơi những người lính vô danh yên nghỉ mãi mãi “Đời xanh không tiếc”. Tôi đành chịu, bộ quần áo không lành lặn trên người những người lính ấy cũng là “quần áo cho nó về quê”. Tuy nói về sự mất mát, hi sinh ấy nhưng nhờ sử dụng ngôn ngữ trang trọng, hình ảnh ước lệ nên sự hi sinh ấy trở nên thiêng liêng, cao đẹp.
Không chỉ có vẻ đẹp của những người lính lão thành mà còn có vẻ đẹp của Quân giải phóng nhân dân Trung Hoa thời chống Pháp vừa hào hùng vừa lãng mạn. Với tinh thần bảo vệ Tổ quốc trong cuộc kháng chiến chống Pháp, các chiến sĩ nghĩa quân miền Tây đã anh dũng giết giặc, thề phục vụ cho sự nghiệp lớn của đất nước:
<3
Cuộc sống khó khăn, vật chất thiếu thốn, nguy hiểm rình rập khắp nơi nhưng những người lính ấy không bao giờ nản chí, họ luôn lạc quan, vui vẻ thể hiện sức sống mãnh liệt. Một chàng trai thành thị đầy lãng mạn và mộng mơ:
“Gửi Mộng Qua Biên Giới Đêm Mộng Tương Mai Hà Nội”
Cuộc sống trong quân ngũ tuy gian khổ nhưng các chiến sĩ vẫn một lòng xông pha nơi biên cương, tinh thần đánh giặc cao. Sự bền bỉ và dũng cảm trong trận chiến đi kèm với những khoảnh khắc lãng mạn và vĩ đại khi các chàng trai nhớ đến sự hiện diện của Kawaii. “Tây Du Ký” mang dáng dấp hào hùng của những người lính Vệ Quốc, đồng thời cũng thể hiện nét đẹp tinh nghịch trẻ trung mơ mộng lãng mạn của lứa tuổi đôi mươi. Cũng chính sự lạc quan, yêu đời và những cảm xúc rạo rực lãng mạn đã mang lại cho doanh trại – sự uy nghiêm của kỷ luật nghiêm minh, rực rỡ và ấn tượng bởi “Hội đuốc hoa”.
Hình ảnh những người lính Tây tiến cũng gắn liền với những sự kiện lịch sử có thật, đó là những cuộc hành quân của những người lính Tây tiến, những địa danh xuất hiện trong bài thơ cũng là những địa danh có thật. Ngôn ngữ thơ trần tục như lời thủ thỉ của người lính.
Như vậy, hai quan điểm về thơ ca phương Tây tưởng chừng đối lập nhưng lại hoàn toàn thống nhất, bởi chúng cùng hoàn thiện vẻ đẹp của người lính phương Tây, ở sự kiên cường, dũng cảm và lãng mạn.
Bài 5
quang dũng là gương mặt tiêu biểu của thơ ca kháng chiến Việt Nam. Tác phẩm của ông để lại không nhiều nhưng đã để lại ấn tượng sâu sắc, đậm nét trong lòng người đọc, đặc biệt là các tác phẩm phương Tây. Điều để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc không chỉ là khung cảnh núi non kỳ vĩ, mộng mơ mà còn là hình ảnh người lính kiên trung, anh dũng, có lý tưởng sống cao cả, sẵn sàng xả thân vì Tổ quốc bất cứ lúc nào. Hình ảnh người lính trong các tác phẩm phương Tây mang một cảm xúc thẩm mĩ rất độc đáo và đặc sắc, tiêu biểu cho phong cách thơ Quảng Đông.
“Tây Du Ký” ra đời năm 1948. Ở lưu vực sông, nhà thơ chuyển quân sang miền Tây nhận nhiệm vụ khác. Chính hoàn cảnh sáng tác này cho thấy toàn bộ tác phẩm chìm trong một thứ hoài niệm vừa da diết, thiêng liêng, vừa khắc khoải.
Ở khổ một và khổ hai của bài thơ, nổi bật nhất là hình ảnh thiên nhiên và con người nơi núi rừng khi đoàn quân Tây tiến qua, hình ảnh những người lính Tây dù chỉ xuất hiện một cách gián tiếp nhưng cũng gợi cho người đọc những cảm xúc hình ảnh. Ở phần thứ ba, nhà thơ dành tất cả tình cảm và tài năng của mình để tạc nên bức chân dung người lính Tây tiến oai hùng trong nền văn học Việt Nam. Người lính được khai thác triệt để từ ngoại hình đến tâm hồn, lý tưởng, từ tính mạng chiến đấu đến sự hy sinh.
Đầu tiên là về hình thức bên ngoài, hình ảnh phân lượng rất chân thực:
Tây quân không mọc tóc, nhưng quân xanh dữ dội
Xem Thêm: Sự tử tế là gì? Ý nghĩa của sự tử tế trong cuộc sống
Hình ảnh quân đội phương Tây rất chân thực: không tóc, quân xanh. Trút bỏ mọi ảo ảnh, những hình ảnh ấy vẽ nên bức tranh về cuộc sống và sinh hoạt của những người lính. Đưa người đọc vào một hiện thực khắc nghiệt, gai góc, hình ảnh người lính miền Tây đã bị bóp méo bởi sự thiếu thốn tư liệu và sự dày vò của những cơn sốt rét rừng. Họ xuất hiện trong những hình ảnh rất kỳ lạ: tóc rụng, da xanh như lá. Những bài thơ khác đề cập đến thực tế này, chẳng hạn như:
Đời, gió bụi, máu xương trộn lẫn, đói lạnh rách da cắt thịt, mặt mũi ốm yếu, hoa về đâu còn tươi
Tuy nhiên, đích đến của quang dũng không phải là hiện thực trần trụi mà xuất phát từ hiện thực ấy, nhấn mạnh ý chí, nghị lực phi thường của người chiến sĩ. Vì vậy, nó trái nghĩa với cứng cỏi, khắc nghiệt và nó là hình ảnh rất oai phong của người lính. Dù làn da tái nhợt nhưng anh vẫn toát lên khí chất “dữ dội và uy nghiêm”. Tạo khí thế và bản lĩnh vững vàng, sẵn sàng vượt qua khó khăn của người chiến sĩ.
quang dũng đi sâu bàn về khía cạnh thứ hai trong tâm hồn của những người lính Tây Phương tưởng như đối lập nhau nhưng thực ra lại rất thống nhất, đó là tâm hồn lãng mạn và phóng đại:
Đôi mắt tuyệt vời gửi ước mơ xuyên biên giới Đêm mơ Hà Nội
Hình ảnh “nhìn chằm chằm” diễn tả chính xác cái nhìn dữ dội, căm thù của người lính dành cho kẻ thù. Nó thể hiện lòng căm thù giặc sâu sắc và khát vọng giết giặc lập công, bảo vệ đất nước. Giấc mơ của một người lính là khía cạnh dễ nhận biết nhất của bất kỳ người lính nào trong Chiến tranh chống Nhật Bản. Nhưng sự tinh tế và nhạy cảm của tác giả nằm ở sự quan sát sâu sắc những góc khuất trong lòng người lính. Hình ảnh “Tương Kiều” là dáng thướt tha, yểu điệu của người con gái Hà Nội, đồng thời cũng gợi lên sự nồng nàn rất riêng của Hà Nội, của hương hoa sữa. Ước mơ là động lực giúp họ sống dũng cảm và chiến đấu dũng cảm.
<3
Tiếp tục phong cách nhất quán ở đầu tác phẩm, ở đây quang dũng thêm vào một bức tranh chân thực hơn. Không gian biên viễn, mồ mả rải rác tạo cảm giác tang thương, tang tóc, tang tóc. Nhưng hiện thực không chìm vào nỗi sầu, bởi ngay sau khi tác giả viết bài thơ khẳng định lí tưởng của người lính Tây Tiến, cảm hứng sầu muộn đã biến thành bi kịch. Những người lính miền Tây ý thức rất rõ về cuộc sống “xanh” – tuổi trẻ, ước mơ, khát vọng, nhưng họ cũng rất ý thức về những mất mát, hy sinh khi ra trận. Nhưng phản ứng của người lính trước cái chết không phải là run sợ mà là sự lựa chọn chủ động, quyết đoán. Các từ “không hối tiếc” và cấu trúc câu chủ động làm rõ điều này. Nhà thơ Quang Dũng đã đặt những người lính trước thử thách khắc nghiệt nhất và phải lựa chọn giữa sự sống và cái chết, từ đó làm nổi bật lý tưởng sống cao cả của họ. Lý tưởng sống cao cả đó không chỉ của riêng Tây quân mà của tất cả những người lính: “Ta ra đi không phàn nàn/Mà tuổi hai mươi chẳng tiếc/Nhưng tuổi hai mươi ai cũng sẽ tiếc/Mà ta sẽ tiếc Tổ quốc/Việt Nam ơi! “Chỉ chết cho bạn/chúng tôi. “
Áo không phản chiếu nơi khác, Mã Giang đơn ca
Khổ thơ đầu vẫn là một khắc họa hiện thực rõ nét về những thiếu thốn đã đồng hành cùng những người lính không chỉ trong chiến tranh mà còn ở bên họ cho đến giây phút hy sinh. Vì vậy, ngay cả tang lễ cơ bản nhất cũng không thể thực hiện được, thi thể phải được đắp bằng đệm. Bằng tất cả tình yêu thương và sự kính trọng, Quang Brave đã biến cái chết có phần đau khổ trở nên vô cùng trang nghiêm, khoác lên mình chiếc áo cà sa cho đồng đội – trang nghiêm, uy nghiêm. Từ “về đất” được nói giảm nói tránh làm giảm đi nỗi buồn, sự mất mát, đồng thời tạo cho người lính một tâm trạng vô cùng thư thái, thanh thản trước lúc hi sinh. Ở đây, cái chết không phải là sự hy sinh, mà là sự trở về với đất mẹ. Để đưa binh lính về với đất mẹ, Mã Giang đã độc tấu một tiếng gầm dữ dội và uy nghiêm, đưa người về cõi tiên.
Với sự kết hợp hài hòa giữa hiện thực và lãng mạn, bút pháp tinh tế, sắc sảo, Quảng Đông đã dựng thành công chân dung người lính Tây Tiến. Người lính Tây Phương có một ý chí riêng, một ý chí quật cường như bao người lính khác, lại mang một nét lãng mạn và một chiều sâu tâm hồn vào một bức tranh vô cùng độc đáo. Hình ảnh người lính Tây Tiến là linh hồn của cả bài thơ, đi vào văn học Việt Nam nhưng lại là một trong những hình tượng tinh tế nhất về đề tài người lính.
Bài 6
quang dũng dựng tượng chiến sĩ vô danh trong khổ thơ thứ ba của bài thơ tây du. Có thể coi phần thứ ba này là nét chấm phá cuối cùng để hoàn thiện tượng đài những người lính Tây Tiến anh dũng, anh dũng.
Chân dung người lính hiện lên trong phần ba kết hợp hoàn hảo giữa vẻ đẹp tâm hồn, lí tưởng chiến đấu và phẩm chất hi sinh anh dũng. Có thể nói, cả bài thơ là một tượng đài quân nhân đầy màu sắc bi tráng trong một bối cảnh dị thường.
Những bức chân dung quân Tây khắc bằng nét cọ vừa chân thực vừa lãng mạn. Dựa trên hiện thực cuộc sống, nó phản ánh hồn thơ Quảng Đông, rồi xuất hiện trong những trang thơ hấp dẫn và những chi tiết khác. Trên đường đi, hình tượng anh hùng không ngừng tỏa sáng, phải đến khi những người lính phương Tây đối mặt với dịch bệnh và đối mặt với cái chết, họ mới lóa mắt, nét mặt sắc sảo đến kinh ngạc và tràn đầy lãng tử. Lãng mạn:
Xích quân trụi lông, quân xanh dữ tợn.
Ở đây Quảng Đông dùng từ lạ. Chẳng hạn, ở đầu bài thơ tác giả dùng “Đoàn quân”, ở đây tác giả dùng “Đoan quân”. Cũng là quân đoàn nhưng cách dùng từ “binh đoàn” khiến người ta liên tưởng đến một nhóm chiến binh tay cầm vũ khí, đầy tinh thần chiến đấu chiến thắng bệnh tật. Ba từ “không mọc tóc” là đảo ngược của bị động thành chủ động. Không còn những người lính chết vì sốt rét trong rừng và rụng hết tóc. Giọng điệu của câu thơ như thể họ cố tình không mọc tóc. Những gì bạn nghe thấy là sự kiêu ngạo và tự hào, và những gì bạn thấy là sự mỉa mai rất quân sự.
“Quân xanh tóc xù” mô tả chi tiết cuộc sống vô cùng khó khăn của những người lính trong vùng hành quân đặc biệt. Di chứng của những trận sốt rét rừng triền miên là “tóc không mọc” và da xanh xao. Nhưng trái ngược với vẻ ngoài phờ phạc đó lại là một sức mạnh nội tâm phi thường toát ra từ tư thế “dữ dội” ấy. Đối lập rõ rệt về nghệ thuật, chỉ hai dòng thơ của Quảng Đông đã làm nổi bật sự kỳ lạ của Tây quân. Hai câu cuối hiện lên như một hình ảnh đấng trượng phu:
Đôi mắt tuyệt vời gửi ước mơ xuyên biên giới Đêm mơ Hà Nội
“Mắt thủy tinh” chỉ sự mạnh mẽ trấn áp hận thù, có khả năng thiêu đốt kẻ thù nhờ ánh sáng trong mắt. Bức tranh nên thơ thể hiện ý chí quật cường của đoàn quân miền Tây. Ở đây, qua những từ như “không mọc tóc”, “quân xanh” nói lên sự mệt mỏi, gian khổ của những người lính ở miền Tây. Chính từ hiện thực ấy, hình ảnh người lính hiện lên sống động, chân thực. Tuy nhiên, vượt qua khó khăn, thiếu thốn, tâm hồn người chiến sĩ vẫn cất cánh “Đêm mơ Hà Nội, tuổi thanh xuân tươi đẹp”. Đoạn thơ này là hiện thân của vẻ đẹp tâm hồn người lính. Ban ngày ước mơ chinh phục hướng về chiến trường, nhưng khi im tiếng bom đạn thì ước mơ lại hướng về phía trước, về tương lai hứa hẹn. Một ngày nọ, Victory tìm lại giấc mơ xưa, với một ý chí mạnh mẽ và những cảm xúc nồng nàn. Hai nét đẹp hòa hợp trong tính cách của chàng trai miền Tây.
quang dung sử dụng hình ảnh đối lập: một bên là nấm mồ, một bên là chí chiến sĩ:
Tiêu tán bên mộ, xa chiến trường, tuổi trẻ không tiếc nuối. Quần áo thay anh trên mặt đất, và dòng sông gầm lên và hát một mình.
“Mộ nông” là ngôi mộ ở nơi xa vắng, lạnh lẽo. Trong suốt chặng đường hành quân, những ngôi mộ lần lượt nằm rải rác nhưng không ngăn được quyết tâm ra đi của những người lính. Câu kệ sau đây là câu trả lời có thẩm quyền cho những người đứng trên cái chết:
Ra chiến trường không tiếc nuối, sống đời xanh tươi.
Chính tình yêu quê hương sâu nặng đã khiến người lính ấy coi cái chết như ở nhà. Sẵn sàng hy sinh vì đại nghĩa khi cần, họ điềm tĩnh và bình yên như đang ngủ. Câu này nghe như lời thề sống chết vậy:
“Chiếc áo phản chiếu anh về với đất”
Nếu như các vua chúa ngày xưa có lý tưởng đội lốt ngựa, thì ngày nay các liệt sĩ chiến đấu và hy sinh cho đất nước một cách thầm lặng và tự nhiên. Hình ảnh “chiếc áo bào” tôn thêm không khí trang trọng, cổ kính cho người lính tử trận. Từ láo lấy từ văn cổ tái hiện vẻ đẹp của người anh hùng nhưng cũng làm lu mờ đi hiện thực nghèo khổ, gian khổ nơi chiến trường. Nó cũng khơi dậy tinh thần của những người thanh niên “dạo mưa gió, khoác da ngựa xông trận, hiên ngang tiến lên”. Từ “trở về” thể hiện tâm trạng nhẹ nhõm, hào hùng của người anh hùng khi sắp chết. “Ông về với đất” là một hình ảnh ngợi ca mạnh mẽ. Sau khi hoàn thành sứ mệnh thiêng liêng, những người lính miền tây đã trở về nơi mình sinh ra sau khi bảo vệ Tổ quốc, quê hương và đồng đội trong vòng tay. Cái chết của Noble bên bờ Mahe là một minh chứng và một lời vĩnh biệt.
Mở đầu bài thơ, ta bắt gặp ngay hình ảnh Mahe, liên tưởng đến lịch sử cầm quân phương Tây. Má Ông đã thấy hết gian khổ, thấy hết chiến công, nay lại chứng kiến sự hy sinh của các chiến sĩ. Cả bài thơ kết thúc bằng khúc nhạc buồn của Mã He.
“Cảnh Mahe gầm”
Mahe là chứng nhân của thời đại anh hùng, chứng kiến cái chết của những anh hùng, nó gầm lên những khúc ca bi thương và phẫn nộ, chấn động cả vùng hoang vu. Những câu thơ mang không khí của một trận thư hùng xa xưa. Câu thơ này nói lên sự mất mát đau thương nhưng vẫn hào hùng.
Bốn kết thúc:
Câu thơ cuối bốn dòng như khắc trên bia mộ. Những dòng sông ấy cũng là lời thề của những người lính Vệ Quốc Đoàn.
“Ai sẽ về miền tây mùa xuân”
“Mùa xuân” mang nhiều ý nghĩa: khi Tây quân được thành lập (mùa xuân năm 1947), mùa xuân của quê hương, mùa xuân của đời người lính (tuổi trẻ).
“Về núi hồn không về” và “Không thể quay về” để lại hình ảnh hành quân của chính mình. Bởi vậy, dù có ngã xuống đường hành quân thì tâm hồn (tình anh em) vẫn đi cùng đồng đội, vẫn sống trong lòng đồng đội: Vang vọng văn chương của Nguyễn Đình Chiêu: “Sống là đánh giặc, là thác còn đánh giặc .”
Bài 7
Nói đến chống pháp luật, chúng ta sẽ nghĩ ngay đến những người lính nông dân trong “Đồng chí công lý”: “Quê anh đồng chua nước mặn/ Làng tôi đất cằn sỏi đá”. Cũng không thể không nhắc đến những người lính đánh Tây trong bài thơ cùng tên của nhà thơ Quảng Đông. Quang đã dũng cảm dựng nên tượng đài bất tử cho những chiến sĩ không tên tuổi, dũng cảm, bất khuất bằng ngòi bút kết hợp giữa hiện thực và lãng mạn.
Tây tiến là sự kết hợp hài hòa giữa chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa lãng mạn nên chân dung người lính cũng được tác giả tái hiện. Thay vì vẻ nhút nhát ban đầu như những người lính trong bài “Đồng chí”, những người lính Tây mang trong mình nét của một tầng lớp trí thức thượng lưu, vừa nhanh trí, vừa hào hoa và rất tài giỏi.
Bài thơ mở đầu bằng nỗi nhớ nhung, khắc khoải:
<3
Ta biết nỗi nhớ nhung của trai gái trong câu ca dao “như đứng trên đống lửa, như ngồi trên đống than”,… có nhau”. Đó là một nỗi nhớ rất đặc biệt, ấn tượng. Dù tôi chơi với anh ấy, nhưng nó rất sâu và rất dễ lây lan. Cũng chính từ nỗi nhớ này, Quang đã dũng cảm đi tìm những ký ức về người đồng đội trong vòng tay mình.
Hình ảnh đầu tiên trong ký ức của anh là đoàn quân hành quân trong sương mù: “Xi Si Lu Lu Lao Lao”. Miêu tả chân thực và chân thực về hành trình gian khổ của họ, họ không chỉ phải đối mặt với sự thiếu thốn về vật chất mà còn cả thiên nhiên và khí hậu khắc nghiệt. Nhưng đằng sau đó cũng cho thấy tinh thần bất khuất của những chiến binh này.
Chân dung người lính vô danh tiếp tục được khắc họa bằng một phong cách hiện thực khác:
Người bạn luộm thuộm không đi nổi nữa, ngã vào họng súng và quên mình
Trong cuộc Trường chinh, những người lính phải đối mặt với muôn vàn khó khăn: địa hình hiểm trở, khí hậu khắc nghiệt, thiên nhiên hoang vu, hiểm nguy… Nhiều người đã phải bỏ mạng nơi rừng thiêng nước độc. Cách tác giả xưng hô với bạn bè cũng đầy tình cảm yêu thương, nhân hậu, kính trọng và ngậm ngùi. Một câu nói tránh “bạn bè lêu lổng không còn đặt chân” làm cho cái chết bớt bi thảm hơn, đồng thời cũng làm cho toàn văn không nhuốm màu bi kịch.
Sau những dòng mờ nhạt, phải đến đoạn thứ ba, chân dung người lính Tây Tiến mới được phác họa rõ nét:
Tây quân không mọc tóc, nhưng quân xanh dữ dội
Đây là hình ảnh trung tâm, hài hòa với vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên và vẻ đẹp hào hùng của con người – đây là sự kiên cường, anh dũng của đoàn quân Tây tiến. Họ là những con người không quản ngại khó khăn, cần cù, hết mình và lên đường bằng sức trẻ, niềm tin và khát vọng. Vì vậy, trước những cơn sốt rét rừng, họ không hề sợ hãi, còn chủ động nói “không mọc tóc”, đó là sự khẳng định lòng dũng cảm của họ. Màu da xanh mướt như lá rừng, đầy uy nghiêm và hung dữ. Trông họ thật uy nghiêm, kiêu sa nhưng cũng vô cùng lãng tử, hào hoa:
Đôi mắt tuyệt vời gửi ước mơ xuyên biên giới Đêm mơ Hà Nội
Đây là một thái cực hoàn toàn đối lập và chúng ta khó có thể tưởng tượng được lại tồn tại song song và hài hòa như vậy ở những người lính phương Tây. Câu đầu tiên hiện lên hình ảnh người lính, với khí phách hào hùng của một người đàn ông: “Là đàn ông thì đáng mặt đàn ông/ Mùa đông tới lặng đi, đi yêu thêm, yêu thêm mặt”. Và nó thể hiện ánh mắt đầy cảnh giác, đầy căm phẫn trước kẻ thù, thể hiện lí tưởng anh hùng, thể hiện khát vọng vươn cao, vươn xa. Nhưng những dòng sau đó thật dịu dàng và mơ màng. Tất cả các loại vẻ đẹp, thơ mộng và đẹp như tranh vẽ. Sự xuất hiện của hình ảnh những cô gái xinh đẹp thành thị đã làm giảm bớt sự tàn khốc của chiến tranh và tiếp thêm nguồn sức mạnh mới cho những người lính.
Trong phần tiếp theo, quang dũng lại nhìn thẳng vào thực tại, một thực tại chết chóc, đau khổ:
<3Vì chiến tranh và thời tiết xấu, nhiều binh sĩ đã phải bỏ mạng trong cuộc hành quân, và những ngôi mộ của họ nằm rải rác ở vùng biên giới lạnh giá và xa xôi. Bài thơ này sử dụng hàng loạt từ Hán Việt: biên cương, xa xôi để tạo nên sự trang trọng, thành kính. Những câu tiếp theo càng làm nổi bật tinh thần của những người lính, họ đã để lại tuổi thanh xuân tươi đẹp nhất không tiếc nuối. Bởi trên con đường ấy, họ đã tìm thấy cho mình lý tưởng sống tốt đẹp hơn: hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc. Cũng vì lý tưởng đó mà cái chết của họ cũng được tác giả lý tưởng hóa, khiến chúng trở nên trang trọng và thiêng liêng hơn:
<3
Anh khoác lên mình “chiếc áo” trở về đất mẹ, trở lại thuở ban đầu. Cái tiễn đưa họ là tiếng gầm của sông vừa thể hiện sự tiếc thương, vừa là tiếng gầm của sông núi, tri ân những người con anh dũng sẵn sàng hy sinh thân mình cho mảnh đất này.
Kết hợp hài hòa giữa hiện thực và lãng mạn, chân dung người chiến sĩ vô danh được khắc họa hết sức hào hùng và cao đẹp. Ở họ không chỉ có sự ngang tàng của những anh hùng, sự ngông cuồng của những bậc anh hùng, mà còn có cả sự hào hoa vô cùng lãng mạn của những người lính phương Bắc. Chính họ, những con người vô danh ấy, đã lên đường, hiến dâng tuổi thanh xuân, hy sinh quên mình, giành độc lập cho Tổ quốc, làm nên non sông đất nước.
Mô hình 8
Hình ảnh người lính nói chung, đặc biệt trong thời kỳ chống Pháp đã đi vào văn học như một nguồn thơ. Những người lính được nhà thơ miêu tả đầy kiêu hãnh và tự hào. Trong số nhiều tác phẩm như vậy, bài thơ này chiếm một vị trí đặc biệt.
“Tây Du Ký” là một trong những bài thơ sớm nhất viết về người lính cách mạng, ra đời trong những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống Nhật, sau năm 1945 trở thành một kiệt tác của thơ ca Việt Nam với hình ảnh những người lính đi về hướng Tây. Tay tien là một đơn vị bộ đội được thành lập vào đầu năm 1947 để phối hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới Việt Lào và đánh bại quân Pháp ở Thượng Lào và Tây Bắc Việt Nam. . Quân miền Tây đóng quân và chiến đấu trên một địa bàn rất rộng, bao gồm tỉnh Sơn La, tỉnh Lai Châu, tỉnh Hòa Bình, tỉnh miền Tây Thanh Hóa và cả tỉnh Sán Nú (Lào).
Xét về lý lịch, hầu hết Tây quân là thanh niên Hà Nội, nhiều người trong số họ là sinh viên. Mặc dù điều kiện chiến đấu gian khổ, thiếu thốn, sốt rét hoành hành nhưng các chiến sĩ miền tây vẫn sống rất lạc quan và chiến đấu rất dũng cảm. Có thể nói, những người lính thủ đô tham gia Kháng chiến đã mang đến cho người dân thủ đô những giấc mơ, sự lãng mạn và những dịp trọng đại.
Bài thơ được hình thành trong một nỗi nhớ da diết, nỗi nhớ đồng đội, nhớ đời, là kỉ niệm khó quên của chính tác giả với đoàn quân Tây tiến. Nỗi nhớ ấy đã đánh thức mọi ấn tượng và kỉ niệm, cô đọng lại trên chân dung những người lính Tây Tiến.
Bằng bút pháp lãng mạn nhưng không xa rời hiện thực, bài thơ này đã khắc họa nên hình tượng người chiến sĩ trường tồn, bất tử với thời gian và không gian.
Trước hết, đây là nét mạnh mẽ, kỳ lạ trong ngoại hình của lính Tây:
Tây quân không mọc tóc, nhưng quân xanh dữ dội
Xưa ta thấy “đội xe không kính” hóm hỉnh trong thơ Phạm Tiên Đô, nay lại thấy “đội quân không tóc” trong thơ Quảng Dung. Nhưng nét cường tráng, dị hợm của lính Tây bắt nguồn từ thực tế đến từng chi tiết. Cũng rõ, không tóc là hậu quả của những trận sốt rét rừng rú, nước độc rừng thiêng, thuốc men không lai lịch của quân hàm xanh. Ngay trong những bức chân dung Vệ quốc đoàn trong bài viết về cá nước, ông cũng không khỏi nhắc đến tác hại khủng khiếp của căn bệnh quái ác đó:
Những giọt mồ hôi trên má
Nhưng ẩn sau vẻ bề ngoài là sức mạnh bên trong, đó là tâm hồn và bản lĩnh của những người lính miền Tây:
Mắt cười gửi mộng qua biên giới Hà Nội thơm đẹp như đêm mơ
Nếu khổ thơ đầu nhấn mạnh từ ước mơ thì khổ thơ thứ hai nhấn mạnh từ “ước mơ”. Bài thơ này không chỉ mang theo ước nguyện suốt đời của những người lính ở phía tây, mà còn mang theo đích đến cuối cùng. Từ “slam” được sử dụng rất tốt. Người đọc có cảm giác rằng tất cả những ước mơ và khát khao chân thành đang trào dâng và lấp đầy đôi mắt của người quân nhân. Câu thơ đó làm tôi liên tưởng đến một bức tranh thơ quen thuộc:
Đêm dài hành quân nóng nực bỗng thao thức nhớ ánh mắt người yêu.
(Đất Nước – Nguyễn Đình)
Vốn dĩ, đích đến cuối cùng của người lính bao giờ cũng là hạnh phúc. Nỗi nhớ của họ cũng dành cho “Xiangmeiren”, tức những nhân vật mảnh khảnh, duyên dáng và sang trọng ngoài đời thực. Họ chiến đấu vì tự do, độc lập, nhưng trên hết là vì cuộc sống tương lai hạnh phúc mà họ hằng mong ước. Chính vì thế “dáng thơm” trở thành điểm tựa, hi vọng tiếp thêm sức mạnh để họ chiến đấu và chiến thắng.
Những người lính Tây phương sống anh dũng và chết anh dũng. Quang dũng cảm không muốn trốn tránh hiện thực khắc nghiệt nhất, đau đớn nhất, tàn khốc nhất của chiến tranh, đó là sự hy sinh:
Người bạn liêu xiêu bước không nổi, gục đầu bên họng súng quên đời; — điểm xuyết bờ mộ, xa đời xanh không hối hận chiến trường;
Nhân vật chính ba lần nhắc đến hy sinh, nhưng lần nào cũng là ẩn dụ, tránh dùng từ “chết”. Dường như khi Xi Bing ngã xuống, đó chỉ là một khoảnh khắc nghỉ ngơi trong cuộc đời anh. Chết không có nghĩa là ngừng chiến đấu vì linh hồn, vì khát vọng của anh ta bất tử theo thời gian. Anh đã ngã xuống, nhưng anh vẫn truyền ngọn lửa tuổi trẻ cho đồng đội, để họ bước tiếp trên con đường cách mạng vẻ vang. Sự hy sinh của các anh khiến người đọc nghẹn ngào: “Rải rác trên những bờ cõi những mồ mả”. Đảo chữ san ở đầu câu nhấn mạnh sự hiu quạnh, lạnh lẽo, hoang vắng, gợi lên nỗi đau thương nhưng lý tưởng quên mình phụng sự Tổ quốc có đôi cánh “ra trận bất chấp tất cả”. Tiếc đời xanh”. Nó xoa dịu nỗi đau và thắp lên vẻ đẹp trong lòng người chiến sĩ.
Có lẽ hình ảnh người lính Tây Tiến đã trở thành bất tử. Quỹ đạo của lịch sử có thể thay đổi, nhưng mỗi thế hệ sẽ nhắc nhở bạn rằng bạn là hình ảnh đẹp nhất. Qua hồi tưởng về Quảng Đông, những người lính ở phía tây luôn lạc quan và yêu đời trước những khó khăn, gian khổ và hy sinh. Giọng thơ có lúc thiết tha, có lúc nồng nàn, có lúc réo rắt, có lúc trầm lắng, dẫn người đọc về với quá khứ xa xưa và chia sẻ nỗi nhớ Quảng Đông sâu sắc.
Bài 9
quang dũng là một nghệ sĩ đa năng, hoạt động trên nhiều lĩnh vực nghệ thuật khác nhau: viết văn, làm thơ, vẽ tranh, sáng tác nhạc, nhưng thành công nhất là ở lĩnh vực thơ ca. Tên tuổi của ông được khẳng định bằng thơ ca ở phương Tây. Tác phẩm này giới thiệu đến người đọc hình ảnh người lính vừa hào hoa phong nhã lại vô cùng trung thành và dũng cảm. Đây chính là điểm đặc biệt làm nên thành công của tác phẩm này.
Vẻ đẹp lãng mạn và phóng đại, đó là người lính miền Tây được nhà văn Quảng Đông viết bằng ngòi bút lãng mạn. Ở họ trước hết là tư thế hào hoa, anh hùng. Họ là những chiến sĩ thuộc tầng lớp trí thức tiểu tư sản, đến chiến đấu ở biên giới phía Tây. Dù hiện thực phũ phàng cũng không thể xóa nhòa tâm hồn lãng mạn, yêu đời bẩm sinh của họ. Tầm nhìn của họ về núi non và thiên nhiên phản ánh sự hào hoa và lãng mạn của họ. Tính chất rất hung dữ, nguy hiểm: “Cong, dốc / ngoắt ngoéo”. Nhưng đó cũng là chất lãng mạn thoảng qua trong giác quan của người lính:
Dòng nước lay hoa lay động.
Cảm nhận thiên nhiên Tây Bắc theo một cách rất riêng, vừa hùng vĩ, hiểm trở nhưng cũng đầy trong lành và nên thơ. Hình ảnh những bông hoa trôi theo dòng nước là một nét chấm phá khác, cân bằng giữa bức tranh ở đây và tâm trạng của người lính.
Trong hành trình gian khổ, hy sinh là điều không tránh khỏi, nhưng từ những thay đổi nhỏ nhất của hiện thực, những người lính vẫn mang trong mình niềm tin vào tương lai. Họ vui, hạnh phúc khi ngửi thấy hương nếp hoa thơm, tưởng như đang sống trên chính quê hương của mình:
Mai Châu mùa thơm hương lúa nếp
Họ rất xúc động, say sưa trước vũ điệu man rợ của các cô gái Tây Bắc:
Doanh trại rực rỡ đèn hoa, một khi ta mặc vừa, nàng nào dám không Nghe nhạc mục tử dựng hồn thơ
Đối với những người lính đang hành quân, đây có thể là giây phút nghỉ ngơi hiếm hoi. Họ ngỡ ngàng trước vẻ đẹp của cô gái miền sơn cước vừa hoang dã vừa trìu mến. Trước tiếng kèn giả, những cô gái trẻ nhút nhát thực sự là những nhà thơ tuyệt vời và say đắm. Chất lãng mạn của người lính còn được thể hiện trong giấc mơ tiễn đưa:
Đôi mắt tuyệt vời gửi ước mơ xuyên biên giới Đêm mơ Hà Nội
Nhắc đến dáng người vừa đẹp vừa thơm của anh, chúng ta nghĩ ngay đến cô gái thanh lịch trong tà áo dài trắng. Thay vì thể hiện nỗi lòng và ước mơ gục ngã của những người trí thức tiểu tư sản, hình ảnh một thiếu nữ khác như một liều thuốc tốt, giúp họ thêm nghị lực, thêm động lực, bảo vệ biên cương của Tổ quốc: “Mắt gửi ước mơ, vượt biên ” – họ luôn sẵn sàng bảo vệ quê hương.
Không chỉ có tính thẩm mỹ lãng mạn mà những người lính còn có những nét vẽ chân thực, hình ảnh của họ trở nên rắn rỏi, rắn rỏi hơn trước. Rừng hoang hiểm trở, nơi chiến trường bao người chết: “Anh vội dừng bước/ Ngã súng quên đời”. Những người tiếp tục đi là anh hùng. Nhưng họ vẫn bị rừng thiêng dày vò thảm hại :
Tây quân không mọc tóc, nhưng quân xanh dữ dội
Đây là thực tế phũ phàng mà những người lính phải đối mặt. Không có tóc, da xanh như lá, vì sốt rét trong rừng, bộ đội nương tựa vào nhau mà qua cơn bệnh tật. Nhiều người chết không phải trên chiến trường, mà vì nước độc nơi rừng thiêng. Nhưng không vì thế mà mất đi vẻ uy nghiêm: “Ngắm mắt đưa mộng qua biên giới”. Trông họ vẫn oai vệ, ánh mắt luôn cảnh giác, sẵn sàng gặp kẻ thù bất cứ lúc nào.
Những ngôi mộ rải rác khắp biên cương… một cảnh Mã Giang gầm thét
Những người lính miền Tây đã hy sinh tuổi thanh xuân của mình để đấu tranh cho hòa bình của đất nước. Khi hy sinh các anh vẫn thể hiện tinh thần bất khuất, chiến bào, đất trời, tiếng sông gầm đưa các anh dũng về với đất mẹ. Trở về mẫu quốc chính là để hắn trường sinh, vĩnh viễn ở bên cạnh Giang Hạc cùng mẫu quốc. Bài thơ đượm buồn mà kiên cường, gợi tả sự trang trọng, hào hùng, hiên ngang, dũng cảm của người chiến sĩ.
Hành khúc về Tây của nhà thơ Quang Dũng mang đến cho người đọc một hình ảnh khác và rất thực về người lính. Sự kết hợp giữa lãng mạn và hiện thực linh hoạt, hài hòa, người lính trông oai phong lẫm liệt nhưng toát lên khí chất anh hùng, dũng cảm và cả tuổi thanh xuân hiến dâng cho đất nước.
Bài văn mẫu 10
Sự nghiệp sáng tác của Quảng Đông không nhiều màu sắc như nhiều nhà thơ khác nhưng mỗi tác phẩm của ông đều để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc. Trong sự nghiệp sáng tác của ông, nổi bật nhất là những tác phẩm phương Tây. Ông đã tái hiện thành công hình ảnh những người lính hành quân về phía Tây qua những vần thơ tinh tế và rất hiện thực.
Tây tiến
Được sáng tác tại luu chanh năm 1948 khi quang dũng rời quân ngũ đi công tác khác. Dù đã rời quân ngũ nhưng nỗi nhớ và tình yêu quân ngũ trong ông vẫn luôn mãnh liệt để ông kết tinh tác phẩm nghệ thuật này. Vì vậy, cảm xúc chủ đạo trong tác phẩm là nỗi nhớ da diết, da diết.
Ở phần đầu của tác phẩm, quang dũng tái hiện một thiên nhiên hoang sơ, bí ẩn và thơ mộng, vụt hiện trong đó, ta còn thấy bóng dáng đoàn quân hành quân về phía tây: “Anh không liêu xiêu Bước thêm một bước/ ngã Đi lên đi xuống quên đời.” Bài thơ tái hiện chân thực cái chết của người lính khi hành quân, nhưng cách nói về cái chết của Quảng Đông thật đặc biệt. Ông miêu tả cái chết bằng những hình ảnh “không còn bước đi”, “quên đời”, vừa là cách nói tránh để xoa dịu nỗi đau mất mát, mà quan trọng hơn là để tạo nên giọng thơ. Vụng về, mập mạp và trơ trẽn, những người chiến đấu không phải không nhìn thấy khó khăn, nhưng dám chấp nhận và đối mặt với thực tế. Vì vậy khắc họa gian khổ cũng là một cách tạo ra thử thách để ghi nhận những phẩm chất tốt đẹp trong quân ngũ.
Nếu hai phần đầu của bài thơ chỉ là những bức chân dung hết sức thô sơ về người lính thì ở phần thứ ba, chân dung của họ được tái hiện chân thực, rõ nét.
Tây quân không mọc tóc, nhưng quân xanh dữ dội
Hai câu đầu khắc họa nổi bật nét của những người lính Tây Phương. Bài thơ phản ánh rất chân thực về người lính không có mái tóc dài, người gầy gò xanh xao vì căn bệnh sốt rét rừng và cuộc sống còn nhiều thiếu thốn, khó khăn, gian khổ đã tạo nên vẻ ngoài khác thường của người lính. quang dũng không miêu tả hiện thực mà phản ánh hiện thực đúng như bản chất của nó. Nhưng điều ông muốn nhấn mạnh không phải là gian khổ, khó khăn mà là thấy được sự dũng cảm, thử thách phi thường của những người lính Tây Tiến. Chính vì vậy, tác giả đã xây dựng một hình ảnh đối lập với những khó khăn đó, đó là hình ảnh “sợ hãi” – một hình ảnh oai phong, lẫm liệt và vô cùng hào hùng. Kết hợp với câu chủ động “không mọc tóc” thể hiện sự oai phong, lẫm liệt, dũng cảm, sẵn sàng vượt qua mọi khó khăn trở ngại.
Đằng sau vẻ ngoài gai góc là một tâm hồn đầy mơ mộng, lãng mạn: “Ngắm sao đưa mộng qua biên giới/Đêm mộng Hà Nội Phương Hoa”. Câu đầu thể hiện tâm nguyện ngàn đời, đó là giết giặc lập công. Đôi mắt ấy chứa đầy lòng căm thù quân xâm lược nhưng cũng hừng hực khí thế chiến đấu, sẵn sàng xông pha đánh giặc. Nhưng với sự nhạy bén, nhạy bén của mình, Quảng Đông cũng phát hiện ra vẻ đẹp thâm trầm, sau lưng của những người lính Tây Phương, câu thơ thứ hai có thêm vần điệu, nhịp điệu trở nên trầm bổng, mềm mại. Từ “mơ” hàm chứa nhiều nghĩa, có thể là nỗi nhớ da diết, cũng có thể là ước mơ, khát vọng của những người lính miền Tây. Ngoài sứ mệnh cao cả là chiến đấu vì Tổ quốc, những người lính còn dành một góc nhỏ tâm hồn mình cho Tổ quốc, cho gia đình. Giấc mơ của người lính bộc lộ một thế giới tinh thần thơ mộng và lãng mạn. Khác với bộ đội nông dân, họ nhớ những điều giản dị, như: “Tôi cho bạn tôi cày đất/ Nhà không để gió thổi/ Hara giếng không đọc lính” (đồng chí-công lý). Ước mơ của những người lính xuất thân là trí thức tiểu tư sản là “thơm mỹ nhân” – dáng người yêu kiều của một thiếu nữ thành thị. Chính nỗi nhớ này đã tiếp thêm động lực và hiệu quả chiến đấu cho họ.
Nhưng cái nổi bật và cao đẹp nhất là vẻ đẹp trong lý tưởng phấn đấu của họ:
<3
Nối văn phong của phần đầu tác phẩm, ở đây tiếp tục miêu tả rất chân thực về cái chết của những người lính. Hình ảnh “San Biển” khắc họa một không gian biên cương xa xôi, nơi bao người lính đã hy sinh, bỏ xác nơi đất khách quê người. Có lẽ đây là dòng hiện thực rõ ràng nhất, đau đớn nhất, sâu sắc nhất trong toàn bộ tác phẩm của ông. Nhưng không vì thế mà bài thơ trở nên bi lụy, để rồi Người khẳng định rằng “không tiếc chiến trường, đời xanh”. Đời người chỉ có một màu “xanh”, chỉ có một tuổi trẻ tươi đẹp, nhưng họ không hề hối tiếc, sẵn sàng hy sinh vì một mục tiêu cao cả, bởi nếu “ai cũng tiếc thì đất nước còn lại gì” (thanh thao) .
..
Tải file để xem thêm phân tích hình ảnh 4 người lính Tây
Nguồn: https://anhvufood.vn
Danh mục: Giáo Dục