Bài văn phân tích khổ 3 Tây Tiến hay nhất

Phân tích đoạn 3 tây tiến

Phân tích đoạn 3 tây tiến

Phân tích Tam văn phương Tây là một trong những loại câu hỏi phổ biến nhất trong các khóa học ngôn ngữ thpt. Ta có thể thấy phần ba của Tây du ký khắc họa rõ nét nhất hình ảnh cường tráng, bi tráng của những người lính Tây du ký. Mời các bạn cùng chúng tôi tham khảo các bài văn mẫu phân tích bài Tam quy của người lính đánh Tây để cảm nhận rõ nét hơn vẻ đẹp của người lính đánh Tây.

Bạn Đang Xem: Bài văn phân tích khổ 3 Tây Tiến hay nhất

Tây tiến là một bài thơ tiêu biểu của nhà thơ Quảng Đông. Bài thơ ban đầu có tên là tôi tay tiền, nhưng sau đó tác giả đã đổi thành tay tiền, và nó được dạy trong lớp 12 tiếng Trung Quốc. Quang dũng tặng người đoạn thứ ba của bài thơ. Cùng đọc những hình ảnh chân thực nhất và cảm nhận hình ảnh người lính Tây từ ngoài vào trong. Có thể nói “Tây Du Ký” là một khúc quân ca hào hùng đã ghi vào lịch sử thơ ca dân tộc. Sau đây là bài phân tích chi tiết khổ thơ thứ ba của Tây phương, mời các bạn cùng tham khảo.

Trích dẫn:

  • Phân tích đoạn 2 của Tây du ký
  • Phân tích câu thơ Tây 4
  • Giải thích toàn văn
  • Nhà soạn nhạc của 12 con giáp
  • 1. Chủ đề phân tích

    – Yêu cầu đề bài: Phân tích nội dung mục 3 và mục 4 của Bài văn miền Tây.

    – Kiểu Bài: Dạng Nghị Luận Văn Học (Trích Đoạn Văn Phân Tích).

    – Câu luận đề: Phần 3 “Tây Du Ký” của tác giả Quang Dũng

    – Phạm vi tham khảo, văn học: cơ sở, hình ảnh, tục ngữ, chi tiết… thuộc phạm vi thơ ca phương Tây 3.

    2. Phần thứ ba của phân tích sơ đồ tư duy phương Tây

    Phân tích sơ đồ tư duy của bốn câu trong đoạn thứ ba của thơ ca phương Tây

    3. Dàn ý chi tiết của bài phân tích phần ba Tây Du Ký

    a) Dàn bài mở đầu của phân tích phần thứ ba:

    – Giới thiệu về quang dũng và tác phẩm phương Tây.

    – Giới thiệu vấn đề cần phân tích và trích đoạn thơ trên.

    b) Phân tích đoạn thứ ba của văn bản dàn ý

    * Tổng quan chung:

    – Sau khi tác giả rời đơn vị cũ thì xảy ra chuyện này. Vào cuối năm 1948, tại Luluo, Guangyong nhớ lại những kỷ niệm về Xijun và viết một bài thơ về Xixi.

    – Nội dung bài thơ: đó là nỗi nhớ chiến trường, con người, thiên nhiên Tây Bắc bằng chính sự chân thành của chính tác giả.

    Vị trí trích dẫn: khổ thơ thứ ba trong chu trình cảm xúc của cả bài thơ.

    Trích đoạn: Chân dung những người lính Tây Tiến anh dũng hy sinh.

    * Phân tích cái gì

    – Chân dung: Chi tiết hiện thực khắc họa một diện mạo rất đặc sắc đồng thời phản ánh hiện thực gian khổ, thiếu thốn, bệnh tật nơi chiến trường. Tác giả không trốn tránh hiện thực mà tất cả đều thể hiện mãnh liệt tinh thần yêu nước, căm thù giặc của những người lính đánh tây.

    – Tâm hồn phóng đại, lãng mạn, hào hùng: Qua những câu thơ “ngoáy” và “ngắm nhìn biên cương” ta thấy được lòng dũng cảm, quyết tâm của những người lính ở miền Tây.

    Lí tưởng cao đẹp: không trốn tránh hiện thực “áo phản anh về đất”, tác giả miêu tả sự hi sinh của người lính với một thái độ thanh thản, trầm lặng và cao cả, làm rung động lòng người, chấn động lòng người, tự nhiên động lòng người .

    * Nghệ thuật

    – Nét bút hiện thực khắc họa chân dung người lính gian khổ, chân thực trên chiến trường, từ Hán Việt xưa được sử dụng nhằm tăng thêm sự kính trọng, tôn trọng đối với người đã khuất, nhấn mạnh lý tưởng cao đẹp của người lính khi ra trận, miêu tả sự hy sinh , và nhấn mạnh thất bại. Trường học khắc nghiệt.

    – Nhận xét: Hình ảnh những người lính miền Tây, với giọng thơ trang trọng, có lúc trầm lắng, chứa chan tình cảm thể hiện một vẻ đẹp bi tráng, như một tượng đài người lính bất tử, khắc sâu vào lòng người, không thể nào quên.

    c) Tóm tắt các kết luận của phân tích Western Advanced Phần III:

    Khẳng định và bình luận đoạn kinh trên.

    Câu hỏi mở rộng: Hãy cho biết cảm nghĩ của em về hình ảnh người lính Tây Tiến trong đoạn thơ trên.

    3. Phân tích đoạn 3 của Tây du ký (mẫu 1)

    Tây hành là bài thơ hay nhất của Quang Dũng, cũng là một trong những bài thơ chống Pháp cứu nước hay nhất của Bác Hồ. Quang Dũng vừa là nhà thơ, vừa là chiến sĩ, cầm súng giết giặc, làm thơ. Anh viết về những người đồng đội trong vòng tay anh, về đoàn quân miền Tây thân yêu. Thơ Quang dũng bao giờ cũng nồng nàn, hiếu chiến.

    Năm 1948, sau nhiều năm xa đơn vị, xa chiến hữu, ông viết bài thơ “Tương Tây” bên dòng Đại Hà êm đềm. Cảm xúc chủ đạo của bài thơ này là nỗi nhớ và niềm tự hào về cuộc viễn chinh về phía Tây của đoàn quân, về dòng sông Mã Giang, về núi rừng phía Tây xa xôi. Nó như “chơi vơi” với bao kỉ niệm đẹp đẽ, xúc động của những năm tháng chiến tranh đầy gian khổ, hy sinh. Đó là khổ thơ thứ ba trong bài “Tây du ký”, khắc họa khí chất anh hùng và tâm hồn lãng mạn của người chiến sĩ trong máu lửa:

    “Quân đội phương Tây không mọc tóc

    (…)

    <3

    Trên đường hành quân, vượt qua những ngọn núi cao dốc “nuốt mây mù”, đoàn quân Tây tiến hiện ra trong khung cảnh núi rừng xanh tươi hùng vĩ, vừa tự hào vừa cảm động. .Người chiến sĩ áo giáp rừng lá xanh, vì ở trong rừng bị sốt rét, thiếu thuốc và thức ăn: “rụng tóc”, da như sương. Những bài thơ đã phơi bày hiện thực chiến tranh trong những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống Nhật. “Không tóc” là hình ảnh phản ánh sự khắc nghiệt của chiến trường:

    “Tây quân không mọc lông,”

    Quân xanh xông tới dữ dội. “

    Tạo hình không đẹp chút nào: “Lục quân”, “Không tóc” và “Ác” bổ sung cho nhau rực rỡ, chế tác khéo léo, thể hiện khí phách hiên ngang. Nỗi sợ. “Dữ dội vô cùng” là một hình ảnh ẩn dụ, thể hiện tinh thần quân tử quả cảm được kế thừa sáng tạo. Những chiến binh “sát thủ” trong cuộc sống trần gian: “Ba đội quân da, hổ và bò” (Fan Wulao); “Hổ ba tay, kiếm sáng và trường thương” (Zhang Hanchao). Nghĩa quân Núi Xanh đã chiến đấu với tinh thần “Bình ngô đại cáo”: “Lính ngoan thủ hổ – người này chọn làm tay sai” (binh ngo đại cáo) – dân tộc anh hùng nơi tiền tuyến, có những “con hổ” như vậy trong bất kỳ chiến binh “Ác ma” thời đại nào! Quang Dũng đã tự hào viết một bài thơ rất hay: “Quân xanh oanh oanh liệt liệt”, sử dụng “sheng” và “mộc” để làm nổi bật vẻ đẹp và lòng quả cảm ẩn chứa trong tâm hồn người chiến sĩ.

    Khó khăn, ác liệt, gian khổ, bệnh tật… muôn vàn khó khăn, thử thách nhưng vẫn còn đó một “giấc mơ” trong học tập, một “giấc mơ” thật đẹp:

    “Đôi mắt gửi ước mơ qua biên giới,”

    Trải qua một đêm mơ màng trong hương thơm tuyệt đẹp của Hà Nội.

    Xem Thêm: Hình Học Lớp 7 – Tính Chất, Chứng Minh Hai đường Thẳng Song

    Giấc mơ được gửi đến hai đầu thế giới: biên giới và Hà Nội, nơi còn in bóng quân thù. “Mắt thủy tinh” – khắc họa sinh động sự dữ dội, uy nghiêm, tinh thần cảnh giác cao độ của người lính nơi khói lửa. “Ước mộng” – ước mơ tiêu diệt quân thù, bảo vệ biên cương, lập nhiều chiến công, tiếp nối truyền thống anh hùng của Tây quân. Mơ giấc mơ đẹp nhé. Học sinh, sinh viên và những chiến binh Tây trẻ tuổi từ Hà Nội “viết cung gươm”, đầy tình cảm yêu nước và sự phô trương: “Từ mảnh đất anh cầm gươm dựng nước ngàn năm, Cô Tình đã hóa rồng” (Huỳnh văn nghệ). Sống ở núi rừng phía tây, thật khắc nghiệt và hung dữ, xung quanh là cái chết và lửa bao vây. Nhưng bạn vẫn mơ về Hà Nội lãng mạn. Làm sao quên được quán me, hàng sấu, phố cũ, trường cũ, “phố dài chút may”? .. Làm sao quên tà áo dài trắng, thiếu nữ đằm thắm, những “mỹ nhân gợi cảm” một thời hẹn hò. Hình ảnh “bôi nhọ mỹ nhân” trong thơ Quảng Đông của tác giả được người đọc rất thích thú: những từ ngữ này vốn có trong thơ văn lãng mạn thời “tiền chiến”, nhưng lại xuất phát từ ngòi bút của các nhà thơ quân đội. Nó trở nên trìu mến, khắc họa khí chất hào hoa, trẻ trung, lãng mạn của những người lính trẻ Tây quân chiến đấu anh dũng với quân thù trên chiến trường.

    Nếu như người nông dân mặc áo lính trong thơ chính diện mang nỗi nhớ “giếng nước cây đa”, mái tranh, ruộng nương…; nỗi nhớ thức khuya canh khuya mệt mỏi, người lính trong thơ Quảng Đông, nỗi nhớ gắn liền với “ước mơ”, “ước mơ”. Mơ thắng trận, mơ thấy “đẹp”. Liên Luân trong bài thơ “Hoa sim dã quỳ” cũng viết rất hay về nỗi nhớ của những người lính chống Pháp:

    “Từ chiến trường xa xôi

    Ghi nhớ sự sợ hãi

    Kết hôn thời chiến

    Quay lại

    Nếu em không quay lại

    Anh chiều vợ bé nhỏ của anh…”

    Viết “ước mơ”, “ước mơ” của những người chiến sĩ miền Tây, Quang đã dũng cảm ca ngợi tinh thần lạc quan, yêu đời của đồng đội. Đó là một khám phá vô tận của nhà thơ khi miêu tả những “người lính” xuất thân từ tầng lớp tiểu tư sản trong cuộc kháng chiến chín năm chống Pháp.

    Bốn câu cuối là nét bổ sung, làm nổi bật chân dung người lính:

    “Biên giới xa xôi và lăng mộ,”

    Xem Thêm: Tác phẩm Người lái đò sông Đà In trong tập Sông Đà (1960), Nguyễn Tuân

    Xem Thêm: Hóa học lớp 8 – Bài 18 – Mol

    Sống xanh không tiếc chiến trường

    Chiếc áo choàng sẽ biến bạn trở lại đất liền,

    <3

    Xem Thêm : Hướng dẫn Giải bài 54 55 56 trang 48 sgk Toán 7 tập 2

    Trong cuộc chiến đấu gian khổ, nhiều đồng chí đã ngã xuống trên chiến trường miền Tây. Họ trụ lại dưới chân đèo. Ngôi mộ của những người lính “Sanbian”. Đoạn thơ đã để lại trong lòng ta bao niềm tiếc thương và tự hào: “ Rải rác quanh mộ đất”. Nếu tách các câu thơ trên ra khỏi các câu thơ thì nó như một bức tranh xám lạnh, hiu quạnh hiu quạnh và mang nhiều nỗi niềm. Nhưng xét về ngữ cảnh, câu thơ tiếp theo: “Ra trận đi tuổi trẻ không tiếc” nhưng đã vực dậy tinh thần của người chiến sĩ. Bạn đã chiến đấu vì một lý do rất tốt. “Đời Tuổi Trẻ” là cuộc đời của một thiếu niên, tuổi trẻ của những sinh viên Hà Nội “chưa mắc nợ anh hùng…”. Họ lên đường vì đại nghĩa quyết làm người. Những câu thơ “quyết tử vì nước”, “ra trận không tiếc tuổi thanh xuân” nghe thật thiêng liêng, cao cả. Các anh đã quyết hiến xương máu của mình để bảo vệ nền độc lập, tự do của Tổ quốc. Bộ đội cũng như đồng bào ta, không quản ngại gian khổ, hiểm nguy, quyết tâm: “Thà hy sinh tất cả chứ không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”. Quang dũng ghi lại cảnh tang thương giữa chiến trường miền tây lúc bấy giờ:

    “Chiếc áo phản chiếu anh về với đất

    <3

    Các cựu chiến binh giữa chiến trường mặc da ngựa để thể hiện niềm tự hào của họ. Những người lính Tây hành quân với những chiếc chiếu đơn giản và mặc “bộ quần áo” giản dị “anh về với đất”. Một cái chết thanh thản và danh dự. Anh ấy đã ra trận và giết kẻ thù cho đất nước của mình. Khi ngã xuống, anh đã: “trở về”, nằm trong vòng tay của Tổ quốc thân yêu. Nhà thơ không dùng từ “chết” hay “hy sinh” mà dùng từ “về với đất” để ca ngợi sự hy sinh giản dị, thầm lặng, thanh thản mà cao cả, cho rằng cái chết nhẹ tựa lông hồng. Những chiến binh phương Tây đã sống và chiến đấu vì đất nước của họ đã chết vì đất nước của họ. “Anh về với đất” với tất cả tấm lòng thành kính của một người lính. Tiếng thác Mahe “gầm thét” giữa núi rừng miền Tây, hệt như tiếng kèn trong bài “Gọi hồn liệt sĩ” tiễn đưa các liệt sĩ về nơi an nghỉ. Câu “Hà mã một mình gầm thét” là một câu thơ hay, vừa tả không khí linh thiêng, vừa tạo nên âm điệu trầm buồn. Phong cách ngôn ngữ của quang dũng rất đặc sắc, ngoại trừ những từ đơn giản trong đời sống quân ngũ như: ngã, không mọc tóc, chiến đấu, trừng phạt, về đất, độn thổ, rống… Ngoài ra còn có một số từ Hán Việt chẳng hạn như: ước mơ. , ước mơ, biên giới, bóng dáng xa xứ, phương xa, tà áo, độc ca, cái giản dị thể hiện cái thiêng liêng cao cả, cái bình thường thể hiện cái anh hùng, cái vĩ đại. Màu sắc bi tráng và lãng mạn trong bài thơ lan tỏa trong không gian lịch sử.

    Những dòng miêu tả chân dung người lính trong bài thơ “Tây Du Ký” là đặc sắc nhất. Khuynh hướng sử thi của cảm hứng lãng mạn kết hợp với việc nhà thơ vận dụng sáng tạo nghệ thuật miêu tả và bộc lộ cảm xúc đã tạo nên câu thơ “có hồn”. Những người lính đã sống anh dũng và chết anh dũng. Hình ảnh những người lính miền Tây sẽ mãi là một tượng đài nghệ thuật bi tráng in sâu trong tâm hồn dân tộc.

    “Vệ binh quốc gia thân mến

    Sao em yêu anh nhiều thế! “

    (Cá nước từ năm 1947, bên phải).

    4. Phân tích Phần III phía Tây (Mẫu 2)

    quang dũng là một trong những nghệ sĩ tài năng nhất. Anh ấy có thể vẽ tranh, làm thơ và sáng tác nhạc. Thơ Quang dũng nổi tiếng lãng mạn, hào hoa, chan chứa tình yêu và tinh thần dân tộc. Bài thơ tay tiền là một trong những bài thơ thể hiện cảm xúc của quang dũng

    Tên gốc của tác phẩm là “Thương nhớ miền Tây”. Sau đó bỏ “nhớ” và giữ “tây tiến”, vì quang dũng cho rằng bài thơ này đầy hoài niệm, người đọc sẽ cảm nhận được. Bài thơ ra đời trong những năm tháng không thể nào quên, từ cuộc sống và môi trường chiến đấu không thể nào quên của người lính

    Bài thơ này được viết tại Thung lũng sông Chanh (Hexi) vào năm 1948, khi ông được chuyển sang quân đội khác, nhớ rằng quân đội cũ của mình là quân đội hành quân về phía tây. Đoạn thơ này thể hiện nỗi nhớ của tác giả về thiên nhiên Tây Bắc Trung Quốc và đơn vị cũ. Trong tác phẩm ấy, hình ảnh người lính Tây Tiến được thể hiện rõ nét qua khổ thơ thứ ba của bài thơ:

    “Quân đội phương Tây không mọc tóc

    (…)

    Ma He hót vang”

    Năm 1947, Tây quân hành quân đến nơi đẹp đẽ nhất trong tâm trí người trẻ tuổi của tác giả, quân đội được thành lập, do Quang Dũng làm đại đội trưởng. Nhiệm vụ của quân đội là phối hợp với quân đội Lào bảo vệ biên giới Việt Lào. Những người lính trong quân đội chủ yếu là sinh viên, công nhân thành thị từ mọi tầng lớp xã hội, tạo thành một đội quân thống nhất. Cuộc sống nơi chiến trường gian khổ, cơ cực nhưng ở họ, phẩm chất người lính luôn ánh lên niềm lạc quan và tinh thần không ngại gian khổ. Hình ảnh những người lính miền Tây hiện lên với vẻ đẹp rất bi tráng:

    Đội quân không mọc tóc

    Đội quân xanh hùng mạnh

    Mắt sáng gửi ước mơ qua biên giới

    Một đêm Hà Nội mộng đẹp và thơm

    Với hình ảnh “đầu không mọc tóc” gợi lên hoàn cảnh sống khó khăn, chiến đấu gian khổ của người lính Tây Tiến nhưng cũng không thiếu khí phách hiên ngang. Nghệ thuật tương phản giữa hình ảnh “Lục quân” ​​và “Không tóc dài”, “Lục quân” ​​và “Ác ma” gợi liên tưởng đến dáng vẻ xanh xao, gầy gò do căn bệnh sốt rét hành hạ. Tuy nhiên, điều quan trọng hơn cả là từ dưới thân hình của họ vẫn toát lên sự uy nghiêm như mãnh hổ nơi rừng thiêng, thể hiện bản lĩnh của người lính.

    Sự oai phong lẫm liệt thể hiện qua đôi mắt. “Đăm đăm” là cái nhìn quyết liệt, hừng hực lòng căm thù, mơ giết được quân thù. Họ rất dũng cảm, ngoan cường, vẫn kiêu hãnh trước họng súng quân thù, nhưng vẻ đẹp lãng mạn thì trong trẻo, sâu lắng trong suy nghĩ: “Đêm mơ Hà Nội đẹp tuyệt vời”, Quang Dũng đã không tiếc lời, nói. Nói đến vẻ đẹp của người con gái Hà Nội, tôi đã dùng những từ ngữ rất trang trọng: dưới vẻ ngoài uy nghiêm, dữ dội là một trái tim khát khao sống:

    Biên giới xa xôi

    Xem Thêm: Tác phẩm Người lái đò sông Đà In trong tập Sông Đà (1960), Nguyễn Tuân

    Xem Thêm: Hóa học lớp 8 – Bài 18 – Mol

    Sống xanh không tiếc chiến trường

    Chiếc áo choàng sẽ đưa bạn trở lại trái đất

    <3

    Câu thơ thể hiện sâu sắc vẻ đẹp hi sinh của người lính. Từ Hán Việt cổ kính, trang trọng “biên giới, mộ xa” tạo nên không khí trang trọng, giọng điệu trang trọng, trang trọng làm loãng đi hình ảnh nấm mồ người lính nơi hoang vu biên cương. Vẻ đẹp bi tráng còn thể hiện ở tinh thần quân tử, lí tưởng anh hùng lãng mạn, nghĩa tử là nước, quyết cống hiến cho đất nước:

    Xem Thêm: Tác phẩm Người lái đò sông Đà In trong tập Sông Đà (1960), Nguyễn Tuân

    Xem Thêm: Hóa học lớp 8 – Bài 18 – Mol

    Sống xanh không tiếc chiến trường

    Chiếc áo choàng sẽ đưa bạn trở lại trái đất

    <3

    Thường được gọi là từ “pao”, nó gợi vẻ đẹp huyền bí của sự hy sinh: nó biến cái chết của người đồng đội thành sự hy sinh trang nghiêm của người anh hùng chiến đấu. Cách nói: “Anh Về Đất” làm vơi đi nỗi đau khi nhắc đến cái chết của người lính Tây Phương. Phóng đại: “Mahe Roaring Solo” có nghĩa là thiên nhiên chơi một bài hát hùng tráng để đưa binh lính về phía tây. Người lính miền Tây ra đi trong bản nhạc vĩnh hằng cuối cùng.

    Bằng những dòng thơ lục bát, bài thơ này đã khắc họa chân dung người lính từ trong tâm hồn, đặc biệt là tính cách hào hoa, lãng mạn của anh. Một người đẹp đã tạo ra một thời đại. Họ có những phẩm chất chung của những chiến binh.

    Bài thơ này là một khúc ca bi tráng và lãng mạn miêu tả hình ảnh người lính Tây Tiến những ngày đầu kháng chiến chống Pháp. Tuy vất vả, khó khăn nhưng không mất đi khí chất hào hùng, lãng mạn.

    5. Phân tích đoạn 3 của Tây (Mẫu 3)

    Khi một bài thơ hay thường tạo được nhiều dư âm thẩm mỹ trong lòng người đọc, thậm chí có thể gây ra nhiều tranh cãi về ngôn từ, hình ảnh, cảm xúc… Thủ pháp phương Tây của tác giả rất độc đáo. Những bài thơ như vậy. Hơn nửa thế kỷ đã trôi qua, miền Tây không chỉ có chỗ đứng vững chắc mà còn tỏa ra sức sống kỳ diệu. Trong tâm hồn nhà thơ, miền tây là một thời yêu thương, nhớ về những tháng ngày chiến sĩ sống và chiến đấu trong quân ngũ, trân trọng núi rừng Tây Bắc cheo leo, hùng vĩ. Cũng không kém phần thơ mộng, hồi tưởng về những năm tháng hành quân gian khổ, nhớ về những kỉ niệm đẹp, nhớ về những giây phút ở làng quê quân dân ấm áp, yêu thương.

    Ví dụ, hai đoạn đầu của bài thơ, người đọc có thể gián tiếp tiếp xúc với hình ảnh những người lính, đến đoạn thứ ba thì khắc họa trực tiếp chân dung của những người lính Tây Tiến:

    Đội quân không mọc tóc

    ……..

    <3Vào thời điểm đó, ngoài Guangyong, còn có những gương mặt quen thuộc như bác sĩ Fan Yukui, đại đội trưởng kiêm nhạc sĩ Zhuang, nhà thơ Chen Liwen. Họ là những người còn rất trẻ đến từ TP. Phần lớn quân Tây đi hành quân là trí thức trẻ ở Hà Nội (các trường đại học: sư phạm, bưởi, Thăng Long, Bản Lãng, v.v.). Họ ra trận với cả tinh thần “tử quốc phục quốc” và khí phách hiên ngang của người Trường An. Cuộc sống chiến đấu gian khổ, vất vả không ngăn được những người lính bước vào cuộc sống vui tươi, sôi nổi và nhiều ước mơ ở miền Tây. Phẩm chất người Trường An đã thấm vào máu thịt, là người đa tài (thơ ca, hội họa, sáng tác…) Từng là đại đội trưởng của một đại đội nào đó của Tây quân. vẻ đẹp quân sự Hình ảnh người lính trong thơ Quang Dũng cho ta thấy bóng dáng của những kẻ đi chinh phạt trong văn học cổ, hay những anh hùng của đất nước đi viễn xứ.

    Thời chống Pháp, thơ quân đội chủ yếu viết về vẻ đẹp của những người nông dân mặc quân phục.

    Vậy thì “đồng chí” của tác giả chính nghĩa, “Ngư quốc chính nghĩa”, đều miêu tả binh lính là “chính hiệu”:

    Áo anh rách vai

    Quần của tôi có miếng vá

    chế nhạo

    Giày chân không.

    Những người lính trong tác phẩm miền Tây của Quang Dũng đều có nét riêng, phong cách riêng. Quảng Đông đã sử dụng những nét vẽ lãng mạn để truyền bá tinh thần bi tráng trên nền tảng của ký ức, và dựng lên một tượng đài bằng những bài thơ của những người lính phương Tây.

    Đây là chân dung của một anh hùng vĩ đại:

    Đội quân không mọc tóc

    Đội quân xanh hùng mạnh

    Một số người cho rằng đây là đỉnh cao của sự độc đáo. Ngược lại, có người cho rằng hình ảnh “đội quân xõa tóc”, “dữ tợn” là không đúng, thậm chí còn làm cho hình ảnh người lính chống Pháp trở nên “quái dị”. Tôi cảm thấy bài thơ này không phù hợp với đặc điểm của phong cách Lãng mạn, và không hiểu hết hiện thực của Kháng chiến. Thực ra, không chỉ có người lính “vờ lá đưa gió” kháng Pháp, mà còn có cả người lính “trần như nhộng” nổi tiếng một thời. Về phần hậu cảnh, những hình ảnh “Đội quân tóc dài”, “Quân xanh”, “Tươi” không chỉ là hiện thực mà còn là sản phẩm của nét vẽ lãng mạn.

    “Đội quân không tóc” là hình ảnh đội quân bị rụng hết tóc do bị sốt rét hoặc phải sống trong “rừng của Thủy thần”; “Lục quân” là chỉ đội quân da xanh như lá – cũng chính là rừng Là quả của bệnh sốt rét, do gian khổ thiếu thốn nhưng đoàn quân toát lên vẻ “dữ dội”. tức là vẫn dữ như cọp rừng, đó là cách so sánh anh hùng không “phá nát hình tượng quân tử” như ông nghĩ.

    Nhằm nhấn mạnh vẻ oai hùng của “đội lính”, giọng thơ hùng tráng được sử dụng. Cách miêu tả hình ảnh người lính phương Tây làm chúng ta nhớ đến một bài thơ của Fan Wulao cũng miêu tả người lính với “khí chất phương Đông”:

    đường hoàng sóc giang sơn ký thủ

    <3<3

    Xem Thêm : Học phí Trường Đại học Kinh tế – Tài chính TPHCM

    Nắm con trâu bằng ba vũ khí sắc bén.

    Vẻ đẹp của bài thơ nằm ở khí thế oai hùng, trang nghiêm của đoàn quân Tây tiến, một vẻ đẹp vừa âm vang truyền thống, vừa âm vang tinh thần thời đại, giữa cựu binh với cựu binh. hôm nay.

    Hai câu thơ tiếp theo miêu tả sinh động đời sống tinh thần của những người lính Tây Tiến:

    Mắt sáng gửi ước mơ qua biên giới

    Một đêm Hà Nội mộng đẹp và thơm

    “Hai câu như khóa chặt cả thế giới” (vũ quan phương), “Ta thấy một chàng trai Hà Nội độc diễn” (Đặng Anh Đào), vừa hào hùng, vừa phóng đại. Hình ảnh “giận mở to mắt” thể hiện ý chí kiên định bảo vệ biên cương trong chiến tranh. Hình ảnh ấy cũng thể hiện hoài bão, khát vọng lập công mãnh liệt của những người lính miền Tây. Trong cuộc sống chiến đấu gian khổ, những người lính vẫn để lại trong tâm hồn mình hình ảnh “Hà Nội Mạnh Dã, Meimeida” hiền hòa, đôn hậu.

    Chiến tranh tàn khốc, nhưng chiến tranh không thể lấy đi vẻ hào nhoáng của những chàng trai, cô gái thành phố. Không gì có thể ngăn được khoảnh khắc mộng mơ của tâm hồn quân nhân. Xưa, người ta chê trời Tây “rơi mộng”, “rơi sầu” vì những vần thơ như thế. Thực ra, bài thơ này tả vẻ đẹp tâm hồn của người lính Tây Tiến. Nguyễn Đình Thi cũng đã thể hiện thành công vẻ đẹp này trong bài thơ “Tương ảnh”:

    Đêm dài hành quân nóng bỏng

    Chợt xao xuyến trong mắt người tình.

    Khác với nỗi nhớ người lính trong các nhà thơ như nhà văn Nguyễn Đình Thi, Quang Dũng thể hiện tình cảm của người lính qua những giấc mơ, làm cho nỗi nhớ lãng mạn hóa tâm hồn họ. Ước mơ nâng đỡ tâm hồn con người. Thật sang trọng, hào hoa!

    Nói đến chiến tranh là nói đến đời lính, không thể không nói đến cái chết. Quang dũng không trốn tránh, nhà thơ cũng nói theo cách của mình:

    Biên giới xa xôi

    Xem Thêm: Tác phẩm Người lái đò sông Đà In trong tập Sông Đà (1960), Nguyễn Tuân

    Xem Thêm: Hóa học lớp 8 – Bài 18 – Mol

    Sống xanh không tiếc chiến trường

    Chiếc áo choàng sẽ đưa bạn trở lại trái đất

    <3

    “Great Singer” thể hiện một phong cách anh hùng nhưng bi thảm. Nhà thơ mượn lời thơ cũ, nhưng cảm giác rất mới. Từ “mồ đất” gợi lên nỗi tiếc thương thầm lặng trước sự hy sinh thầm lặng của những người lính vô danh. Triển lãm thơ: Những ngôi mộ “rải rác” bên “bên”, “xa xa” không vòng hoa, không nhang khói, vắng vẻ, hoang vắng. Có một cái nhìn bi quan như vậy về bức tranh chiến đấu có thể rất ảm đạm. Hồn thơ tỏa sáng khi chạm vào bi kịch, được nâng đỡ bởi đôi cánh lý tưởng. Câu thơ sau như có một sức mạnh vô hình nâng đỡ câu thơ trước. “Đời xanh không tiếc chiến trường”. Bi kịch biến thành bi kịch cùng một lúc. Với tinh thần dũng cảm nhận trách nhiệm và sẵn sàng cống hiến, họ đã hiến dâng tuổi thanh xuân đẹp nhất của mình cho lý tưởng sống cao đẹp nhất. Họ ra đi một cách thanh thản, không chút lưu luyến, không chút luyến tiếc và cái chết được coi là “nhẹ như lông hồng”.

    Khi viết về chiến tranh, nhiều nhà thơ né tránh cái chết. Và quang dũng cảm tin rằng cái chết là một thực tế không thể tránh khỏi của chiến tranh. Cái chết của người lính dưới con mắt thi ca vinh quang là rất hào hùng, không chút giả hình. Câu thơ bi tráng khẳng định phương châm sống của cả thế hệ cha anh trong những năm tháng gian khổ chống phá: “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Có hiểu ý chí sắt đá của một dân tộc mới thấy được cái hay trong thơ Quang Dũng.

    Hai câu sau tiếp tục nói về cái chết với giọng điệu hào hùng đó:

    Chiếc áo choàng sẽ đưa bạn trở lại trái đất

    <3

    Nhà thơ kể lại một sự thật bi thảm: những người lính chết trên đường đi chôn cũng mất tích. Đôi mắt thơ dũng cảm treo trên đồng đội trong bộ áo dài sang trọng. “Ao Dai” là sự kết hợp của từ “áo vải” và “áo choàng chiến”, khiến cho “Ao Dai” vừa đơn giản vừa sang trọng. Nói nôm na là “xoa dịu tâm hồn binh lính”. Xuất phát điểm là tình bạn. Chính tình yêu ấy đã làm cho hồn thơ và vẻ đẹp hào hoa tìm đến một hình ảnh đẹp đẽ để làm “sang trọng hóa” cái chết của người lính. Một người lính đã ngã xuống trong chiếc áo choàng đỏ thẫm trong hào quang của một chiến binh cổ đại. “Chiếc áo choàng sẽ đưa bạn trở lại Trái đất”. Câu thơ này mang sức mạnh ngợi ca. Không có từ nào tốt hơn cho từ “đất” trong câu thơ này. “Đi về nơi đất ấy” không chỉ thể hiện sự hy sinh của người lính mà còn thể hiện sự trân trọng, yêu thương đối với những người đồng đội còn lại trong vòng tay. “Bỏ đất” cũng là hòa vào hồn đất nước, để hồn sông núi trường tồn, trường tồn cùng đất nước. Mã Ông đã viết “đơn ca” nồng nàn và hùng tráng, gửi đi linh hồn người lính với bao nỗi tiếc thương và ngưỡng mộ. Những mất mát đau thương ấy như bị dồn nén, dồn lại thành tiếng gầm rú rung chuyển núi rừng Mahe. Các anh đã hy sinh cho mảnh đất đầy thi ca, nhạc họa, sống chan hòa với thiên nhiên, hồn các anh vẫn hát hành khúc.

    Nét đặc sắc nhất của thể thơ này không chỉ ở thủ pháp đảo ngữ mà còn ở cách dùng từ, đặc biệt là cách dùng động từ. Nhà thơ vũ quan phương nhận xét “cảm hứng trong thơ quang dũng thường vang vọng ở động từ”. Động từ “gầm” trong bài thơ làm cho giọng nói to rõ, như vang vọng cả núi rừng miền Tây, dội mãi trong lòng người đọc. Chính âm Hán Việt đồng âm với các động từ (biên giới, xa cách, chiến trường, hà mã, đơn ca). Nhà thơ đưa người đọc vào một không gian cổ kính, trang trọng. Tất cả những thủ pháp nghệ thuật ấy bộc lộ sự hài hòa giữa bi kịch và anh hùng, tạo nên bi kịch của những tượng đài oai hùng của người lính Tây Tiến.

    Đây là cao trào của toàn bộ bài thơ độc thoại trong Tây Du Ký. Phẩm chất bi tráng đã tạo nên một tượng đài độc đáo về những người lính Viễn Tây. Câu thơ đã hết nhưng kèm theo tiếng độc tấu của Ma He, Xiyin còn vang vọng núi rừng, vang vọng cùng năm tháng.

    6. Phân tích Đoạn 3 hướng Tây (Bảng 4)

    quang dũng, sinh năm 1921, mất năm 1988, là một nghệ sĩ đa tài với tâm hồn tự do, giàu tình cảm, lãng mạn và tài hoa, đặc biệt là các tác phẩm về người lính Tây Tiến và xứ Đoài quê hương. Trong các tác phẩm của ông, “Tây Dương” là bài thơ hay nhất, tiêu biểu cho đời thơ và phong cách sáng tác của ông. Lối viết của bài thơ đậm chất lãng mạn, hình ảnh, ngôn ngữ, giọng điệu sáng tạo bộc lộ nỗi nhớ da diết của tác giả đối với những người lính miền Tây anh dũng và núi rừng miền Tây hùng vĩ, tươi đẹp. Có thể nói, đây là nỗi nhớ da diết của tác giả Quang Dũng đối với những người đồng đội ở miền tây, gửi gắm trong 8 bài thơ miêu tả chân dung người lính ở miền tây:

    “Quân đội phương Tây không mọc tóc

    Đội quân xanh hùng mạnh

    Mắt sáng gửi ước mơ qua biên giới

    Một đêm Hà Nội mộng đẹp và thơm

    Biên giới xa xôi

    Xem Thêm: Tác phẩm Người lái đò sông Đà In trong tập Sông Đà (1960), Nguyễn Tuân

    Xem Thêm: Hóa học lớp 8 – Bài 18 – Mol

    Sống xanh không tiếc chiến trường

    Chiếc áo choàng sẽ đưa bạn trở lại trái đất

    Ma He hót vang”

    Tập thơ “Mây và đầu” xuất bản năm 1986 có in tranh của phương Tây nhưng trước đó đã được nhiều thế hệ yêu thơ viết tay tìm đọc. Bài thơ này được viết tại làng Liuluan khi tác giả rời Tây quân vào năm 1948 để chiến đấu trong quân đội. Phương diện quân Tây được thành lập năm 1947. Nhiệm vụ của lực lượng này là phối hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới Việt Lào và đánh trả quân Pháp ở Thượng Lào và Tây Bắc Việt Nam. Địa bàn tác chiến của Tây quân khá rộng, phần lớn binh lính Tây quân là thanh niên Hà Nội, có nhiều học sinh tiểu học và sinh viên, kể cả Quảng Đông. Các anh đã sống và chiến đấu trong hoàn cảnh gian khổ, đói nghèo, bị sốt rét hoành hành, nhưng lúc đó các anh vẫn lạc quan, chiến đấu dũng cảm. Sau hơn một năm chiến đấu, quân Tương Tây dẹp yên và Trung đoàn 52 được thành lập, ban đầu nhà thơ đặt tên tác phẩm là “Ký ức phía Tây”, nhưng sau đó đổi thành “Tây”. Bài thơ này viết dựa trên nỗi nhớ của Quảng Đông, những hồi ức và kỉ niệm về đơn vị cũ. Vì vậy, toàn bộ bài thơ là nỗi nhớ và chân thành.

    Bài thơ được tác giả chia thành bốn đoạn. Đoạn đầu bộc lộ nỗi nhớ về chuyến viễn chinh miền Tây gian khổ, bần hàn của đoàn quân và cảnh thiên nhiên miền Tây hùng vĩ, hoang sơ, hoang sơ. Đoạn hai là kỉ niệm đẹp về tình quân dân trong đêm hội và cảnh thơ mộng của sông Tây Giang. Phần thứ ba là bức chân dung người lính hành quân về phía tây. Đoạn thứ tư là lời thề gắn bó với Tây Sơn Tây Sơn. Cả bài thơ in đậm dấu ấn tài hoa, lãng mạn và táo bạo của nhà thơ Quảng Đông. Bằng tài năng và tâm hồn ấy, tác giả Quảng Đông đã xây dựng thành công hình ảnh người lính miền Tây với vẻ đẹp lãng mạn, bi tráng trên nền thiên nhiên núi rừng miền Tây hùng vĩ, dốc đứng. sắc đẹp, vẻ đẹp.

    Nỗi nhớ miền Tây, tác giả Quảng Đông không chỉ nhớ núi rừng mà còn nhớ đồng đội trèo đèo lội sông, trải qua muôn vàn gian nan nguy hiểm, bước vào vòng sinh tử. Nhà thơ nhớ lại và vẽ lại chân dung đẹp đẽ của họ với vẻ đẹp bi tráng. Kuang Yong đã chọn những nét tiêu biểu nhất của binh lính phương Tây và tạo ra một tượng đài tập thể, tóm tắt các tướng lĩnh của toàn quân.

    Người lính ấy đã phải sống trong điều kiện sinh hoạt và chiến đấu khắc nghiệt nên:

    “Quân đội phương Tây không mọc tóc

    Đội quân xanh hùng mạnh”

    Hai phần tiếp theo đề cập đến thực tế là những người lính thường mắc bệnh sốt rét nguy hiểm. Đồng chí Công Lý Nhà thơ đã đề cập đến căn bệnh này trong bài viết: “Anh và tôi biết từng cơn ớn lạnh, cơn sốt, mồ hôi trán”. Tác giả anh hùng trong bài thơ không giấu diếm những gian khổ, khó khăn, những căn bệnh hiểm nghèo và những hy sinh to lớn của những người lính Tây tiến mà nhìn rõ hiện thực phũ phàng qua một tâm hồn thực. lãng mạn. Cạo trọc để thuận tay chiến đấu, tóc rụng sạch, gương mặt xanh xao vì đói rét của các chiến sĩ trở nên oai vệ, dữ tợn, hung dữ dưới ánh đèn soi như mãnh hổ chốn rừng thiêng.

    Những người lính ấy, một bên đầy kiêu hãnh và oai phong, một bên là tình yêu:

    “Mắt đẹp gửi mộng qua biên giới

    Trải qua một đêm mơ màng trong hương thơm tuyệt đẹp của Hà Nội.

    Những đôi mắt không ngơi nghỉ của trai Tây “lườm nguýt”, quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ đến cùng nhưng trong thâm tâm họ vẫn dành chỗ cho khuôn mặt xinh đẹp của dải ngân hà, ngôi nhà thân yêu của các anh và các bạn gái. Quang dũng cảm, đa diện khắc họa ngoại hình và thế giới nội tâm của người lính, có tâm hồn lãng mạn, mơ mộng.

    Trong chiến tranh, mất mát, hy sinh là điều không thể tránh khỏi. Quang dũng cũng không ngần ngại nêu lên thực tế này:

    “Rải rác bên bờ mộ xa

    Ra chiến trường không tiếc đời xanh.

    Sự kết hợp các từ Hán Việt cổ kính, trang trọng: “biển”, “mộ”, “xa”, “chiến trường” và “san” làm dịu đi yếu tố bi tráng, làm nguôi ngoai nỗi đau mất mát. Nổi bật lên là vẻ đẹp lãng mạn của những người lính Tây Tiến quên mình, hi sinh vì nước. Câu nói “Đời xanh không hối tiếc” vang dội khẳng định dáng vẻ hào hùng của những chàng trai miền Tây.

    Hai phần tiếp theo:

    “Chiếc áo phản chiếu anh về với đất

    Ma He hót vang”

    Nó nhắc đến một sự thật bi thảm: những người lính Tây hy sinh bên đường chiến đấu không có lấy một chiếc chăn bông, nhưng qua đôi mắt sáng của họ, họ khoác lên mình những chiếc áo sáng màu. Vinh dự đó trông giống như một anh hùng. Trong quá khứ, cái chết được cho là nhẹ như lông hồng. Một câu nói nhẹ nhàng “anh ấy đã trở về Trung Quốc” đã cướp đi bi kịch, để rồi hoàn toàn chìm trong tiếng gầm dữ dội của Mahe. Tác giả Quang Dũng mượn âm thanh của sông nước Tây Bắc, của thiên nhiên, của hồn thiêng để tiễn biệt và ca ngợi đồng đội. Những câu thơ hùng tráng, hào hùng và hào hùng khiến cho sự hi sinh của người chiến sĩ không hề buồn mà mang đầy ý nghĩa bi tráng. Cả bài thơ kết thúc bằng bốn khổ thơ, nhịp điệu chậm rãi, âm điệu trầm buồn nhưng hồn thơ vẫn toát lên vẻ hào hùng. Tác giả Quảng Đông cùng toàn thể nghĩa quân Tây tiến lập lời thề “hồn nước không về” thể hiện quyết tâm gắn bó máu thịt của đoàn quân qua năm tháng. Mùa xuân năm ấy đã trở thành khoảnh khắc ngàn đời có một không hai trong lịch sử. Trong hoàn cảnh khó khăn, gian khổ và ác liệt như vậy, dân tộc sẽ không bao giờ lặp lại những giấc mơ và huyền thoại anh hùng ấy.

    Chủ đề của đoạn ba là trang nghiêm, thể hiện niềm tiếc thương vô hạn và lòng cảm phục của nhà thơ trước sự hi sinh của đồng đội. Bằng cảm hứng lãng mạn, nét bút sắc sảo, phóng khoáng và hiện thực khắc nghiệt, bài thơ đã khắc họa một bức chân dung tập thể của những người lính ở miền Tây với những nhân vật đầy kịch tính. Qua bài thơ này, tác giả Quảng Đông thể hiện sâu sắc nỗi nhớ nhung, ám ảnh và nhớ nhung đồng đội của mình trong những năm tháng gian khổ ở Tây Sơn.

Nguồn: https://anhvufood.vn
Danh mục: Giáo Dục

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *