Phân tích hình ảnh hai đứa trẻ trong buổi chiều tà, 17 bài văn mẫu hay nhất có dàn ý tham khảo. Qua bài văn Phân tích cảnh phố chiều muộn, các bạn học sinh lớp 11 đạt kết quả tốt có thêm lời khuyên trong học tập, nâng cao vốn văn, hoàn thiện bài văn trong ôn tập, luyện tập và các kì thi sắp tới.
Bạn Đang Xem: Văn mẫu lớp 11: Phân tích bức tranh phố huyện lúc chiều tàn (Sơ đồ tư duy) 2 Dàn ý & 17 bài bức tranh phố huyện lúc chiều tàn
Bản đồ thị trấn của cộng đồng lúc hoàng hôn, thể hiện rõ nét bức tranh thiên nhiên của cộng đồng nghèo đẹp và thực trạng con người đói khát nhưng lạc lõng. Tầm nhìn, khao khát hạnh phúc. Sau đây là 17 bài mẫu phân tích tranh thành phố lúc chiều tà, mời các bạn chú ý theo dõi.
Phân tích dàn ý bức tranh chiều tà phố huyện
I. Mở bài:Giới thiệu truyện ngắn và hình ảnh một thị trấn nhỏ trong Hai đứa trẻ
Ví dụ: Thạch Lam là nhà văn viết truyện ngắn đặc sắc, tác phẩm của ông đi sâu vào những hình ảnh giản dị đời thường, những hình ảnh đời thường. Chính vì những yếu tố này mà các tác phẩm của anh đã được rất nhiều người yêu thích và ưa chuộng. Một trong những tác phẩm tiêu biểu của ông là truyện ngắn về hai đứa trẻ. Các tác phẩm thể hiện cuộc sống ở những vùng đất nghèo khó và những mong ước nhỏ nhoi của người dân nơi đây.
Hai. Nội dung chính bài:Phân tích hình ảnh phố huyện trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ”
1. Thị trấn vùng lúc hoàng hôn:
- Bức tranh làng quê Việt Nam quen thuộc
- Tiếng ếch kêu
- Tiếng muỗi vo ve
- Trống rỗng
- Hoàng hôn mang nét đặc trưng của làng quê Việt Nam
- Bóng tối bao trùm toàn bộ khu nhà, lấp đầy khu nhà bằng bóng tối
- Đối với người dân nơi đây, bóng tối như một nỗi ám ảnh
- Hoạt động của con người chỉ có thể dựa vào những ánh đèn chập chờn, chập chờn
- Cuộc sống bế tắc
- Hy vọng dưới ánh đèn của đoàn tàu
2. Phố khuya trên phố
Ba. Phần kết:Hãy nêu cảm nhận của em về hình ảnh phố huyện trong truyện ngắn Hai đứa trẻ
Ví dụ: Hai truyện ngắn thiếu nhi viết về cuộc sống khó khăn của người dân vùng nghèo. Một hình ảnh nổi bật trong những năm khó khăn. Đồng thời ta cũng thấy được niềm tin, tình yêu quê hương của tác giả được thể hiện qua truyện ngắn.
………………………………………….. .
Xem thêm: Phân tích phác thảo bản đồ thị trấn huyện lúc chạng vạng
Bản đồ tư duy về thị trấn nhỏ ở múi giờ buổi tối
Phân tích ảnh phố lúc chiều tà – Mẫu 1
Khác với các nhà văn đương thời cố gắng tìm kiếm cái mới hay cái vĩ đại và khác thường, Lâm Trạch Lâm lặng lẽ trở về với giá trị nguyên bản ẩn chứa trong cuộc sống đang hấp hối một mình. Anh ấy cũng không cố gắng xây dựng những câu chuyện hoàn chỉnh, bởi vì cuộc sống không bao giờ trọn vẹn với những măng đá. Truyện của ông thường không có cốt truyện cụ thể. Mỗi câu chuyện là một bản trữ tình buồn. Phong cách này được phản ánh rõ ràng trong công việc của cả hai đứa trẻ. Hình ảnh Quzhen và số phận của những con người chìm trong màn sương mù của những năm tháng hấp hối thật cảm động.
thạch lam thường xoáy sâu vào đời sống nội tâm của nhân vật, với những cảm xúc, tình cảm mơ hồ, mong manh nhưng rất tinh tế. Anh đi vào thế giới nội tâm của nhân vật rất chậm rãi, nhẹ nhàng, sợ gây ồn ào phá vỡ thế giới đó. Anh tiết kiệm từng chút một, chỉ nhìn chằm chằm vào một trạng thái trong một thời gian dài, một sự chuyển đổi, cho đến khi nó dừng lại hoàn toàn. Vì vậy, đọc truyện thạch nhũ chỉ có thể cảm nhận bằng trái tim và bằng tất cả các giác quan chứ ít khi tóm tắt được một cách mạch lạc diễn biến của toàn bộ cốt truyện.
Cấu trúc của hai con đơn giản. Các chi tiết và kết cấu đơn giản, nhưng tư tưởng sâu sắc và phức tạp. Câu chuyện chỉ kể hình ảnh hai đứa trẻ ngồi trên chiếc giường nhỏ dột nát nhìn con phố dần khuất vào bóng đêm, dù “mắt mờ” nhưng vẫn cố thức, chờ đợi chuyến tàu đêm đi qua khi trời sáng. đèn, rồi đóng cửa. Cửa hàng ngủ. Không ai có tâm hồn nông cạn sẽ đánh giá cao kiểu kể chuyện nhàm chán, suốt ngày đêm như vậy. Tuy nhiên, tác phẩm này đã khiến nhiều người phải kinh ngạc và xúc động. Vấn đề là măng đá khéo léo nắm bắt bước đầu tiên của người đọc vào thế giới của câu chuyện.
Dưới nét cọ xanh, hai đứa trẻ không hề nhàm chán mà ngược lại, rất ám ảnh, thấm thía, vô tận dư vị, với những cảm xúc buồn bã và những lời thủ thỉ trìu mến.
Tác phẩm mở đầu bằng một bức tranh quê sống động, như một bài thơ về quê hương thân quen mà thơ mộng. Chiều không biến mất mà len lỏi trong từng chữ, từng câu, bám lấy đất trời, dẫn dắt con người vào một thế giới cảnh sắc yên bình. Những nét bút thanh mảnh, hình khối măng đá vẽ nên những bức tranh sống động chỉ với vài nét vẽ, đường nét, màu sắc, âm thanh, mùi vị đưa người đọc về với tiên cảnh tĩnh tâm. Hương vị của cô là buồn, và những gì thân thuộc luôn là quê hương, làng mạc và làng quê Việt Nam. Nó gợi lên một sự gắn bó ấm áp với vùng quê lam lũ. Nơi ấy không chỉ có những khung cảnh thanh bình, thơ mộng, yên bình mà còn có cả một cuộc sống u ám, đen tối.
Sức mạnh áp bức của truyện ngắn nằm ở những chi tiết nặng tính nghệ thuật. Các măng đá có sự đảo chiều thú vị. Anh lặng lẽ lục lọi trong đống tư liệu mà người khác không để ý. Khi nhà văn phát hiện ra chất bột vàng trong đá, ông khẽ mỉm cười. Không có những chi tiết ly kỳ về hai đứa trẻ, nhưng ít ai dám chắc rằng một khi bước chân vào thế giới của thị trấn nhỏ nghèo nàn và yên tĩnh ấy, tâm hồn chúng sẽ nhẹ bẫng, vô hồn và vô cảm.
Truyện ngắn dành cho hai đứa trẻ từ chiều đến tối trong một ngày. Cảnh trong truyện chỉ chuyển động trong ba mảng sáng tối: chiều tà, nắng ngoài chợ và đêm. Nhưng nó vẫn để lại nỗi ám ảnh khôn nguôi trong lòng không biết bao thế hệ độc giả. Vì vậy, sức hấp dẫn của câu chuyện thiêng liêng này không đến từ những chi tiết nghệ thuật ly kỳ, hấp dẫn. Sức hút bất tận của hai đứa trẻ vốn dĩ được giải tỏa từ hơi ấm tình người được lan tỏa trong câu chuyện.
Đọc “chiều, chiều. Đó là một buổi chiều êm ả như lời ru, gió hiu hiu thổi, tiếng ếch nhái ngoài đồng vọng về. Trong quán mờ tối, muỗi đã bắt đầu vo ve, lặng lẽ Ngồi lặng lẽ bên bóng đen những viên bi sơn. Đôi mắt em dần chìm trong bóng tối, nỗi buồn quê mùa thấm vào trái tim ngây thơ của em. Em không sao, nhưng cuối ngày em buồn lắm.”
Hóa ra tâm trạng của nhân vật trong buổi chiều tàn nơi phố nhỏ cũng chính là tâm trạng của chúng ta trước sự sống của ngày bắt đầu tàn, ánh sáng nhường chỗ cho bóng tối, cuộc chia ly nhường chỗ cho sự đoàn tụ, sự tha hương nhường chỗ cho lối về… ..Văn chương giúp ta gìn giữ những cảm xúc của tình người, giúp đánh thức những sâu thẳm tâm hồn đã đánh mất từ lâu. Hai đứa trẻ, tuy thiếu một cốt truyện hấp dẫn, nhưng đủ hấp dẫn để đọc vì nó giúp nắm bắt và đánh thức những tâm hồn như vậy.
Giống như một lữ khách bền bỉ, tìm kiếm những tiềm năng từ cuộc sống mục vụ và góp nhặt chúng thành thơ, Lin Zelin lặng lẽ truyền tải thông điệp đến mọi người: cuộc sống thật tươi đẹp, chúng ta có thể gặp gỡ những người bình thường và những điều chúng ta chưa từng trải qua. Cảnh mặt trời lặn để lại trong lòng ta một nỗi sầu muôn thuở. Nhưng hơn cả là “tiếng trống đồng quê đánh trống gọi chiều từng hồi. Phía tây đỏ như lửa cháy, mây đỏ như than sắp tàn. Hàng tre làng trước mặt đã đen lại, Hình bóng trên bầu trời có thể nhìn thấy rõ ràng.”
Quê hương Việt Nam bao giờ cũng đẹp, dịu dàng và êm ả như chính tâm hồn của Liên, một cô gái tinh tế, nhạy cảm, đầy trân trọng và nâng niu một mảnh hồn đã quen với làng quê. Tiếng ếch nhái, tiếng muỗi kêu như một bản đồng ca vang lên nhắc nhở mỗi chúng ta phải biết trân trọng, yêu quê hương đất nước.
Ngôi làng của hai đứa trẻ nghèo, bị bỏ rơi, không có tiếng nói vẫn gợi lên trong lòng ta những xúc cảm chân thành: “Đêm sớm, đêm hè mát như nhung Trên vòm trời, ngàn sao tranh nhau lấp lánh, hòa cùng ánh sáng của những con đom đóm bay trên mặt đất hay trên cành cây. Bình yên nhìn lên bầu trời đầy sao, tìm dải ngân hà và đi theo đàn vịt trời. Vũ trụ sâu thẳm và bao la dường như chứa đầy những bí mật, xa lánh và tê tái trong tâm hồn của những con đom đóm. Hai đứa trẻ, vậy là có nhiều lắm. Một lúc sau, hai chị em lại nhìn xuống đất, nhìn ánh sáng thân mật quanh ngọn đèn. Lắc lư trong gian hàng của chị tôi.”
Những măng đá xanh biếc đánh thức những ký ức xa xăm về tuổi thơ tươi đẹp của mỗi chúng ta. Ngước nhìn bầu trời đêm, tìm dải ngân hà, vịt chạy theo sao Thổ, v.v… Ai mà không có những kỉ niệm tuổi thơ ngọt ngào và đẹp đẽ như thế? Hai đứa trẻ đánh thức trong ta hình ảnh cái đẹp thăng hoa từ những hình ảnh nhỏ bé đời thường. Nó nhắc nhở tất cả chúng ta phải trân trọng và đề cao tinh thần dân tộc. Bởi đó cũng chính là hồn dân, hồn quê, hồn của những con người mãi mãi trung thành với quê hương, đất nước.
Khi còn là đứa con thứ hai, lòng tôi đa sầu đa cảm, trong lòng có đất, có người, có quê. Một làng quê thôn dã với bức tranh nhân văn hiu quạnh, kiếp người mỏi mệt như tiếng con đuông khóc trong chiều tàn, nhưng tấm lòng nhân hậu ấm áp đã in dấu trong lòng người đọc.
Phân tích ảnh phố lúc hoàng hôn – Bài mẫu 2
Thạch Lam là một trong những nhà văn độc đáo nhất của nền thơ ca Việt Nam. Truyện của Thạch Lâm không có cốt truyện, nhưng qua các thế giới tình cảm, tâm trạng của nhân vật, tác phẩm của anh vẫn toát lên cái tình, một cảm xúc thơ tự nhiên, tha thiết. Thông qua các tác phẩm của mình, ông bày tỏ sự đồng cảm, xót xa trước thân phận và cuộc sống của những người dân nghèo khổ. “Hai đứa trẻ” là một tác phẩm như thế! Bằng sự nhạy cảm của mình, Thạch Lam đã vẽ nên bức tranh Phố huyện trong “Hai đứa trẻ” – bức tranh về cuộc sống lam lũ, tăm tối, đơn điệu trong cuộc sống.
“Hai đứa trẻ” kể về cuộc sống của hai chị em ở phố xá, cuộc sống cơ cực trước Cách mạng tháng Tám. thach lam muốn tri ân những mong ước nhỏ nhoi của những người lao động nghèo nơi phố nghèo, xã hội chật hẹp.
Ngay từ đầu truyện, bức tranh phố huyện được dựng lên thật giản dị, nhẹ nhàng mà dung dị. Thạch Lâm sử dụng tất cả các giác quan: thị giác, âm thanh và cảm nhận để tạo nên một khung cảnh phố thị xã hội Việt Nam thời Pháp thuộc điển hình.
Bức tranh Khúc Trấn mở đầu bằng khung cảnh thiên nhiên lúc hoàng hôn và phát triển qua lời kể và cảm xúc của các nhân vật, nhưng bắt đầu bằng những hình ảnh và âm thanh của thiên nhiên và khu chợ đang lụi tàn.
Hình ảnh trời chiều gợi lên cảnh thiên nhiên lúc chạng vạng: “phía tây đỏ như lửa, mây muôn màu như than”. Cảnh chiều rực rỡ, đẹp đến sững sờ, làm nổi lên cái hồn của quê hương. Và trong khung cảnh ấy, không thể thiếu tiếng “trống trống” vàng vọt đi vào không gian dần yên tĩnh, xen lẫn với âm thanh và “tiếng” của “ếch đồng ộp ộp trong gió”. tiếng muỗi vo ve”, tất cả quyện vào nhau thành một âm thanh quen thuộc gợi lên vẻ đẹp thanh bình của một “buổi chiều thanh tĩnh” nơi thôn quê.
Cuộn tranh thiên nhiên quê hương tươi đẹp vẫn giữ được phong cách thơ mộng, mang hồn quê hương. Nhưng mà, mỗi một chữ trong khung cảnh ấy, mỗi một chữ đều mang theo một loại âm trầm buồn tẻ, mục nát đến mức buồn tẻ. Cảnh hoàng hôn thơ mộng như một khoảnh khắc bừng sáng cuối cùng, chập chờn rồi chợt tắt, rất buồn. Vì vậy những âm thanh quen thuộc như “trống trống”, “ếch, muỗi” đều gợi lên sự đều đặn, buồn bã, đơn điệu, đều đều.
Cảnh thiên nhiên buổi chiều tiếp theo là hình ảnh một phiên chợ quê cuối ngày. Hình ảnh chợ quê luôn gợi cho người ta nhớ đến sự hối hả, tấp nập, nhộn nhịp và đẹp đẽ của đồng quê, nhưng hình ảnh chợ ở đây là một phiên chợ đã kết thúc khi “chợ gặp phố”, người đi chưa về một lâu rồi tiếng nào cũng hết”, “Trên mặt đất chỉ còn rác, vỏ bưởi, vỏ chợ, lá nhãn, lá mía”. Không những thế, nó còn gợi lên cuộc sống thôn quê nghèo nàn. Trong khi hình ảnh chợ quê có thể là hình ảnh xao xuyến nhất của một vùng thì ở đây nó gợi lên một nỗi buồn man mác, thê lương.
nổi bật nhất trong hình ảnh thiên nhiên của thị trấn là tâm trạng của Lian En, một trong những cư dân của thị trấn nghèo khó này. Điều ẩn chứa trong tâm trạng cô là một nỗi buồn sâu thẳm của một trái tim nhạy cảm và trong sáng. Nỗi nhớ quê da diết nhưng chị vẫn ngửi thấy mùi quê hương, mùi đặc trưng nhất của phố thị nghèo khó này “mùi ẩm thấp bốc lên, cái nóng ban ngày lẫn với mùi cát quen thuộc, khiến người ta cảm thấy Phụ nữ sẽ nghĩ về vùng đất này và mùi hương độc đáo của ngôi nhà này.Tâm trạng của Liên Chân cũng như hình ảnh của khu ổ chuột này vừa tĩnh lặng vừa buồn bã.Đó là nỗi buồn của một cô gái, nhạy cảm với những cảm xúc xung quanh nàng, mơ hồ và mong manh nhưng ăn sâu vào lòng người “Nỗi buồn mục đồng thấm vào tâm hồn thơ ngây của nàng”, “Tôi thấy xót xa trước ngày tận thế”. Nỗi buồn của Liên Chân cũng là nỗi buồn của Lin trước mặt xã hội đương đại.Trong xã hội này, thời gian như đứng lại trong chốc lát, bất biến và lòng người thật hoang vắng.
Bức tranh ở Khúc Trấn không chỉ thể hiện cảnh hoàng hôn đỏ rực và buồn bã, mà còn xuất hiện trong cuộc sống của người dân Khúc Trấn – cuộc sống của những người đã chết.
Điều đập vào mắt người xem đầu tiên là hình ảnh những đứa trẻ xuất hiện trên đường phố của cộng đồng. Không phải là hình ảnh những đứa trẻ nô đùa, chạy nhảy trên thảm cỏ xanh trong công viên mà là hình ảnh “những đứa trẻ tội nghiệp ngồi xổm dưới đất bên chợ rau vừa đi vừa khám phá” ở hậu cảnh. Cái chợ ở huyện thị ấy”. Cuộc sống bộn bề, đói nghèo càng đốt thêm ngọn lửa. Những đứa trẻ chỉ biết mưu sinh trên những đống rác bỏ lại sau chợ. Làm được gì” để gieo hy vọng cho đám trẻ chợ chết. Cuộc sống của họ, tương lai của họ thật đen tối, thật bế tắc. Và bản thân nhân vật Liên cũng cảm thông cho những số phận ấy, nhưng “bản thân cô chẳng có gì để cho họ cả”. người nghèo và người lao động.
Hình ảnh đứa con bên cạnh là hình ảnh cuộc đời của cô thiếu nữ. Cô xuất hiện trong không gian ngày càng tăm tối của Quzhen với hình ảnh “chiếc giường nhỏ trên đầu và đống đồ đạc trên tay”. Em gái tôi cũng là một công nhân nghèo ở thị trấn vùng da đen đó. Ban ngày thì “mò cua bắt tôm”, tối “dậy sớm tham ăn” mở quán nước, chỉ để vơ vét được ít tiền lẻ nhưng “chẳng được bao nhiêu”. Thân như con cò lội bờ sông, lang thang trong sương sớm, hình ảnh tiêu biểu của người phụ nữ truân chuyên:
“Lặn trong vùng hoang dã”
Nhưng cửa hàng của chị cũng nhỏ và gầy guộc như chị, bởi “cửa hàng của chị” toàn là những thứ chị xách được, xách được, xách được, xách được. Cửa hàng đó chỉ bán trà xanh và thuốc lá cho “một số gạo hoặc một người lái xe tải, và đôi khi là những người thân của một người lính hoặc giáo viên đã mất ở quận gọi là tổ tôm”. Khách hàng của cô đơn giản là những người đang sống như cô, đang sống như cô. Họ chỉ sẵn sàng bước vào cửa hàng của cô ấy khi biết rằng cửa hàng của cô ấy không kiếm được nhiều tiền. Vì thế, trước sự dò hỏi của Liên Chân chỉ biết thở dài: “Ôi, sớm muộn gì cũng phải mất”. Có phải bạn đang thở dài cho cuộc sống vô vị của chính mình, vì cuộc sống quá đơn điệu, chỉ biết lang thang, không có tương lai tươi sáng, và cuộc sống không có ý nghĩa là một tiếng thở dài nhàm chán.
Không chỉ số phận của em gái Mi Chefu mà cuộc sống của hai chị em Lian An và Lian cũng trở nên vô hồn ở quận này. Chuỗi ngày sinh tử của gia đình, bắt đầu từ biến cố “thầy mất dạy” đã đẩy gia đình đến bế tắc. Không thể ở lại trên những con phố nhộn nhịp của Hà Nội nữa, cả gia đình chuyển về quê để tìm cách phá vỡ những bế tắc xung quanh họ. Trở về nhà, mẹ của Lian trở nên lộn xộn, và hai chị em được gửi đến để trông coi “gian hàng do bà già thuê”. Cửa hàng tạp hóa nhỏ chỉ có vài que diêm, vài bánh xà phòng, ít rượu… nhưng khách chỉ gọi “nửa bánh xà phòng”. Chính gian hàng nhỏ bé ấy đã để lại trong mắt người đọc ấn tượng về cái nghèo đơn thuần và sự bế tắc của gia đình. Tuy nhiên, dù có cố gắng thế nào thì bế tắc vẫn là bế tắc “ngày nào cũng không bán được hàng”, không còn hy vọng vào cuộc sống. Ngay cả cuộc sống của gia đình, chị em vẫn cứ quẩn quanh, đơn điệu đến thế, vẫn cái nhịp điệu “sáng dọn ra, tối dọn vào”, “ngày nào cũng vậy, cứ chiều tối mẹ lại về thăm” của chúng tôi. thời gian mỗi ngày”. Những gì tôi sống không phải là niềm vui của một đứa trẻ, mà là một cuộc sống tù túng của sự chán nản, thậm chí không có sự ngây thơ của một đứa trẻ.
Thương thay, thương cho số phận của em gái nhỏ, thương cho cuộc đời đen tối đáng thương của một người cùng cảnh ngộ. Tuy nhiên, khi hình dung ra cuộc sống của gia đình, Liên cũng chạnh lòng, xót xa cho sự bế tắc trong gia đình, xót xa cho sự lam lũ của mẹ cha, xót xa cho những mất mát của cuộc đời mình. Sống những ngày vô nghĩa của cuộc đời. Tâm trạng ấy thể hiện qua từng câu chữ đầy cảm thương, xót xa của Thạch Lam.
Những mảnh đời không chỉ có vậy mà còn được tô điểm bởi hình ảnh của bác Siêu, bác Xẩm, bác Thị điên. Thoáng qua, những hình ảnh đời thường ấy cũng khiến ta không thể nào quên.
<3 Gánh phở của bạn là "món quà xa xỉ tiền tỷ" ít ai mua được. Chính vì vậy, hàng phở ở thị trấn này luôn vắng khách. Mỗi ngày là một điệp khúc đơn điệu, tối đốt lửa, đêm vác gánh về làng. Cuộc sống của chú Chao cũng đơn điệu, nhàm chán và lặp đi lặp lại như cuộc sống của em gái mình.
Trên chiếc chiếu còn có hình gia đình bác Xẩm, cũng là những người đã chết ở vùng này. Gia đình bác xẩm sống bằng nghề văn nghệ và kiếm ăn, không có nơi trú mưa nắng nên chỉ có thể núp tạm dưới gầm cầu, vỉa hè để nghỉ ngơi. Tài sản của gia đình ông chỉ là chiếc chiếu rách, cái bầu và đồ dùng bằng sắt, bằng đồng, tất cả đều là của cả nhà. Tuy nhiên, hình ảnh khắc sâu nhất trong tâm trí người đọc là hình ảnh “cậu bé chui dưới đất, chui ra khỏi chiếu, nghịch đống rác bẩn thỉu vùi trong cát bên vệ đường”. Những đứa con – những đứa con côi cút chui ra khỏi chiếu nhưng cũng không thoát khỏi cuộc sống đói nghèo, bóng tối bủa vây gia đình anh.
Cuối cùng là hình ảnh bà cụ nghiện rượu. Cây đàn là biểu tượng của kiếp người đang hấp hối gần hết, vẫn thật èo uột, mục nát. Kết hợp hình ảnh các nhân vật nơi phố huyện là hình ảnh bà lão điên “đi vào bóng tối” với “tiếng cười hạnh phúc”. Đó là tiếng cười rợn người của một cuộc sống đang chết dần, một cuộc sống đang chết dần chết mòn ở thị trấn nghèo này.
Từ khung cảnh buổi chiều thê lương đến cuộc sống tối tăm, điêu tàn và khó khăn, thị trấn có một cái nhìn toàn cảnh. Những ai sống một cuộc đời đơn điệu, nhàm chán, buồn tẻ, tù túng và vô nghĩa thì suốt đời họ là những mảnh đời đau khổ đầy bi kịch vật chất, nghèo đói và bi kịch tinh thần. Cuộc sống của họ quá tăm tối không có tương lai tươi sáng. Hình ảnh ấy được nhìn qua đôi mắt của Liên – một cô gái trẻ với tâm hồn ngây thơ, nhạy cảm, trong sáng, cũng hoàn cảnh như bao người khác. Đằng sau sợi dây liên kết là tâm hồn của một nhà văn tiểu tư sản đan xen với tâm hồn của những người lao động khác bằng tình yêu thương, sự chiêm nghiệm của mình, bày tỏ sự cảm thông, xót xa cho số phận của họ.
Thạch Lam viết về người lao động nghèo, nhưng thay vì xoáy sâu vào cái nghèo của họ, ông lại đi sâu vào bi kịch tinh thần của những kẻ sống bơ vơ, vô nghĩa. Sau khi thấu hiểu những bi kịch tình cảm đầy đau khổ đó, phải chăng Lâm Trạch Lâm đã thức tỉnh ý thức cá nhân và quyền sống của con người nên cảm thấy xót xa cho những mảnh đời vô nghĩa đó. ở đó? Có lẽ chính điều đó đã tạo nên chiều sâu ý nghĩa nhân đạo của tác phẩm mà thạch lam muốn gửi gắm.
Bức tranh về một thị trấn trong khu vực nghèo khó khép lại với bầu trời đêm đen kịt khi màn đêm buông xuống. Đó là một đêm hè “êm như nhung, lồng lộng”, “trên trời muôn ngàn vì sao lấp lánh, thoảng trên mặt đất hay trên cành cây dưới ánh đom đóm nhảy nhót”. Thật là một đêm Vinh quang, vinh quang! trời sáng rực rỡ, cảnh đẹp say lòng người, đất tối đen như mực, chiếm lĩnh những con phố nhỏ của cộng đồng, phải chăng đây cũng là ẩn dụ cho xã hội thời Pháp thuộc, một xã hội đen tối không ánh sáng xuyên qua, kìm hãm, ngột ngạt và nghèo đói.
Con người sống trong xã hội ấy giống như những hạt ánh sáng, những chấm sáng, những khe sáng, những tia sáng lung linh, nhỏ bé, luồn lách, chập chờn. Nhân vật chính của Liên hay Thạch Lâm đau buồn trước cuộc đời tăm tối không tương lai tươi sáng ấy. Bầu trời ngàn sao đẹp đẽ, nhưng với Lian, đó chỉ là “vũ trụ sâu thẳm và bao la”, “đầy bí ẩn”, và những niềm vui xưa cũ không còn có thể thành hiện thực. . Vì vậy, tôi cứ “nhìn xuống đất” và “nhìn vào vầng hào quang thân thiết quanh ngọn đèn leo lét trên sạp hàng của cô em gái nhỏ”. Bởi vì vầng hào quang đó rất gần với Liên, bởi vì đó là cuộc sống vô nghĩa và mờ ảo của chính cô.
Bức ảnh Thạch Lam ở phố Qu cuối ngày khi được dựng lên là một mô hình thu nhỏ của toàn bộ xã hội Việt Nam thời Pháp thuộc. Đó là một xã hội chật hẹp, ngột ngạt, tối tăm tột cùng, nơi nghèo đói và cuộc sống của những người đã khuất gắn bó chặt chẽ với nhau.
Nghệ thuật sử dụng trong măng đá là một chất liệu thực tế được trải nghiệm trực tiếp. Xen lẫn với hiện thực là cảm hứng lãng mạn cho từng cảnh sắc thiên nhiên, tạo nên ý nghĩa tượng trưng sâu sắc cho từng nhân vật.
Bức tranh miền viễn xứ dựa trên dòng thời gian từ chiều tà đến rạng đông, khắc họa từng bước diễn biến tâm trạng nhân vật. Qua những rung động mơ hồ, tinh tế, mong manh của một tâm hồn trẻ thơ nhạy cảm, Thạch Lam đã dựng lại một bức tranh quê hương tràn ngập vẻ đẹp của quê hương, đồng thời gửi gắm trong đó tình yêu quê hương, lòng yêu nước, yêu cuộc sống của những người đang chết trong chiến tranh. phố phường Nỗi buồn và sự cảm thông sâu sắc. Sâu thẳm trong tim là ý thức phê phán xã hội thực dân tiểu tư sản không bảo vệ được tính mạng và quyền sống của con người.
Phân tích ảnh phố huyện lúc hoàng hôn—mô hình 3
thạch lâm là một trong những tác giả chính của Tự lực văn đoàn. Tác phẩm của anh thiên về cảm xúc trong sáng, nhẹ nhàng nhưng vô cùng sâu lắng. Đằng sau những trang thơ là tấm lòng nhân ái, nhân văn đối với những mảnh đời nghèo khổ trong xã hội. Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của ông. Chụp lại khoảnh khắc cuối ngày, khối măng đá khắc họa cuộc sống lam lũ của người dân nơi đây cũng đầy thơ mộng.
Những măng đá xanh lựa chọn thời điểm hoàng hôn buông xuống khi vạn vật bắt đầu chuẩn bị ngủ đông. Bằng ngòi bút tinh tế, nhạy cảm của mình, ông không chỉ nắm bắt được cái hồn của cuộc sống con người mà còn chụp được cả những bức tranh thiên nhiên. Qua hai bức tranh này, cái nhìn và tình cảm của tác giả được thể hiện trước hiện thực cuộc sống.
Xem Thêm: Viết 1 đoạn văn bằng tiếng Anh nói về sở thích của mình (34 Mẫu) Nói về sở thích bằng tiếng Anh
Những bức tranh thiên nhiên đẹp như mơ nhưng đượm buồn, còn lại âm thanh chỉ là “tiếng trống khua chiêng trong xóm nhỏ; từng đứa ríu rít trong chiều”, tiếng ếch nhái ríu rít trong khoảng cách, kèm theo tiếng gió. Giọng nói lẽ ra phải to và ồn ào, nhưng hóa ra lại căng thẳng, lo lắng và u ám. Có lẽ không gian phải yên tĩnh và tĩnh lặng để có thể nắm bắt trọn vẹn mọi âm thanh ở đó. Lúc này, mặt trời cũng dần đi vào trạng thái ngủ đông: “Phía Tây đỏ như lửa”, “Mây muôn màu như than sắp tàn”, những gam màu sáng, gam màu nóng đều gợi cho con người những điều xui xẻo. Những hàng tre làng phía trước Heimian hiện rõ trên nền trời, khiến khung cảnh trước mặt chìm trong bóng tối, bóng tối dần bao trùm lấy họ. Nhịp điệu chậm rãi, chuyển động câu thơ như khắc họa bức tranh thiên nhiên thanh bình, yên ả. Một bức tranh hoàng hôn đẹp mơ màng, thanh bình nhưng đầy u uất, hoang vắng.
Bên cạnh những bức tranh thiên nhiên, măng đá còn mang hình ảnh của nó vào những bức tranh sinh hoạt đời thường của con người. Anh chụp được cảnh chợ chết. Người ta thường nói muốn biết cuộc sống bên đó ra sao thì cứ ra chợ là biết. Hoa nhài cũng vậy. Khung cảnh chợ sau buổi họp trông buồn tẻ và tồi tàn. Sự hối hả và nhộn nhịp đã biến mất, và bây giờ chỉ có sự im lặng. Chỉ có một vài người bán muộn đi lấy hàng và trò chuyện vội vàng. Chợ rau chỉ có rác, vỏ rau, vỏ bưởi… Những đứa trẻ tội nghiệp ngồi xổm dưới đất bên chợ rau, nhặt nhạnh que tre,… lại… tội nghiệp, tội nghiệp. Hai mẹ con ban ngày mò cua bắt ốc, tối đi gánh nước đi bán, nhưng dù cố gắng mấy cũng không đủ ăn. Bà già điên nghiện rượu, lúc nào cũng cười rạng rỡ, hai chị em còn kinh doanh một cửa hàng tạp hóa nhỏ, bán những món đồ đơn giản cho khách quen. . Lian và An chỉ là những đứa trẻ, nhưng họ phải tham gia vào cuộc sống mưu sinh. Cuộc sống của người dân nơi đây thật tẻ nhạt, họ tượng trưng cho một cuộc sống dài đằng đẵng và mệt mỏi. Trong sâu thẳm, họ luôn khao khát, chờ đợi một cuộc sống tốt đẹp hơn nhưng vẫn còn mơ hồ.
Nổi bật nhất trong bức tranh là tâm hồn tinh tế, nhạy cảm của các nhân vật. Cô tinh tế, nhạy cảm trước những biến đổi của thiên nhiên vào giờ phút hấp hối, và cảm nhận từng chi tiết quen thuộc của cuộc sống nơi đây: “Mùi ẩm mốc lẫn mùi bụi quen thuộc. Và…”, một mùi quen thuộc, đã luôn dính vào cô ấy. Cô ấy đã sống trong nhiều năm. “Tiếp tục ngồi yên lặng bên cạnh Heiqi…” Nhìn cảnh này, nỗi buồn và sự tĩnh lặng của thiên nhiên như thấm sâu vào trái tim non nớt và nhạy cảm của cô. Lian cũng là một cô gái tốt bụng và chu đáo. Đó là một câu hỏi đầy trăn trở về mẹ và em gái, chứa đựng tình yêu thương, sự xót xa, lo lắng cho hoàn cảnh của gia đình. Nghe tiếng cười, biết là ông già, “rót ly rượu đưa cho”, “đứng nhìn”. Tôi xúc động trước hình ảnh những đứa trẻ nghèo nhặt rác mà chính tôi cũng không có tiền cho.
Bức tranh phố huyện lúc chiều tà là một đoạn văn đầy màu sắc trữ tình. Thứ thơ ấy bắt nguồn từ thiên nhiên, từ cảnh quê hương bình dị, thân thuộc, tiếng trống canh, tiếng ếch nhái ngoài đồng…, và chất thơ còn được thể hiện ở tâm hồn nhạy cảm, tinh tế. cuộc sống xung quanh. Không những thế, bài thơ còn tràn ngập từ ngữ, câu văn nhịp nhàng, nhịp nhàng, giàu nhạc tính: “Chiều ơi là chiều Chiều êm ả như khúc ru, Vẳng tiếng ếch nhái ngoài đồng bị gió thổi qua. ” , tô thêm màu sắc trữ tình cho tác phẩm.
Tranh phố huyện về chiều vẽ nên một bức tranh thiên nhiên vừa đẹp vừa buồn thể hiện cuộc sống, những bế tắc, nghèo khó của người dân nơi đây. Đằng sau những bức tranh về thị trấn nhỏ, ta thấy được tình yêu thiên nhiên và tấm lòng nhân văn sâu sắc của tác giả: nâng niu cuộc sống vì những ước mơ. Nghệ thuật miêu tả độc đáo và đầy chất trữ tình cũng là yếu tố làm nên thành công của tác phẩm.
Phân tích ảnh phố lúc chiều tà – mẫu 4
“Nhà văn có tài viết truyện ngắn” không ai khác chính là Lin Saqi. Truyện ngắn của ông kết hợp yếu tố hiện thực và lãng mạn, “nhưng vẫn thiết tha với quê hương, sâu nặng tình yêu”. Cảnh chiều tà nơi phố huyện trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ” là bức tranh kết hợp hai chất liệu này. Lãng mạn ẩn chứa hiện thực, cảnh sắc thiên nhiên và văn hóa nơi đây được miêu tả bằng bút pháp.
Thạch Lâm quê mẹ ở huyện Tấn Giang, từ nhỏ đã tiếp xúc với nông thôn nên tác phẩm của anh luôn có cảnh và bóng dáng làng quê. nghèo nàn.
Cảnh phố lúc chiều tà trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ” được tác giả miêu tả chân thực từ khung cảnh hoang vắng nhìn từ xa. Ở Hoàng hôn, Âm thanh, Không khí, Ánh sáng là chàng trai nhỏ kiếm sống. “Ông ấy có một cây bút rất trầm lặng, điềm tĩnh, một cây bút giỏi trong việc chi tiết hóa những điều rất nhỏ và đẹp.”
Tác giả miêu tả cảnh hoàng hôn nơi phố huyện, bắt đầu từ tiếng trống thu vắng vang lên ngắt quãng, báo hiệu ngày tàn và điểm chấm khi trời tối dần. Mở đầu nên thơ, dịu dàng, gợi lên không khí ảm đạm của thị trấn nhỏ. Không chỉ vậy, còn có cả những âm thanh của làng quê: “tiếng ếch nhái kêu ngoài đồng khi gió thoảng về”, tiếng “muỗi bắt đầu vo ve” lúc chập choạng tối. Những âm thanh ấy gợi cảm giác bị bóp nghẹt và im lặng, mang đậm chất thôn quê. Phải là người nhạy cảm, yêu quê hương đất nước, có tầm nhìn tinh tế, xa rộng thì mới có thể lặng lẽ cảm nhận được điều bình dị ấy.
Màu trời nơi đây, cảnh sắc nơi đây, đỏ như lửa cháy, hồng như than sắp tắt trong mây, cho thấy ngày đã qua, bóng tối bắt đầu lan ra từ bóng tối đen kịt của bầu trời. núi non. Lũy tre làng rõ mồn một giữa trời. So sánh độc đáo, biểu đồ so sánh chi tiết, làm nổi bật các thông số kỹ thuật toàn diện của Twilight.
Bóng tối bao trùm “ngôi nhà sáng đèn”, nhưng ánh đèn không chói chang chói chang như ở thành phố, nào là đèn chùm nhà bác Phó, đèn Mỹ nhà ông Cửu, đèn dây quán màu xanh……” Những ánh sáng ấy yếu ớt, như đưa người ta vào một thế giới hư ảo, một bên sáng, một bên tối.
Mùi vị thế nào? Một mùi ẩm mốc bốc lên, cái nóng ban ngày quyện với khói bụi, mùi quen thuộc của quê hương, của quê hương nghèo khó. Ống kính của người viết lia sát mặt đất, nào là rác, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn, lá mía. Tất cả đều được tác giả chụp lại.
Những bức tranh thiên nhiên nơi phố thị hoang vắng, hoang vắng thật gợi cảm và thơ mộng, tác giả dùng những câu văn miêu tả nhẹ nhàng, nhưng giọng điệu chậm rãi, nhẹ nhàng lại chứa đầy nỗi buồn của con người. trước khi hết ngày.
Thiên nhiên u buồn nhưng đầy chất trữ tình Còn bức tranh cuộc sống lúc hoàng hôn thì sao? Họ là phàm nhân. Những người nhỏ bé và nghèo khổ như chị em. Vì Liên và An lẻ loi trong cảnh chợ trưa nên hai người đầu tiên xuất hiện trong cảnh chiều với tâm trạng “buồn”. Hai anh em được mẹ gửi đi quản lý một cửa hàng tạp hóa nhỏ, thu nhập không nhiều, chỉ muốn giúp gia đình nhỏ vượt qua khó khăn khi bố thất nghiệp, cả gia đình phải rời Hà Nội lên Hà Nội lập nghiệp. sống ở nông thôn. thạch lam đi sâu vào thế giới nội tâm của các nhân vật ở giữa truyện. Nỗi hoang vắng của cô gái “thấm vào tâm hồn trong sáng”, trái tim hoang vắng trước ngày tận thế. Cậu bé vẫn hồn nhiên như một đứa trẻ. Ngòi bút của ông đi sâu vào thế giới nội tâm của nhân vật.
Những người thân quen của hai chị em cũng được biên kịch khắc họa kỹ lưỡng. Họ cũng khốn khổ và nghèo khổ như Liam. Mấy ngày liền mẹ con chị mò cua bắt tôm trong nước đục, chiều tối ra dưới gốc cây bàng đợi gánh chè đem bán cho dân cuốc, lái xe, bộ đội và bà con. . giáo viên. Có khi hào hứng uống cốc nước và hút tẩu. Họ không giàu hơn bạn nhiều. Không thực sự sống, nhưng đấu tranh trong vô vọng để duy trì sự tồn tại. Bởi vì người ta làm việc quá sức cho một mét và một bộ quần áo.
Xem Thêm : Cỡ chữ là gì? Cỡ chữ chuẩn trong word là bao nhiêu?
Ngòi bút đầy chất nhân văn của Thạch Lam thổi bùng lên số phận của một kiếp người bị hủy hoại bởi hình ảnh một bà già – “loại bà già dở hơi vẫn mua rượu ở quán”. Người nửa tỉnh nửa say, nửa tỉnh nửa mê, nàng đi bộ từ chập choạng tối đến quán uống nước, rồi “đi trong bóng tối, tiếng cười nói của khách quen dần trong làng”. Con người ấy tuy chỉ xuất hiện với vài dòng chữ nhưng đã để lại trong ta biết bao nỗi ám ảnh. Hình ảnh này gieo vào lòng người đọc sự lo lắng, ngậm ngùi cho những cảnh đời đen tối, bế tắc, vô vọng.
Đó còn là hình ảnh của những đứa trẻ nghèo khó, trạc tuổi Lian và An nhưng phải “cúi xuống” nhặt những thanh tre, nứa, những đồ bỏ đi mà người bán hàng còn dùng được. Từ gù lưng nói lên sự nghèo khó của những đứa trẻ nơi đây, đáng lẽ ở độ tuổi được vui chơi thì lại phải lao động. Tuổi thơ của họ đầy nghèo khó. Thông qua những hình ảnh này, Thạch Lam tố cáo một xã hội hiện thực chưa thực sự quan tâm đến đời sống của con người, đặc biệt là quyền trẻ em. Cũng như nhiều bạn đọc, ông luôn mong các cháu được sống vui, học hành hạnh phúc. Trong xã hội ngày nay, đất nước tuy đã có nhiều phát triển nhưng vẫn còn rất nhiều trẻ em kém may mắn, gặp khó khăn cần được sự quan tâm, giúp đỡ của xã hội.
Biên kịch Lin Linzhe, với tư cách là một nhà quay phim thiên tài, tái hiện khung cảnh thị trấn trong múi giờ hoàng hôn, từng lời nói của ông tỉ mỉ như quay chậm, quan sát mọi khung cảnh và nhân vật ở đây trong nhịp sống. Đồng thời, như một nghệ sĩ tài hoa, anh vẽ nên bức tranh ngày tàn, sự sống chập chờn như ngọn đèn đêm. Anh ấy cũng là một nhà tâm lý học xuất sắc, hiểu được thế giới nội tâm của các nhân vật của mình. Một cô bé nhạy cảm và tốt bụng hiếm có, cô rất yêu gia đình và yêu cuộc sống xô bồ xung quanh mình. Qua đó cho thấy tình cảm chân thành của nhà văn đối với những người xấu số.
Câu văn lãng mạn, lối viết trữ tình xen lẫn hiện thực trong truyện ngắn, lối hành văn nhẹ nhàng, trang nhã, sử dụng chất liệu ngôn ngữ gợi lên cảnh nghèo khó, gian khổ, điêu tàn đến tiêu điều, khắc họa khung cảnh phố phường về chiều . Bức ảnh ấy khiến người ta có dư vị bất tận, băn khoăn, trăn trở cho cuộc sống của những người dân nghèo.
Phân tích ảnh phố huyện lúc chiều tà-mẫu 5
Trong văn học nước nhà, hiếm có ai được như Taling. Truyện ngắn tưởng chừng đơn giản, không có cốt truyện nhưng giọng văn nhẹ nhàng của tác giả đã để lại ấn tượng sâu sắc, suy nghĩ, dư âm nhẹ nhàng mà sâu lắng trong lòng người đọc. “Hai đứa trẻ” (đăng trong “Nắng trong vườn” năm 1938) là một truyện ngắn như thế. Dưới con mắt hồn nhiên của “Đứa con thứ hai”, người đọc như hòa vào, cùng dõi theo để rồi hiện ra những bức tranh về thiên nhiên, cuộc sống vùng nghèo khó, chất phác và con người trong hiện tại. cấp trên.
Mặt trời lặn về chiều, le lói, vài ngọn đèn le lói trong màn đêm mênh mông, đời người như vật vô nghĩa, đang dần cạn dầu trong ngọn đèn kéo quân, trước khi chìm vào màn đêm. Cảnh thiếu hấp dẫn, hoạt động của con người rời rạc, đơn điệu, bức tranh chiều dần tối nhưng ánh đèn leo lét vẫn tiếp tục lôi cuốn người đọc dõi theo cô để quan sát. của bức tranh và cái nghèo thực sự của cuộc sống đường phố, gợi cho người đọc một cảm giác xót xa.
Mở đầu truyện, Thạch Lam bằng khả năng quan sát tài tình và ngòi bút tài hoa của mình đã vẽ nên một bức tranh giản dị nhưng đầy chất hư ảo, khiến ta có cảm giác như đang lạc vào thế giới cổ tích. Những túp lều quê vắng, lần lượt gọi chiều. Mờ và hình ảnh rõ ràng trên nền trời. Từ “chiều” được lặp đi lặp lại, bóng tối lan nhanh thấm vào tâm hồn thơ ngây của cô bé, và âm thanh “mượt như lời ru, vang vọng tiếng ếch nhái ngoài đồng” được tạo ra trong câu nối. .”Buồn trước ngày tàn” Chợ “đi lâu rồi”, “người đi rồi, hối hả cũng đi”, chỉ còn lại cái nghèo, cái thân xác “rác, vỏ bưởi, vỏ chợ, lá nhãn, lá bách”, chỉ có Xuống dưới “hôi thối” và “ẩm thấp”, chỉ cái nóng ban ngày, mùi bụi bặm và cảnh những đứa trẻ tội nghiệp lom khom đi tìm. Thế giới “thần tiên” do nhà văn xây dựng khác hẳn với thế giới của những cô gái già và những cô bé tro tàn! Ngay sau đó, hình ảnh những người dân nghèo khác lần lượt hiện ra: hai mẹ con chị gánh chiếc điếu nhỏ, dùng thúng tre đựng nước, dù chẳng kiếm được bao nhiêu tiền: “Nhà Thâm ngồi chiếu, trắng cái bát. đang ở trước mặt anh”, và có tiếng “thịch thịch” từ quán phở của anh; bà lão “hơi khùng mà vẫn mua rượu trong quán” bước vào màn đêm bao la với nụ cười tươi như ánh sáng trong cơn gió của “quán nhỏ”. “Vực thẳm bao la của vũ trụ”, “một điểm lửa nhỏ màu vàng khác trôi nổi trong bóng tối ở khu vực này, biến mất và xuất hiện trở lại”; trong bóng tối”. Ngày qua ngày, chiều và tối lặp đi lặp lại một cách đơn điệu buồn tẻ như cuộc sống khổ cực của người dân trong vùng. Phải chăng ánh sáng của cuộc đời, như ngọn đèn của chị, chỉ le lói “chỉ soi sáng một vùng nhỏ”. Những khu vực sang trọng, rực rỡ của chuyến tàu đêm đi qua thị trấn chỉ lướt qua rồi biến mất trong đêm tối, chỉ còn là những điều mơ hồ, xa lạ chưa từng có trong cuộc đời của hai chị em. huyện này.
Không phê phán, lên án hay chất vấn, ngòi bút tài hoa của Thạch Lam chỉ miêu tả cuộc sống thực tại, tăm tối và vô vọng của người nông dân. , một vùng nghèo khó làm chúng tôi đau đớn, và gieo vào chúng tôi những hoài nghi về xã hội mà nhà văn đang sống. Đóng góp cho đời như vậy, đồng cảm với cảnh người như vậy, miêu tả trong tác phẩm như vậy, tâm hồn nhà văn cao đẹp biết bao, giá trị văn học mà ông tạo ra thật rực rỡ và đáng trân trọng. Chúng tôi liệt kê Thạch Lâm như một trong những nhân vật lớn của văn học nước nhà giai đoạn 1930 – 1945, và độc giả cảm ơn tác giả về công trình để đời của ông và coi ông là bậc thầy thực sự của thế giới truyện ngắn. Sự sáng chói của ông, như tác giả đã nói với độc giả: “Vì văn chương không phải là cách để người đọc trốn tránh hay lãng quên, mà ngược lại, văn học là một thứ vũ khí cao cả. làm cho người đọc trong sáng và phong phú hơn.”
Phân tích ảnh phố huyện lúc chiều tà-mẫu 6
thạch lam là cây bút có tiếng trong nhóm tự lực với lối viết không lẫn với bất kỳ cây bút nào khác. Công việc của anh ấy dịu dàng, sâu sắc, lôi cuốn và nhẹ nhàng. Chúng như những lời thủ thỉ, nhưng lại có sức ám ảnh đối với người đọc. Những câu chuyện anh kể thường không có cốt truyện, vì mọi thứ đều được viết bằng chất liệu nông cạn và sâu sắc nhất. “Hai đứa trẻ” là một câu chuyện như thế. Truyện ngắn này miêu tả cảnh nghèo đói, cơ cực ở một quận nghèo.
Những măng đá xanh luôn làm cho người đọc cảm nhận được sự tinh tế của tâm hồn trong lời văn. Sự dịu dàng làm nên nét độc đáo cho văn Thạch Lam. “Second Child” kể về cuộc sống của An Hách Liên tại một thị trấn nhỏ thuộc vùng nghèo khó, ngày ngày lặp đi lặp lại những công việc tẻ nhạt. Thông qua hai nhân vật này, tác giả muốn gửi gắm đến người đọc nhiều thông tin về cuộc sống, về những khó khăn mà con người phải trải qua.
Bối cảnh của truyện là khung cảnh chật vật của phố huyện nghèo khó ẩn hiện trong từng trang viết. Có lẽ chính bức tranh ấy đã là nguồn cảm hứng để Thạch Lam gửi gắm nỗi niềm của mình. Đây là vùng đất nghèo khó của Cẩm giang – nơi anh sinh ra và lớn lên.
Ở câu đầu tiên, “tiếng trống ngoài chợ trong đồng, từng hồi vọng xa gọi trưa…”, cho thấy khung cảnh của một thị trấn nghèo. Một hồi trống vang lên trong buổi chiều sắp tàn, có lẽ cảnh vật và con người đang đắm chìm trong trạng thái bâng khuâng. Tại sao tác giả lại chọn một buổi chiều mùa thu làm cảm hứng miêu tả phố huyện? Bởi mùa thu bao giờ cũng buồn nhất, hoài niệm nhất và xúc động nhất. Hai đứa trẻ hiện lên với công việc hàng ngày là “thắp đèn” và “đóng quan tài”, ngắm nhìn hình ảnh đoàn tàu từ Hà Nội về, chợt sáng lên, rồi chìm trong tuyệt vọng.
Tác giả phác họa hình ảnh phố huyện trong buổi chiều tà qua chi tiết: “Chợ đã họp giữa phố Quạt đã lâu, người về hết, tiếng ồn ào đã khuất, chỉ còn rác, bưởi vỏ bỏ dưới đất, vỏ chợ, lá nhãn, bã mía.. Mùi ẩm mốc bốc lên, cái nóng ban ngày và mùi bụi quen thuộc làm chị em nhớ đất này, mùi quê hương này. Vài thương lái về muộn đang phân loại hàng hóa thì cột đèn đã sáng, họ đứng nói với nhau vài câu, đó là khung cảnh cuối con đường tồi tàn, một kiểu héo úa, tàn tạ và thậm chí cô đơn được bày ra trước mắt độc giả. đó là thực tế ở miền bắc nước tôi lúc bấy giờ. Mọi thứ dường như Đau khổ, kém hấp dẫn, không hấp dẫn, dường như không có sức sống. Tất cả chỉ là những thứ đơn giản, nghèo đói.
Những câu văn mượt mà diễn tả không gian u ám, tĩnh mịch của phố phường bình dị. Trên cái nền đen tối ấy hiện lên bóng dáng của những đứa trẻ tội nghiệp “Những đứa trẻ tội nghiệp bên chợ ngồi xổm xuống đất tìm kiếm. Chúng nhặt những thanh tre, xiên tre hay bất cứ thứ gì chúng có thể sử dụng được. Điều đó làm tôi cảm động, nhưng tôi không có tiền để cho”. họ.” Khi người nghèo xuất hiện, bức tranh còn ảm đạm hơn, dường như nhân đôi sự nghèo khổ và khốn khổ của vùng đất. Và người đọc thấy được vẻ đẹp của sự kết hợp tâm hồn, thánh thiện và cao cả.
Ở ngôi làng nghèo khó ấy còn biết bao số phận khác, tất cả góp phần làm nên sự hỗn loạn của phố thị buổi tối. Đó là hình ảnh hai mẹ con dọn hàng nhưng “chẳng kiếm được bao nhiêu”. Hay hình ảnh hai chị em sau khi chuyển đến con phố nghèo này, hai chị em phụ mẹ bán đồ tại chiếc sạp do mẹ thuê của người khác, bên trên có chiếc chõng tre gỗ.
Một người ít nói, một người cần cù, lặng lẽ nhìn cái nghèo trước mặt mà không làm được gì.
Xen lẫn với những người thiếu thốn về vật chất còn có hình ảnh bà lão điên thường đến quán mua rượu. Hình ảnh bà lão “ngẩng đầu hớp lấy bầu không khí trong lành, cầm trên tay 30 xu, lững thững đi” khiến người đọc cảm thấy cuộc đời là một cuộc sống không ngừng nghỉ, không ngừng nghỉ.
Trong lòng quận, dường như ai cũng mong chờ chuyến tàu từ Hà Nội vào, hối hả hơn, hối hả hơn, hối hả hơn. Có lẽ chuyến tàu này rất có ý nghĩa với người dân vùng đất này. Bởi vì “con tàu này dường như đã mang theo một thế giới khác”. Đó cũng có thể là cuộc sống sung túc, yên bình của hai chị em ngày xưa.
Đoàn tàu có thể là ước mơ, là ước vọng tươi sáng đến với người dân nơi vùng đất nghèo khó này.
“Hai đứa trẻ” là một câu chuyện nhẹ nhàng, không kịch tính nhưng lại khiến người đọc phải nao lòng về cuộc sống, về mảnh đất cằn cỗi trong những ngày đất nước ta còn bị bom đạn bao phủ.
Phân tích ảnh phố lúc chiều tà – Văn mẫu 7
Thạch Lam (1910-1942) là nhà văn viết truyện ngắn, văn xuôi tiêu biểu của Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX. Trong văn của Taelin, hai yếu tố hiện thực và lãng mạn được kết hợp một cách tự nhiên, hài hòa nên văn của Taelin vừa nhẹ nhàng, vừa tao nhã lại có phong vị sâu sắc. Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” in trong tuyển tập “Nắng trong vườn” năm 1938 là một truyện ngắn đặc sắc tiêu biểu cho phong cách bút kí. Trong truyện ngắn, qua con mắt của hai đứa trẻ, tác giả đã tái hiện bức tranh thiên nhiên và bức tranh đời sống nông thôn Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám. Qua hai bức tranh này, tác giả gợi lên nhiều ý nghĩa xã hội sâu sắc.
thạch lam chọn thời điểm tiếng trống thu chưa gọi là chiều là “cuối ngày” để miêu tả những con người nhỏ bé dường như càng buồn hơn khi chiều càng về tối.
Mặt trời ló khỏi rừng trúc, mây hồng, rừng trúc đầu làng chuyển sang màu đen, trời đêm khu đô thị lấp lánh, đom đóm lập lòe trong bóng tối thăm thẳm. Chợ tan rồi, sự xô bồ cũng biến mất, trong chợ chỉ còn rác rưởi, đầy vỏ thị, vỏ bưởi, lá nhãn… Sự hối hả, nhộn nhịp nhường chỗ cho sự hiu quạnh của khu chợ chết khiến mọi người cảm thấy buồn. Thông thường, muốn hiểu kinh tế văn hóa của một vùng nông thôn, người ta sẽ nhìn vào chợ. Ở đây, măng đá cũng được mô tả theo khái niệm này. Đầu tiên, ông mô tả một thị trường chết cho độc giả. Nó làm tôi nhớ đến một vùng quê rất nghèo và lam lũ.
Âm thanh ấy là tiếng trống thu, tiếng ếch nhái ngoài đồng, tiếng muỗi vo ve, tiếng hoa bàng rung rinh tạo nên một tín hiệu u sầu báo hiệu cuộc đời không còn nhiều niềm vui. Mùi bụi quen thuộc, màu lưỡi câu ẩm thấp, mùi khói, mùi cỏ, mùi phân trâu là những mùi rất riêng của quê hương này, mùi của sự nghèo khó, bế tắc.
Tóm lại, khung cảnh thiên nhiên của thị trấn thật yên bình, nhưng đượm nỗi buồn và tình cảm trìu mến của một nhà văn luôn yêu những biểu hiện của một tâm hồn già dặn. Nhà văn đã từng mượn bút pháp tả cảnh và tả tình, dùng cảnh tả người để tả đời. Qua lối viết này, tác giả đã gián tiếp phác họa bức tranh chung về đời sống nông thôn Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám.
Ở tác phẩm này, ngòi bút của tác giả tập trung miêu tả những hình ảnh của cái nghèo, cái nghèo, lam lũ, tăm tối và cuộc sống đổ nát.
Cảnh đời người trước hết qua con mắt của chị em nhà văn hiện lên như những đứa trẻ tội nghiệp co ro trên sàn chợ chết. Sau khi tan chợ, những đứa trẻ tội nghiệp này ra chợ nhặt đồ thừa để kiếm sống qua ngày, nhưng vì chợ cằn cỗi nên chẳng còn gì trong chợ, chúng chỉ nhặt được vài que tre. Trên nền chợ chỉ còn sót lại vài thanh tre. Và sau đó chúng tôi thấy rằng cuộc sống của những đứa trẻ này không tốt chút nào. Khi miêu tả hoàn cảnh sống của người lao động, tác giả đã sử dụng nhiều bút pháp quan sát và miêu tả về hai mẹ con. Chị tôi làm nông, suốt ngày chỉ biết “ mò cua bắt tép”, bán nước trên giường chẳng kiếm được bao nhiêu nhưng tối nào cũng soạn hàng bán, trông ngóng. với nó. Cảnh mưu sinh nơi ngõ xóm đêm nào cũng vậy, vợ chồng chú nghèo ngồi trên chiếc chiếu rách, trước mặt là chiếc chậu trắng muốt chờ đợi. Bà già luôn về nhà trong bóng tối. Còn hơn các chị mở tiệm tạp hóa mà hàng ngày bán không được, biết bao mạng người tan nát trên chiếc võng gãy.
Tất cả những kịch bản này đều có một điểm chung: nghèo cùng cực, nghèo cùng cực. Đó là một trận lụt đen tối, không có dấu hiệu của tương lai. Nhưng chúng ta đã biết rằng con người là linh hồn của đất nước. Miêu tả cảnh nghèo khổ, vất vả của người dân, tác giả miêu tả cảnh nghèo khổ của người dân quê trước Cách mạng tháng Tám thật đáng thương, thật đáng quý, thật đau lòng.
Để miêu tả bức tranh cuộc sống tăm tối, nghèo khổ, tác giả lấy bóng tối của thế gian làm nền. Mặc cho vẻ đẹp vĩnh cửu của thiên nhiên “đêm hè êm như nhung gió thoảng mát rượi”, những đêm ấy vẫn ôm lấy cuộc đời lam lũ. Để miêu tả bóng tối này, nhà văn sử dụng những chi tiết rất gợi, khi đường về làng, đường ra sông tối om, tối om, có khi đen như mực, có khi đen như mực. Với những chi tiết này, tác giả mở mắt ra trong đêm tối bao trùm bóng tối của những con đường ở những vùng quê nghèo Để nhấn mạnh sự nhỏ bé, đôi khi tác giả sử dụng hình ảnh “hạt đèn” trong quán tạp hóa của mình. Cô ấy liên tục phát ra “ánh sáng” từ “khe hở” của phòng ăn đối diện, “tia lửa vàng” của ngọn lửa âm ỉ, và đôi khi chiếc đèn của cô ấy phát ra “quần sáng nhỏ”. Đặc biệt để nhấn mạnh những đốm sáng nhỏ, tác giả miêu tả ngọn đèn của cô thắp sáng một khu vực nhỏ bảy lần. Thể hiện sự tầm thường và nỗi ám ảnh cô đơn với ánh sáng trong đêm mong manh vô tận, miêu tả bóng tối bao trùm ánh sáng và ánh sáng yếu ớt lập lòe trong bóng tối, tác giả nhằm thể hiện một bức tranh u tối của cuộc đời.
Những cảnh đời người trong “Hai đứa trẻ” không chỉ nghèo nàn, tăm tối mà còn buồn tẻ. Vào cuối buổi chợ hàng ngày, những đứa trẻ nghèo đi chợ tìm và nhặt nhạnh những đồ thừa trên chợ. Ngày nào cũng vậy, chị ty, chú phở ngon, chú nghèo, chị em vẫn dọn dẹp và chờ đợi, khách hàng của họ không ai khác chính là gia đình ông già đi gọi người bắt tổ tôm. . Rồi những người tài xế dừng lại uống nước, và nhịp sống hàng ngày cứ thế diễn ra một cách trật tự. Từ người bán đến khách hàng ai cũng là sếp lớn nhưng giải phóng mặt bằng còn rất kém. Cảnh đời ấy, như nhà thơ Hồ Diên đã viết:
“Lang thang mãi, muôn hình vạn trạng, bao khuôn mặt”.
Trong khung cảnh đời thường ấy, nhà văn Thạch Lam đã miêu tả cảnh hai chị em tần tảo chờ đoàn tàu. Đó là sự thức tỉnh trong ý thức cá nhân của những con người này muốn chạm tới ánh sáng, nhưng ánh sáng cuộc đời trước mặt họ, như ánh đèn của một đoàn tàu, chập chờn một lúc rồi chìm trong bóng tối. . Kết thúc tác phẩm, ngọn đèn của người em gái lại chập chờn trong giấc ngủ, tác giả cũng muốn dùng điều này để khẳng định cuộc sống nơi cộng cư vẫn leo lét và mọi vật chìm trong bóng tối. . .
Thông qua câu chuyện của hai đứa trẻ nghèo chiều tối ngồi xem đồng, nhà văn lặng lẽ tái hiện không gian sinh hoạt của một vùng quê nghèo trước Cách mạng tháng Tám. Từ không gian sinh hoạt này, tác giả gợi cho người đọc hình dung về sự nghèo khó, vất vả của người dân làng quê ở “phía sau cánh đồng lúa năm xưa”. Qua những cảnh đời ấy, nhà văn Thạch Lam đã gián tiếp lên án thói vô trách nhiệm của giai cấp thống trị đối với dân làng bấy giờ, đồng thời cũng thể hiện tình cảm nhân đạo sâu sắc của nhà văn đối với họ.
Ảnh thị trấn lúc hoàng hôn – mẫu 8
Trong văn học tự lực, nhà văn Lin Zelin là duy nhất. nhất linh và khai hưng cũng viết được tiểu thuyết tổng hợp nhưng thạch lam thì không. Âm sắc của thạch lam mềm mại, đều đặn, sâu lắng, giàu dư vị, có sức truyền cảm đặc biệt. Măng đá nhắm vào những người nhỏ bé thuộc tầng lớp thấp hơn trong xã hội. Đồng thời, các nhà văn khác trong nhóm văn học tự lực cũng nghiêng về những nhân vật thuộc tầng lớp thượng lưu. “Hai đứa trẻ” là truyện ngắn tiêu biểu cho phong cách thạch lâm, có khuynh hướng tư tưởng hướng về lẽ sống, chân thiện mỹ.
Truyện của thạch lam không có ngoại truyện. Điều này cũng đúng với “con thứ”. Chỉ có hai đứa từ Hà Nội vào một thị trấn nhỏ thuộc vùng nghèo để trông coi một cửa hàng tạp hóa nhỏ. Buổi chiều, hai chị em ngồi trên chõng tre ngắm cảnh đường phố dưới ánh hoàng hôn, đến đêm dù buồn ngủ nhưng hai chị em cố thức, đợi chuyến tàu đêm từ Hà Nội đi ngang qua rồi mới đóng cửa quán ngủ. . thach lam muốn tránh lối viết tầm thường thu hút người đọc bằng những tình tiết ly kỳ, những tình tiết xoắn xuýt, những câu chuyện tình yêu say đắm hay những xung đột hồi hộp. “Hai đứa trẻ” thu hút người đọc bằng chất liệu đời thực. Tuyển tập này gần gũi với Nam Cao, Nguyễn Hồng, Đỗ Hoài (những nhà văn hiện thực đầy tính nhân văn), khơi dậy những ước mơ và khát vọng cao đẹp của người đọc. Tinh thần lãng mạn này gắn liền với các nhà văn nhất linh, khai hưng và hoàng đạo. Nham thạch có kiểu dáng nhẹ nhàng, giống như cánh bướm đậu trên bông hoa. Tranh bằng ngôn ngữ của ông có thể ví như tranh lụa hơn là tranh sơn dầu. thạch nhũ vẫn là một nhà văn lãng mạn. Tích cực, đẹp lãng mạn.
Trong “Hai đứa trẻ”, lãng mạn và hiện thực hòa quyện trong những hình ảnh thiên nhiên của làng quê vào một buổi trưa nắng. Rồi màn đêm dần buông xuống “đêm hè êm như nhung, gió thoảng…” Thiên nhiên cao rộng, đầy chất thơ. “Tây đỏ như lửa, mây đỏ như than”. Nhưng ngôi làng đầy bóng tối và hoang vắng. “Trong cửa hàng hơi tối và muỗi bắt đầu vo ve.” “Mắt nối, bóng tối dần lấp đầy.” “Thấy gì mà lòng buồn đến hết ngày”. Chính bức tranh cuộc sống vô cùng chân thực đầy yêu thương và cảm xúc ấy đã khiến người đọc cảm thấy hoang vắng, hoang vắng. Ý nghĩa tư tưởng của truyện chủ yếu được rút ra từ những hình ảnh của cuộc sống nghèo phố phường.
Xem Thêm: Chữ Ký Tên Quân Phong Thủy ❤️️ Mẫu Chữ Kí Quân Đẹp
Dưới con mắt quan sát của hai đứa trẻ, cảnh Khúc Trấn hiện lên thật cụ thể, sinh động và gợi cảm. Chợ đã không còn tồn tại từ lâu, chỉ còn là một khung cảnh chợ vắng tanh, vắng vẻ. “Mọi người đã trở lại, và tiếng ồn đã biến mất.” Cảnh tượng những khu chợ chết phơi bày sự nghèo đói và bẩn thỉu của cuộc sống ở các thị trấn và khu vực. Chiếc máy ảnh miệt mài của người viết chụp khắp các con phố: trên đất chỉ còn lại “rác, bưởi, da thị, lá nhãn, lá mía”. Khung cảnh này còn được khứu giác tinh tế của nhà văn miêu tả “mùi ẩm thấp bốc lên, cái nóng ban ngày và mùi bụi bay quen thuộc, gợi nhớ cái mùi riêng của vùng đất này, quê hương này”. Bức tranh gây ám ảnh cộng đồng trong “Hai đứa trẻ” chính bởi màu sắc và mùi vị này. Trong khung cảnh ảm đạm, hoang vắng ấy, hình ảnh những người dân phố huyện nghèo khổ, lười biếng, luộm thuộm dần hiện ra. Những đứa trẻ đi nhặt những thứ bị rơi ở chợ. Mẹ con chị khách sáo một chút, đắp chăn lên chiếc giường nhỏ, xách điếu thuốc dọn hàng, “Ban ngày mò cua bắt tép, tối dọn quán này…”. Gia đình bác Xẩm ngồi trên chiếc chiếu, trước mặt là chiếc chậu sắt trắng. “Con trai trèo ra nhặt rác bẩn bên đường, hai chị em liên hệ với quán tạp hóa nhỏ nơi mẹ dọn dẹp. Gia đình rời Hà Nội về quê vì thầy giáo mất việc. Con điên. bà già mua rượu lắc đầu cười Bước vào bóng tối Trong mắt bà cả sự sống bị nuốt chửng trong bóng tối vô tận chỉ còn ngọn đèn của chị, bếp của chú và chiếc đèn bàn nhỏ kiểu Mỹ của bà… chỉ là một vài điểm. Trong bóng tối Những tia lấp lánh nhỏ bé trong ánh đèn không làm sáng cả khu phố, chúng chỉ làm cho màn đêm trở nên u ám và buồn tẻ. Hình ảnh chiếc đèn bàn nhỏ trong khu vực này của cửa hàng chỉ chiếu sáng trong tâm trí cô miền nhỏ bé ấy bảy lần Một hình ảnh ám ảnh và rất gợi về một kiếp người nhỏ bé, xiêu vẹo. Sự vô tận của cuộc đời mù mịt trong đêm.
Cảnh phố chiều như một bản nhạc buồn được một dàn đồng ca hát đi hát lại. Tối nào mẹ con tôi cũng có lễ quét tước, hai chị em liên hệ nhau, kiểm hàng tính tiền rồi ngồi trên chõng tre ngắm cảnh. Siêu phượng hoàng vừa gánh hàng vừa thổi lửa, xam chiếu dát đồng. Điệp khúc lặp đi lặp lại, đơn điệu và nhàm chán. Trong họ cũng có một tia hy vọng. Hy vọng là liều thuốc an thần cho những người kém may mắn. Nhất Linh cũng cho rằng, dân làng nghèo nhưng giàu trong hy vọng hão huyền, “bao nhiêu người trong bóng tối mong cái nghèo hàng ngày của họ sẽ sáng”. Hai đứa trẻ ý thức rõ ràng biết bao về sự trì trệ, buồn chán, bế tắc của cuộc đời, về những khát vọng thiêng liêng mơ hồ của mình. Nhưng tâm hồn ngây thơ và nhạy cảm của em, tuy chỉ trong vô thức nhưng đã cảm nhận sâu sắc hiện thực ấy và ước vọng ấy. Chính ước muốn thoát khỏi sự trì trệ đen tối ấy đã khiến hai chị em thức khuya đợi chuyến tàu đi qua. Con tàu như mang đến một chút thế giới khác, một thế giới khác với Liam, từ ánh sáng lấp lánh của những ngọn đèn nhỏ và ngọn lửa bập bùng.
“Hai đứa trẻ” của Thạch Lam không đi sâu miêu tả mâu thuẫn xã hội, mâu thuẫn giai cấp. Ông không buồn vẽ những bộ mặt xấu xa của bọn bóc lột và những bộ mặt khốn khổ của những người bị áp bức, vì dù sao ông cũng là một nhà văn Lãng mạn. Anh vẽ nên một bức tranh miền quê nghèo, chân thực đến từng chi tiết và chiều sâu tâm hồn. Hình ảnh người dân nghèo trong một ngôi làng nhỏ xám xịt chứa đầy sự đồng cảm chân thành của tác giả đối với những người dân lao động nghèo đang sống trong cảnh bế tắc, tăm tối. Qua những bức tranh phố huyện đìu hiu, qua hình ảnh những con người bé nhỏ với một tia hy vọng, ta thấy được ước mơ cao cả của nhà văn, đó là thay đổi cuộc sống ngột ngạt, khổ cực của những người dân lao động nghèo khổ.
Hình ảnh thị trấn múi giờ hoàng hôn – Mẫu 9
Hai đứa trẻ của Thạch Lam là một truyện ngắn trữ tình buồn. Có những nỗi đau thực sự và vẻ đẹp tiềm ẩn trong các tác phẩm, giống như hương hoa ngọc lan được chiết xuất từ những đau khổ của cuộc sống. Đặc biệt, những làng quê, thị trấn nghèo khổ được miêu tả trong tác phẩm đã thể hiện rõ nét phong cách, tài năng và thông điệp nhân văn mà tác giả muốn gửi gắm.
Giọng văn đa dạng của Thạch Lam kết hợp chất hiện thực mang sắc thái lãng mạn với lối viết giàu cảm xúc. Nội dung của văn thạch lam thể hiện một hiện thực rách nát, xót xa nhưng thân thương, đầy tình người và lòng nhân ái. Vì vậy, truyện ngắn của nhà văn hầu như không có cốt truyện. Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” thể hiện khung cảnh thiên nhiên ở vùng quê nghèo, thiên nhiên và con người tuy nghèo nàn, tồi tàn nhưng đẹp đẽ, thơ mộng, đáng yêu và đáng quý.
Cuốn sách bức tranh thiên nhiên về phố huyện bắt đầu bằng “tiếng trống thu trên tháp phố phường hết khúc này đến khúc khác gọi chiều về”. Tiếng trống gợi lên sự rộng lớn, vừa đẹp đẽ vừa hoang vắng. Trong đó có tiếng vọng rời rạc của “tiếng ếch nhái ngoài đồng bị gió thổi” từ lớn đến nhỏ. Thiên nhiên tỏa ra những nét vẽ có hồn gợi lên một sự diệt vong mơ hồ khiến người xem phải rơm rớm nước mắt. Có buổi chiều nào “ổn định như lời ru” trong mắt Tào Nam hay Ngô Trùng Phong không? thạch lam vẽ nên bức tranh thiên nhiên, nơi những vùng đất nghèo khó nhuốm màu buồn nhưng vẫn toát lên vẻ thơ mộng, trữ tình.
Tuy nhiên, lớp áo nên thơ ấy không thể che lấp được sự mục nát của những kiếp người chết chóc nơi vùng đất nghèo khó. Những kiếp người thấp thoáng trong khung cảnh thành phố hay trong đêm tối thật đáng thương. Khi “mọi người đã về hết, tiếng ồn ào đã lắng xuống” thì chỉ còn lác đác vài người dọn hàng, vài đứa trẻ đi nhặt nhạnh những mảnh vụn trong đống gạch vụn. Bầu không khí ẩm thấp xen lẫn với không khí bụi bặm quen thuộc trong khung cảnh đồng áng đặc trưng của phố huyện lần lượt xuất hiện trong ngòi bút tài tình của Sakilin. Những người sống lâu, mệt mỏi, uể oải mong đợi một thứ gì đó mơ hồ xa xôi xuất hiện từ bóng tối. Đó là những đứa trẻ nhặt rác, mẹ và chị gái, phượng hoàng siêu phàm, ông già điên… Qu Cheng đáng thương như một cái xác không hồn, và “rất nhiều người” như những chiếc bóng không yên trong đêm tối . Bên cạnh hai chị em là chiếc giường cũi ọp ẹp, một ít thuốc lá và những bánh xà phòng. Tài sản của hai mẹ con chỉ là chiếc giường tre vắt vẻo, quán ăn, nhà chú, nhà ông già, chiếu rách hay bà già điên… là những biểu hiện đầy đủ nhất của những nạn nhân nơi phố huyện.
Trong tranh của Khúc Trấn, măng đá rất tinh tế, truyền tải thông điệp cuộc sống qua những hình ảnh sáng tối tương phản. Bóng tối “tràn đầy” của những đêm hè “mượt như nhung và bị gió thổi qua”. Bóng tối bao trùm các con phố của khu ổ chuột như một cái vạc đen khổng lồ. “Đường ra sông đã tối, đường từ chợ rau về nhà, ngõ xóm còn tối hơn.” Ánh sáng yếu ớt, chìm trong bóng tối. Một ánh sáng xa xăm từ “muôn ngàn vì sao lấp lánh” của vũ trụ, “phía tây chói lọi,” đối với con người là tia sáng từ ngọn tre, ngọn đèn Mỹ leo lét, hay ngọn đèn nhân tạo rực rỡ, hơn là một chuyến tàu đêm Ánh sáng là sáng hơn. Thạch Lam khiến người dân cả huyện mong chờ ánh đèn tàu đêm, nhằm ca ngợi phẩm chất cơ bản của con người – khát vọng hạnh phúc. Chuyến tàu đã mang lại tuổi thơ đã mất của cô và khiến cô cảm thấy mình đang sống một cuộc sống yên bình. Những ngọn lửa xanh, ánh đèn xe ngựa, tiếng còi, tiếng bánh xe… tất cả chỉ thoáng chốc rồi lại vụt tắt, nhưng ít nhiều cho thấy con người luôn cố gắng sống một cuộc sống hạnh phúc khi đối mặt với nghịch cảnh. khổ sở.
Qua truyện ngắn “Hai đứa trẻ”, Thạch Lam đã khắc họa bức tranh thiên nhiên của một thị trấn nghèo nhưng tươi đẹp và niềm hạnh phúc thực sự của những con người đói khổ nhưng luôn có tâm hồn lạc quan. Tác phẩm đánh thức những xúc cảm dù là nhỏ nhất trong lòng mỗi độc giả yêu thích thạch lam.
Phối cảnh cộng đồng lúc hoàng hôn – Mẫu 10
Có nhà văn đã từng khẳng định: “Cái quan trọng nhất của tài năng văn chương là giọng nói, giọng nói độc đáo của chính mình, không thể tìm thấy trong cổ họng của người khác”. .Một phong cách độc đáo đòi hỏi một “tiếng nói riêng” và một “tầm nhìn” khác biệt để có thể để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả. “Một khi phong cách trở thành máu thịt của nhà văn thì sẽ hình thành giọng điệu thẩm mỹ riêng không lẫn với ai”. Và măng đá đã hoàn thành xuất sắc thiên tính của mình. Ở “Hai đứa trẻ”, ông đã mang đến cho người đọc một cảm giác khác, hoàn toàn khác với những tác phẩm của những người cùng thời với ông. Đặc biệt, anh phát hiện ra những hình ảnh về cuộc sống nghèo khó của cộng đồng vào buổi chiều tà.
Khi đến với “Đứa con thứ hai”, ai cũng không khỏi thắc mắc tại sao một nhà văn lại có thể lẻn vào giữa đường phố của một cộng đồng nghèo như vậy để tìm hiểu chuyện gì đang xảy ra? Nhìn vào tiểu sử của ông, câu trả lời rất đơn giản: khi còn trẻ, ông sống ở quê hương ở huyện Tấn Giang, tỉnh Hải Dương … Có lẽ chính trong thời gian này, ông đã hiểu và đồng cảm với người dân và nhân dân. Nhịp sống nơi đây. Có những bức tranh thiên nhiên sông núi đìu hiu, hoang vắng, có những bức tranh đời sống nghèo khổ… Ngoài ra, được in trong tập “Nắng trong vườn”, “Đứa con thứ” là một trong những truyện ngắn đặc sắc nhất của Thạch Lam. Tác phẩm kết hợp yếu tố hiện thực và lãng mạn trữ tình.
Đầu tiên là bức ảnh chụp một buổi tối ở một thị trấn nghèo. Hình ảnh chợ chiều nghèo nàn, dột nát “lâu lắm chợ mới họp giữa phố”. Mọi người trong chợ đã về hết, không một tiếng động nào cả. Chỉ còn lại “rác, vỏ bưởi, vỏ chợ, lá nhãn, lá mía”. Đặc biệt là cái mùi ở đây, một mùi đặc trưng không thể trộn lẫn ở bất kỳ vùng miền nào: “Một mùi bốc lên, cái nóng ban ngày lẫn với mùi bụi đất quen thuộc, gợi nhớ. Đó là mùi của đất, của quê hương”. . Chân dung cũng có ký họa nhưng nét vẽ nghèo nàn, thưa thớt, đơn điệu. Đó là những đứa trẻ tội nghiệp, lục lọi dưới đất, “nhặt tre, nứa hay bất cứ công việc gì”; chị Lian; hai mẹ con… đặc biệt là bà già điên khùng say xỉn, cười nói vui vẻ. Hình ảnh ông lão “đi vào bóng tối, tiếng cười nói của khách làng dần xa” gợi cho ta những khúc quanh không lối về. đây là cuộc sống của một người đàn ông đã chết, đáng thương nhất của đàn ông. Vậy là bằng vài nét phác họa thạch nhũ, người đọc thấy được một bức tranh về cuộc sống thôn quê nghèo khó, mỗi người một cảnh nhưng đều giống nhau nghèo khó, mệt mỏi và tẻ nhạt. Ngoài ra, tác giả còn thể hiện tình cảm của mình qua tâm trạng “xót thân mà không có tiền đưa”. Đây chính là tình người, lòng nhân ái của con người. Hay qua lời hỏi han, quan tâm của hai mẹ con ta thấy được sự quan tâm, động viên, hỏi han của người nghèo. Trong bất kỳ hoàn cảnh nào, nhất là trong hoàn cảnh éo le, chúng ta cần quan tâm và chia sẻ với nhau. Qua đó, tác giả cũng đánh thức trong chúng ta lòng trắc ẩn, một tâm hồn tinh tế, nhạy cảm…
Theo dòng thời gian, sau đây là bản đồ cuộc sống của cộng đồng vào ban đêm. Thứ nhất, thông qua phong cách tượng trưng của cảnh vật và không gian cộng đồng, tác giả đã làm nổi bật kiếp người sống trong tăm tối, đồng thời khắc họa cuộc sống con người bế tắc, tăm tối nhưng trong đó vẫn le lói một tia sáng. “Bấy nhiêu người sống trong bóng tối mong tìm thấy ánh sáng trong cảnh nghèo hàng ngày. Nhịp sống ở đây cứ đều đặn buồn tẻ: mẹ con chị quét dọn hàng ngày. “Giờ đây, đường phố trong xóm đã thu hẹp lại cho tôi. quán ăn của chị”, phở siêu tích điện về làng cõng về, nhà chú Thâm sống chủ yếu dựa vào dân nghèo; hai chị em hàng ngày phải trả hóa đơn, ngồi trên chõng tre,… cuộc sống là một lặp đi lặp lại và đơn điệu! Có thể thấy con người tuy nghèo nhưng vẫn sống theo bản chất và những gì thật nhất.
cuối cùng là ảnh một chuyến tàu đêm đi qua Time Zone Town. Hình ảnh đoàn tàu đặc biệt được tác giả miêu tả rất chi tiết và cặn kẽ, từ đoàn tàu vào ga, đoàn tàu cập ga, đoàn tàu qua theo đúng trình tự. Chuyến tàu chạy qua như sự kiện cuối cùng của đêm, mạnh mẽ và tràn đầy năng lượng phá tan sự tĩnh lặng của phố thị. Bức tranh này là một thế giới khác với thế giới của Khúc Trấn, giống như một đoàn tàu xuyên qua màn đêm, ánh đèn của đoàn tàu có thể xóa đi ánh đèn mờ ảo và cô độc của Khúc Trấn. Âm thanh xập xình của đoàn tàu đủ lấn át cả bản hòa tấu đơn điệu! Các chị em cũng đã ngủ gật khi chờ xe buýt, nhưng các chị em vẫn cố gắng thức, điều đó cho thấy sự khao khát và khát khao được chứng kiến biến cố đầy hy vọng cuối cùng của các chị em. Bên cạnh đó, những chuyến tàu đi qua cũng đánh thức cả một thế giới ký ức đẹp đẽ của thời “âm thầm theo đuổi ước mơ”. Hà Nội thì xa mà Hà Nội thì vui. “Tôi luôn nhớ khi ở Hà Nội, tôi được thưởng thức những thức quà ngon và lạ – lúc đó mẹ tôi rất nhiều tiền – ra hồ uống nước lạnh trong những chiếc ly xanh đỏ”. Đó là chuyến tàu khơi dậy những khát khao, ước mơ về một thế giới và tương lai tốt đẹp hơn. Có thể nói, nhìn thấy đoàn tàu không chỉ vui mắt mà còn là sự đan xen của những suy nghĩ, lấp đầy khoảng trống mênh mông trong lòng chị em bằng những hoài niệm, ước mơ. Cũng chính chuyến tàu đêm này đã cho anh nhìn rõ hơn mảnh đời đen tối đáng thương trong cuộc đời mình và sự tù túng, tù túng của những người xung quanh. Vì vậy, “Hai đứa trẻ” là bức tranh tả thực về một thời đại đã qua, đời sống cộng đồng chỉ còn là sự trong trẻo nhất thời. Bằng tài năng của mình, bằng chính “con mắt” của mình, Thạch Lam đã vẽ nên một bức tranh toàn cảnh về cuộc sống nơi đây từ chiều trở đi.
Như vậy, bằng bút pháp lãng mạn, hình ảnh tương phản, tác giả đã làm nổi bật cuộc sống của phố thị. Có thể nói những trang của thạch lâm rất đẹp. Cái đẹp toát ra từ những hình ảnh gợi hình, gợi cảm, yêu thương con người bằng tấm lòng nhân hậu. Bằng ngòi bút thạch nhũ, câu chữ đầy bản sắc: nhẹ nhàng, khách quan, thương người phố huyện và ông cũng đã phát hiện ra tiếng nói của họ.
“Đứa con thứ” là tinh túy của sự sống, là cảm xúc thẩm mỹ của măng đá, là kết quả của quá trình kiến tạo và mài giũa. Khác với các nhà văn tự lực, Thạch Lam cho rằng: “Đối với tôi, văn chương không phải là cách để người đọc trốn tránh, lãng quên mà văn chương là thứ vũ khí cao cả và mạnh mẽ để ta lên án và thay đổi cái giả dối. lòng người đọc trong sáng và phong phú hơn. Theo ông, văn học hiện thực là văn học phục vụ và nói cho con người, văn học “vì cuộc sống” chứ không phải văn học “vì nghệ thuật”. Ông nói “nghệ thuật là lãnh địa của cái độc đáo”. Vì vậy, nó cần một phong cách, đó là thể hiện một cái gì đó mới mẻ và độc đáo trong tác phẩm của bạn”. Jasper làm rất tốt việc này. Các nhà văn sử dụng giọng văn của chính họ. Nó để lại ấn tượng sâu sắc với mọi người.
Phối cảnh cộng đồng lúc hoàng hôn – Mẫu 11
Đến với Thạch Lâm, ai cũng biết ông là một nhà văn thiên tài kiệt xuất của nền văn học Việt Nam, một nhà văn lãng mạn thuộc nhóm “tự lực văn đoàn”, nhưng văn của Thạch Lâm thiên về những nỗi khổ ở đời, nông dân, trẻ em Cuộc sống bế tắc, vất vả của giai cấp tư sản và thị dân nghèo. như vậy, trong tác phẩm của Thạch Lam có chất hiện thực và chất trữ tình hòa quyện với nhau tạo nên một bút pháp nghệ thuật độc đáo. Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam là minh chứng cho điều này. Những gì hiện lên trong tác phẩm là bức tranh thiên nhiên, bức tranh cuộc sống, bức tranh tâm trạng con người.
Có lẽ mỗi độc giả đã từng đọc “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam đều cảm nhận được bức tranh thiên nhiên, ánh tà dương của thiên nhiên nơi vùng nghèo đói cuối ngày. Màu sắc và âm thanh của bức tranh ấy rất đặc trưng của nông thôn Việt Nam. Bức tranh được tác giả chia thành ba thời điểm: chiều, tối và đêm khuya. Cả ba dường như biến mất trong thời gian và không gian.
Trước hết độc giả phải thấy cảnh mặt trời lặn có màu của mặt trời “phía tây đỏ như lửa, mây đỏ như than chết”. Hình ảnh bóng tối đang đến gần “rừng tre trước làng đen kịt, nhìn rõ cả bầu trời”. Tất cả những màu sắc này dường như báo hiệu ngày tàn và đã đến lúc mọi người phải đối mặt với sự thật của mình. Trong bức tranh ấy có một âm thanh, âm thanh quen thuộc của làng quê Việt Nam “tiếng trống đồng bên đình gõ chiều từng hồi”, âm thanh ấy nghe thật nhẹ nhàng, chậm rãi, nặng trĩu, buồn bã, và tê tái cả cõi lòng. Âm thanh của mùa thu chẳng khác gì tiếng trống trong bài thơ “Tự tình” của Huyền Hương Hồ.
“Tiếng trống Vệ binh vang trong đêm”
Và tiếng trống buồn bã, chậm chạp và khủng khiếp. Hay những âm thanh quen thuộc “tiếng ếch nhái theo gió bay vào ruộng”, “tiếng muỗi vo ve” có thể bắt gặp ở mọi làng quê. Những rặng tre kẽo kẹt, như một bản nhạc buồn chơi trong chiều tối. Với bà Liên, làm sao quên được “mùi ẩm mốc bốc lên, cái nóng ban ngày quyện với mùi bụi đất quen thuộc, gợi nhớ đất này, mùi riêng của quê hương này”. Tất cả những âm thanh, màu sắc và mùi vị ấy như hòa quyện vào nhau, mang đến một vùng quê nhẹ nhàng, yên bình trong tâm trí người đọc. Buổi tối hôm đó dường như nhường chỗ cho màn đêm đen kịt. Cảnh đêm ấy như gợi lên màu sắc, và màu tối ấy như bao trùm khắp xóm “tối mịt khắp nẻo đường ra sông, đường từ chợ vào nhà, từ ngõ vào làng, tối thui. bóng tối khủng khiếp đó bao trùm lên nơi đây. Con người chi phối mọi thứ từ con người đến sự sống. Ánh sáng không biến mất, nó chỉ mờ nhạt và chập chờn, không đủ để xé tan màn đêm. Ánh sáng ấy như làm cho bóng tối rộng ra và tối hơn. Đó là cảnh thường thấy ở các làng quê Việt Nam thời bấy giờ. Trong đêm tĩnh mịch ấy, bạn có thể nghe thấy tiếng lá rơi từng chiếc trên vai. Tiếng ấy không đủ vang dội ngày đêm chìm đắm. Khi đó chúng ta mới thấy giá trị của ánh sáng, nó trở nên vô giá và rất quý giá. Khung cảnh về đêm khiến không gian trở nên yên bình hơn. Mọi người đang đợi chuyến tàu đêm cuối cùng trong ngày đi qua.
Trên cái nền của bức tranh thiên nhiên ấy diễn ra các hoạt động sống của con người. “Trên mặt đất chỉ có rác, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và cơm khô.” Đây là cảnh chợ tàn, đời người lụi tàn. Đó là tất cả những gì còn lại ở cuối chợ, và những bức ảnh cho thấy đó là một món quà quê rẻ tiền. Từ đó ta cũng thấy được cuộc sống nghèo khó của người dân nơi đây. Tác giả chọn thời điểm cuối ngày, tức là từ chiều tối đến đêm khuya để làm nổi bật cuộc sống khô héo, bế tắc của con người. Tại sao tác giả lại chọn hình ảnh cuối chợ mà không phải những hình ảnh khác? Phải chăng chỉ có tiếng cuối chợ mới ám chỉ một cuộc đời bế tắc trong đêm tối không ánh sáng, không tương lai. Những mảnh đời đang hấp hối hiện ra trong mắt Lian ở cuối chợ rau. Nhân vật của Liên có vẻ tinh vi không? Khác với người Tây, người Việt thường chậm chạp, giống như ở chợ thành phẩm, nhưng “vài gánh hàng rong về muộn đang dọn hàng, cột đèn đã thắp còn đứng nói chuyện với nhau ” còn trên đường phố, “Những đứa trẻ tội nghiệp bên cạnh chợ rau, cúi xuống đất tìm kiếm, chúng nhặt những thanh tre, que tre, bất cứ thứ gì còn dùng được của người bán hàng rong”. Ngay cả những đứa trẻ đang tuổi đi học cũng phải bươn chải, hy sinh để kiếm miếng ăn hàng ngày cho bản thân và gia đình. Ngay cả An Hách Liên dù có gia cảnh khá giả cũng phải giúp mẹ trông hàng. Cuộc sống của người đó không chỉ có đứa trẻ, mà còn có em gái của đứa trẻ. Bà sống bằng nghề mò cua bắt ốc hàng ngày, tối đi bán nước. Cô ấy bán đồ rẻ, cả cửa hàng bán, và cô ấy chỉ thuộc lòng một lần. Khách của cô là “người phục vụ hay người đánh xe, bộ đội trong huyện hay gia đình ông giáo già”. Không có nhiều khách, nhưng bây giờ họ không ổn định trong nhiều ngày. Sớm muộn gì cũng vậy” thể hiện tâm trạng chán chường không còn kiếm sống được từ quán ăn này. Có lẽ nhà chú Shaws là một gia đình khá giả trên con phố nghèo này. Nhưng khách hàng của bạn ngày càng ít đi, khách hàng của bạn ngày càng ít đi. Đó phải là người có điều kiện tài chính, vì hàng của bạn là hàng xa xỉ, có rất nhiều tiền, dự đoán cuộc đời bạn sẽ phá sản, vì người trên tàu chỉ mua bao thuốc lá…chứ không thèm phở, hoặc nhà sam sẽ chỉ Sẽ giải trí bằng tiếng đàn Trong cuộc sống nghèo khó đó, không ai có tiền để nghe anh hát Trẻ em tinh nghịch bò ra khỏi đệm vỡ, và cuộc sống của đàn ông cũng là một bà già, dù chỉ thoáng qua nhưng cũng để lại ám ảnh trong lòng người đọc. Hôm nay nó lại được lấp đầy”. Cô không mất hoàn toàn tri giác nhưng đau đớn nhất là cô nghiện rượu và luôn có “tiếng cười sảng khoái”. ” bên cạnh trạng thái cười bất thường. Tôi không hiểu vì sao mình lại rơi vào hoàn cảnh bất thường như vậy, nhưng trong tôi lại có một nỗi sợ hãi mơ hồ, lo lắng rằng sẽ có một bà lão khác trong cuộc đời khốn khổ đó? ?
Sự đồng cảm của tác giả được thể hiện qua nét mặt của các nhân vật, từ đó ta thấy được sự ngậm ngùi, xót xa cho những mảnh đời bất hạnh của thời đại: họ vượt lên trên mọi hoàn cảnh sống, nhưng trong họ luôn chứa đựng một tình người bền chặt giữa tình yêu thương và Mọi người. Với một cô bé mới lớn, lại xúc động khi nhìn thấy “những đứa trẻ tội nghiệp ở đầu chợ cúi xuống đất tìm kiếm. Cô ấy yêu họ và muốn cho họ tiền, nhưng bản thân cô ấy không có. Hoặc bà già vào uống nước và chỉ “lặng lẽ rót đầy tách trà và đưa cho bà”. Cô ấy cố gắng không nhìn anh ấy, nhưng cô ấy yêu anh ấy và rót cho anh ấy một ly khác để thỏa mãn nhu cầu của anh ấy. Đối với hai mẹ con và mọi người xung quanh, họ ân cần, nhẹ nhàng và chu đáo. Nhưng cuộc đời không cho họ được như ý muốn, đẩy số phận họ vào con đường tăm tối, sống cuộc đời nghèo khổ cùng cực. Đến đây, tác giả bày tỏ sự đồng cảm với những người nghèo khổ, thiếu thốn, vô vọng, không ánh sáng của vùng. Đó là ai? Đó là gia đình Liên, gia đình hai mẹ con, gia đình chú siêu nhân, gia đình chú Sam và cả những đứa trẻ đáng thương ấy. Tất cả bọn họ chỉ quanh quẩn trong khu ổ chuột này, dù muốn cũng không thể thoát ra được. Biết được điều này, tác giả đã thắp lên cho cuộc đời họ những ước mơ, khát vọng mãnh liệt về một cuộc sống tốt đẹp hơn. Đó cũng là ước mơ của họ, “biết bao người trong bóng tối, mong mang lại ánh sáng cho cuộc đời nghèo khó hằng ngày”, ước mơ không chỉ là giá trị vật chất, mà còn là giá trị tinh thần. Giấc mơ ấy được tác giả chuyển tải qua hình ảnh đoàn tàu, vì đó là hoạt động cuối cùng của đêm. Không chỉ vậy, chuyến tàu xuất hiện mỗi đêm dường như mang đến một thế giới khác, và những người khác sống cuộc sống nghèo khổ và tăm tối. Khi “đèn pha tắt ngúm”, hai chị em đứng dậy để nhìn rõ hơn. Hai chị em hồi hộp chờ tàu chạy qua. Khi đoàn tàu chạy qua, hai chị em đứng dậy và nhìn kỹ hơn. Chuyến tàu đó đã mang lại một chút ánh sáng cho thị trấn tăm tối này trong thế giới của tuổi mới lớn, với “những toa xe sáng loáng, những chiếc limousine, bằng đồng thau và niken, những ô cửa sổ sáng sủa.” Khi đoàn tàu đi qua để lại bao tiếc nuối trong giấc mơ đẹp như mơ về Hà Nội xa xôi, đó là Hà Nội rực rỡ, tươi vui và ồn ào khi cô sống ở đó. Đó là hoài niệm về quá khứ huy hoàng “uống chén xanh đỏ lạnh lùng đi sang hồ” mà bây giờ không sao lấy được.
Thạch lam có nhất thiết phải có một ngòi bút cực kỳ tinh tế để vẽ nên bức tranh thiên nhiên, bức tranh cuộc sống nơi ổ chuột với sự đồng cảm sâu sắc? Thạch Lam là nhà văn lãng mạn nên cách nhìn và miêu tả thiên nhiên trong tác phẩm “Hai đứa trẻ” rất tinh tế và nhạy cảm. Tác giả bắt đầu từ “chiều, chiều rồi, chiều êm như lời ru” vào buổi tối. Câu văn này như gieo vào lòng người đọc những mầm mống của sự dịu dàng, nhưng nó cũng gợi lên một sự sống bồng bột. Và cảnh đêm xuống cũng nhẹ nhàng không kém “Đêm rồi, một đêm hè êm như nhung, gió mát hiu hiu”. Tất cả gợi lên cái hồn quê êm đềm, thanh bình và yên ả dưới cái nhìn tinh tế, sâu lắng và gợi cảm. Hà Vân đã gửi gắm điều đó qua nhân vật Liên – một cô gái trẻ có tâm hồn phong phú, tinh tế và yêu đời.
Vẻ đẹp thơ mộng, lãng mạn trong truyện được cảm nhận qua cách nhìn thời gian. Thời gian trong truyện không được miêu tả đơn thuần mà được miêu tả một cách chậm rãi qua sự quan sát của Lian. Nhạc điệu tạo nên sức lan tỏa sâu xa vào lòng người đọc “chiều ơi, chiều êm như lời ru” thể hiện sự uyển chuyển, mượt mà, nhẹ nhàng. Hay “tiếng trống canh chòi trong nước, gọi nhau trưa về”. Những câu văn như hàm ý sự êm đềm dịu dàng, thời gian chậm rãi trôi theo bước chân của gió “Đêm xuống, đêm hè êm như nhung, gió mát thổi hiu hiu”. người đọc không cưỡng lại được những cảm xúc tươi mới, làm cho tâm hồn con người tươi mới và trong sạch hơn.
Nhưng có lẽ chính khung cảnh làng quê thanh bình của Việt Nam mới tạo nên vẻ đẹp lãng mạn cho câu chuyện. Tiếng muỗi bắt đầu vo ve vẫn là âm thanh của mùa thu trong những túp lều trong cộng đồng. Âm thanh đó là “tiếng ếch kêu ngoài đồng theo gió thoảng”. Những giọng điệu ấy mang đậm không khí địa phương Việt Nam, tâm trạng u uất như thấm vào tâm trạng người đọc. Ngôi làng nào cũng vắng lặng, đơn điệu với những âm thanh rời rạc. Hình tượng là không gian của nghệ thuật. Nó mở đầu bằng khung cảnh vào cuối ngày và kết thúc bằng một đêm yên tĩnh đầy bóng tối. Không gian tối chủ yếu chạy xuyên suốt bố cục. Tiếng trống vang lên rồi chìm vào màn đêm. Hay hình ảnh đoàn tàu vút qua rồi chìm vào bóng tối. Phải chăng cái bóng ấy không phải là bóng tối của thiên nhiên mà là bóng tối của cuộc đời? Viễn cảnh đen tối ấy dường như ám ảnh những người dân nơi đây, gợi lên một cuộc sống lầm lũi không lối thoát, không tương lai. Nhưng trong mắt Lian, nó trở thành “một đêm hè dịu êm như nhung”. Ngồi thẫn thờ bên một bức tranh đen nào đó, “đôi mắt em dần đượm bóng tối, nỗi buồn của một buổi chiều quê thấm vào tâm hồn thơ ngây của em”. Không ngừng “thấy buồn trước ngày tàn”. Những câu này gợi lên những tình cảm thơ mộng, đẹp như tranh vẽ làm dịu đi những cảm xúc bên trong của người đọc.
Vẻ đẹp lãng mạn của truyện được nhà văn Lin Zelin miêu tả và sáng tạo khi miêu tả ánh sáng trong truyện. Cảm xúc tinh tế của tác giả nắm bắt được biểu cảm của các nhân vật. Tìm ánh sáng hiếm hoi trong ánh sáng của kiếp người. Đó là các hạt ánh sáng, khe, đốm sáng, quầng sáng, vùng sáng và quầng sáng. Ngay cả những viên đá sáng và tối cũng đã được tìm thấy. Tác giả phải tinh tế đến mức nào mới phát hiện ra thứ ánh sáng quý giá ấy? Chất thơ trong truyện được thể hiện qua việc nhận ra “trên trời muôn ngàn vì sao lấp lánh, xen lẫn vệt sáng của những chú đom đóm nhảy nhót, dù là dưới đất hay trên cành cây”. Từ đó, người đọc thấy được vẻ đẹp nên thơ, thanh thoát.
Truyện ngắn của Thạch Lam thường vượt ra khỏi những cuộc đời bế tắc, tù túng, bần hàn. Nhưng con người vùng này cũng có nét đẹp phóng khoáng của người Việt. Dù nghèo khó nhưng anh luôn cần cù, chịu khó, cuộc sống luôn ấm êm. Đó là tình yêu dành cho một đứa trẻ, hay một bà già, hay hai mẹ con. Sự chăm sóc này không chỉ giúp đỡ họ về mặt vật chất mà cả tinh thần, giúp họ cải thiện cuộc sống. Hình ảnh đoàn tàu, hoạt động duy nhất còn lại trong ngày mang giá trị tinh thần to lớn. Đó là một niềm phấn khích cuồng nhiệt đối với hai chị em. Khi tàu đến, hai chị em đứng dậy nhìn thật kỹ. Hình ảnh những toa tàu chạy nối đuôi nhau, mỗi toa ít đèn hơn, ít người hơn. Chuyến tàu ra đi để lại bao kỉ niệm về một Hà Nội xa xôi, sầm uất và phồn hoa. Nhắc tôi về quá khứ hạnh phúc mà cô ấy không còn nữa.
Nếu nói “thơ là hiện thực, là cuộc sống, là thơ” thì “Hai đứa trẻ” của nhà văn Lâm Trạch Lâm là một tác phẩm như vậy. Câu chuyện này không chỉ về cuộc sống, mà còn về thơ ca. Biểu cảm của Lian được thể hiện một cách nên thơ và đẹp như tranh vẽ, và giọng nói thảo luận của Lin Zelin xuyên suốt toàn bộ câu chuyện. Đúng như Lin Zelin đã nói “văn chương làm cho tâm hồn trong sáng và phong phú hơn”, có lẽ “hai đứa con” của anh đã đáp ứng được những yêu cầu này rồi. Vì vậy, tác phẩm này không chỉ có ý nghĩa quan trọng đối với văn học 1930-1945 mà còn có một vị trí trong sự nghiệp văn học tương lai của nước nhà.
Phân tích cảnh phố huyện lúc chiều tà – Model 12
Thạch Lam sinh ra trong một gia đình văn học. Các anh Nhất Linh, Hoàng Đạo, Khải Hùng, Thạch Lâm đều là thành viên của Văn đoàn Tự lực. Nhóm tự lực văn học “Nghệ thuật vì nghệ thuật”. Các tác phẩm của nhóm được tô hồng, bôi đen cuộc đời, thoát ly đời thực như: Tùng sơn hai mộ, Hồn bướm cánh tiên, Lời thề, Đời hoa, Con đường sáng, Nửa mùa xuân,…dù là có chân. Văn tự lực nhưng văn của Thạch Lam không giống văn của họ, không tô màu, không bôi đen, không trốn chạy cuộc đời. Đừng viết về cuộc sống của những chàng trai và cô gái trẻ phục vụ giới thượng lưu thành thị. Thạch lam miêu tả cuộc sống nghèo khổ, cực khổ và bấp bênh của tầng lớp tiểu tư sản và tiểu thương bần cùng. Ông không viết về học trò và nhà văn nghèo, trường tư, vì đề tài này đã được ngòi bút của Tào Tháo đào sâu.
Chính vì vậy, văn Thạch Lam rất gần gũi với nhân dân, mang tính hiện thực phê phán, được dẫn dắt bởi phong cách “nghệ thuật vị nhân sinh”. Trong Ngọn gió lạnh đầu mùa, ông viết: “Đối với tôi, văn chương không phải là cách để người đọc chạy trốn hay lãng quên, mà là một vũ khí cao cả và cao quý. Chúng ta có thể dùng nó để lên án và sức mạnh của sự lãng quên”. một thế giới đầy dối trá và tàn ác, đồng thời làm cho trái tim con người trong sáng và phong phú hơn. không chỉ có thạch lam, mà hồ chí minh cũng dùng ngòi bút của mình như một thứ vũ khí. truyện của thạch lâm như một bài thơ trữ tình viết bằng văn xuôi, tạo cảm giác êm đềm, nhẹ nhàng và trong lành. buổi tối , khiến không gian truyện trở nên bí ẩn và khó đoán, đúng như một bạn đã từng viết:
<3
Đã hơn một lần chúng ta bắt gặp những mảng tối trong văn học tiền cách mạng. Ngày xưa, khi tắt đèn ở cuối tiểu thuyết, chị gà trống cũng lao vào bóng tối để giữ được sự trong trắng, thì nay, giữa hai đứa trẻ, Thạch Lam lại dùng bóng tối để diễn tả cảnh nghèo khổ của Trẻ con. Đất nước, đã chết. Khác với Tắt đèn, Hai đứa trẻ không có kịch tính, không có mâu thuẫn, không có cốt truyện, câu chuyện cứ diễn ra theo dòng cảm xúc. Dẫu vậy, câu chuyện vẫn mang tính nhân văn, nhân văn sâu sắc.
Xem Thêm : Phân tích Những câu ca dao than thân, yêu thương tình nghĩa
Hai đứa trẻ kể về tuổi thơ của Thạch Lâm. Lian là cô em gái dũng cảm của nhà văn, và cậu bé Shilan đang núp dưới bóng của An. Trước đây, gia đình sống ở TP. Sau khi thầy mất việc, hai chị em đành phải về quê sinh sống, mẹ được giao cho một cửa hàng nhỏ cạnh ga tàu, còn mẹ làm bán thời gian ở một cửa hàng tạp hóa, thu nhập không cao. . Có lẽ, ga xe lửa cạnh quán chị tôi là kỉ niệm về bữa tiệc của tác giả. Cộng đồng nơi những người phụ nữ bán hàng rất nghèo nàn, và tác giả so sánh nó với một nơi chết chóc của sự mục nát trong xã hội Việt Nam trước Cách mạng Tháng Tám. Chỉ cần một khoảng thời gian nhỏ để măng đá xâu chuỗi lại với nhau thành một khoảng thời gian lớn, nhưng mặt trước và mặt sau đều giống nhau. Trước sau như một, tương lai của khu vực nghèo khó này vẫn bấp bênh.
Không phải ngẫu nhiên mà trong tác phẩm tác giả bảy lần nhắc đến ngọn đèn dầu, đó dường như là một dụng ý nghệ thuật và là điểm nhấn của tác phẩm. Khu vực nghèo khó, hay nói rộng ra là toàn bộ xã hội đương thời cũng mong manh và bất ổn như ngọn đèn của người chị. câu chuyện của thạch lam có một phép thuật độc đáo. Hai đứa trẻ là kết tinh tất cả những điểm mạnh của thạch anh tím. Đây được coi là kiệt tác của Thạch Lam và là kiệt tác của văn học Việt Nam giai đoạn 1932-1945. Những con người nhỏ bé, như tiểu thuyết đầu tay “Gió lạnh đầu mùa” của ông, có thể thay đổi cuộc sống giả dối này.
thạch lam đưa người đọc về một miền quê vượt thời gian. Không gian phố huyện được so sánh như một vùng đất chết, một vũng sống yên bình. Sự im lặng bị phá vỡ bởi tiếng trống mùa thu chưa vang lên từ tháp canh. Tiếng trống như một bản lề khép lại thế giới của những kiếp người đang hấp hối, những khuôn mặt đen tối của những người mẹ và những đứa con gái, và mở ra một thế giới mới, một thế giới của hy vọng, chờ đợi “bóng tối đến từ bên trong”. Ánh sáng và bóng tối tranh nhau từng tấc đất: “Phía tây đỏ như lửa, mây đỏ như than”. Nghèo đói, không gian mục nát và cuộc sống bị lãng quên khiến câu chuyện này trở nên buồn hơn vào buổi tối.
“Còn gì buồn hơn những buổi chiều tĩnh lặng, khi ánh sáng chuyển mình trong bóng tối, gió khẽ đưa tôi qua đám cỏ rối, vài mảng sầu đen ẩn hiện trên cành.”
(Tình chiều – diệu xuân)
Không gian buổi chiều thật buồn, đặt cuối chợ, “nơi tiếng quê xa chợ chiều”. Cảnh bây giờ đóng vai trò là nền mà các nhân vật xuất hiện. Nếu như ở trang giang, huyền như tìm một bóng hình thì ở phiên chợ tết của đoàn văn cu chỉ thấy một bóng hình như bao hàm:
“Dân quê lũ lượt kéo về. Nắng nhạt cỏ, kéo theo lá đa rơi quanh quán chợ”.
Trong hai đứa trẻ, cảnh cuối chợ là hợp lý và sinh động nhất. Lều lều dột nát, trơ trọi, những người cuối cùng ra về từng đoàn, những đứa trẻ tội nghiệp lom khom nhặt rác người bán rong bỏ lại. Họ nhặt được gì, nhặt được gì khi thứ rác rưởi kia chỉ là những thanh tre, nứa, lá nhãn, vỏ thị,…? Cảm thấy buồn, thương họ lắm, muốn cho họ tiền, nhưng bạn làm gì có tiền của họ, nên sự đồng cảm của cô chỉ dừng ở mức đồng cảm. Tất cả những cảnh chợ này không được tác giả miêu tả trực tiếp mà bộc lộ qua trái tim nhạy cảm của Lian. Viết về trẻ em cũng là sở trường của Lin Zelin. Tác giả làm cho những đứa trẻ tội nghiệp này tuy còn nhỏ tuổi nhưng biết suy nghĩ chín chắn nhưng vẫn biết hi sinh và nương tựa vào nhau.
Cổ nhân có câu “một cận thị, hai cận giang”. Nơi nào gần chợ ven sông là nơi giàu có, sầm uất và thịnh vượng nhất. Nhưng với vùng đất chết này, chúng ta có thể thấy sự nghèo đói và tuyệt vọng ở đây mà không cần nhìn sâu.
Ánh sáng nhường chỗ cho bóng tối, biến những thị trấn nhỏ của khu vực này thành ao yên bình, thành nơi chết chóc. Cảnh trong cộng đồng tương ứng với câu “thơ đẹp”, bóng tối len lỏi từ lòng đời, “trời tối, đường thăm thẳm, đường ra sông, từ chợ về nhà, ngõ làng lại tối rồi.” “Muỗi bắt đầu vo ve”, “Rừng trúc trước làng cháy đen, nhìn rõ cả bầu trời”. Tất cả những điều này, chính là cảm giác đoàn viên trong bóng tối. Thị trấn giờ chìm trong màn đêm đen kịt. Để khắc họa sự ngự trị của bóng tối, tác giả đã sử dụng khéo léo nghệ thuật tương phản. Bước vào cổng tối om, chỉ có vài điểm sáng: ánh đèn yếu ớt, ánh đèn thưa thớt, những bóng dài chập chờn, thoắt ẩn thoắt hiện như đom đóm, xanh biếc như bóng ma. Ánh sáng mờ nhạt khiến hòn đảo bị chia thành hai nửa sáng và tối. Ánh sáng của đèn không làm không gian sáng hơn nhưng lại khiến bức tranh thực sự “tan tành”, tăng thêm phần ảo diệu cho màn đêm.
Để thoát khỏi màn đêm dày đặc đó, bạn chỉ cần nhìn lên bầu trời để tìm những vì sao ở thiên hà khác. Nhưng như Huiyan đã từng nói, bầu trời là “vực thẳm của bầu trời”, còn đối với hai đứa trẻ, bầu trời là bao la và xa vời vợi. Những vì sao ấy đã xa, rất xa, như những tia hy vọng của con người trên vùng đất chết này. Nó đã xa đến nỗi cô phải trở lại với thực tế, và cô đã quay trở lại với ngọn đèn của người chị. Chiếc đèn trong truyện tuy nhỏ nhưng được lặp lại nhiều lần ẩn chứa nghệ thuật ẩn dụ của tác giả. Cũng như ngọn đèn ấy, dù mờ nhạt, chập chờn theo từng giọt sáng nhưng vẫn cố soi sáng không gian quanh nó, người dân nơi vùng đất nghèo khó này vẫn nuôi hy vọng, thậm chí tuyệt vọng. Phố phường về đêm cũng là lúc bản nhạc bất diệt của đất nước vang lên. Tiếng ếch kêu ngoài đồng, tiếng côn trùng rên rỉ và tiếng dế mổ. Tất cả điều này tạo ra một hệ thống âm thanh phát ra dưới dạng tiếng trống không giống như giọng hát chính. Nhưng nó không đủ mạnh để cộng hưởng ở khoảng cách xa, như bóng người sống trong xóm. Ánh sáng và âm thanh cũng mờ nhạt và mong manh như cuộc sống ở đây.
Bức tranh thị trấn nhỏ vùng nghèo khó không chỉ có bóng tối mịt mù, ánh đèn leo lét, ánh sáng đỏ lò phở, tiếng nhạc quê lâu năm mà nó còn toát lên một mùi ẩm thấp, hình như là mùi của đất, là hương vị của quê hương. Bức tranh “tan nát” là cái nền của kiếp người đang mục nát. Hai chị em buộc phải ngồi nhẹ trên chiếc chõng tre sắp gãy, hoa bàng rơi xuống vai trong buổi chợ tàn. Hai mẹ con bưng ra những mẻ bát chuyển đến quán bar nơi đời người đàn bà sớm mai hy vọng, về sau lại vô vọng. Siêu phở gánh hàng xa xỉ ở khu ổ chuột này, anh ngã quỵ xuống đất vì hàng quá kém, anh rất lo nếu hôm nay quà không bán hết, ngày mai gia đình anh có thể đói, còn anh thì không. . Bán. Nhưng Chao chú còn có thể trông cậy vào, còn lại gia đình Hạ Mục đáng thương kia, cả nhà chỉ có chiếu rách, nồi đồng và đàn tỳ bà kêu răng rắc, hơn nữa khí thế rất lớn, hy vọng của bọn họ càng mong manh. . Rồi đời bà già, hết nửa đời người, bà cười bên rượu.
Có lẽ trước cảnh nghèo khó này, cảnh người ta chỉ mua vài bao diêm và nửa bánh xà phòng trong ngày chợ phiên đã khiến thị tưởng như không muốn tỉnh giấc. Anh đã phải uống cạn nỗi buồn của mình để quên đi sự nghèo khó của phần lớn cuộc đời mình. Ngồi trong phòng ăn, cô chỉ là mấy tên lính hút tẩu thuốc và mua diêm. Khung cảnh điêu tàn, vật dụng cũng điêu tàn, chõng tre của chị em cũng điêu tàn, lu nước của chị em cũng đổ nát, nhà dượng tan nát, bà già đánh nhau cũng tàn đời. Rất nhiều người bị tàn phá đang chờ đợi điều gì đó trong bóng tối.
“Luôn xoay người giữa nhiều tư thế mà khuôn mặt vẫn như cũ”
(vòng tròn – tiếp cận)
Mẹ Liên còn bắt hai chị em thức đêm chờ tàu để bán hàng. Nhưng ngay cả những ngày chợ phiên, chỉ bán được vài bao diêm và nửa bánh xà phòng, thì dù có thức chờ tàu cũng không bán được bao nhiêu vì làm ăn thua lỗ. mùa kinh doanh, và có rất ít người đi tàu, và họ thường chỉ mua vài gói ống. Liam vẫn cố thức chờ tàu vì một lý do khác. Xe lửa hoàn toàn trái ngược với cuộc sống thành phố. Khi tàu sắp đến, ánh đèn pha đủ sáng để xuyên qua màn đêm trong xóm, khác hẳn với ánh sáng yếu ớt của chiếc đèn bàn của cô gái trẻ. Tiếp theo là tiếng còi tàu chói tai đang vào đĩa hát, cũng như tiếng nghiến răng của bánh xe trên đường sắt, vang vọng khác hẳn với bản nhạc đồng quê luôn thay đổi. Những người trên tàu ăn mặc sang trọng, cách đi lại rất khác với cái bóng lê thê và ngái ngủ của người chủ đã khuất. Chuyến tàu cũng chính là tia sáng đã mang đến tuổi thơ tươi đẹp cho Lian’an. Khi mẹ Lian rất giàu có, nhà mẹ Lian ở thành phố nên cô được mẹ dẫn ra hồ, uống những cốc nước xanh đỏ mát lạnh. Ký ức của Liên Chân là Hà Nội xa xôi, Hà Nội phồn hoa rực rỡ. Chuyến tàu đang đến, mang theo cuộc sống phồn vinh và phát triển của “một nơi nào đó”. Cuộc sống ở vùng này là một cuộc sống “vừa phải”, bí bách và lạc hậu. Khi hiện tại đau khổ và hoài nghi tương lai, người ta thường hay nghĩ về quá khứ, lẽ thường tình là thế… chẳng phải ngẫu nhiên mà thạch lam khiến bà già phát điên cho xong buổi chiều. Bà Già là bằng chứng rõ ràng nhất về cuộc sống con người bị lãng quên ở Vùng Đất Của Người Chết.
Hôm nay có thể vốn nhiều như bác phở, nhưng ngày mai cạn vốn, chỉ còn quán nhỏ như quán của chị, thậm chí lụi tàn như quán bác Xẩm, còn một nửa cuối cùng sẽ biến mất. Người đàn bà trở về với bóng đêm, ngẩng đầu nhìn lên trời mong tìm một tia hy vọng mong manh. Đã hơn một lần chúng tôi bắt gặp những hình ảnh đen tối. Tắt đèn soi bắp, cuối cùng chị Dậu cũng chìm vào bóng tối dày đặc, giờ đây bà lão cùng hai đứa con thơ cũng bơ vơ bước vào bóng tối. Một đặc điểm nữa ta thường thấy ở truyện ngắn trước cách mạng là thiên hướng nghệ thuật tương phản của tác giả. Trong từ lên án, ánh sáng cũng đối lập với bóng tối, cột cao trong tâm hồn con người đối lập với hoàn cảnh xung quanh, ánh sáng và âm thanh của đoàn tàu trong hai đứa trẻ cũng khác với tiếng nhạc quê, bóng chiều. lơ lửng trong cõi chết. Con đò cũng là hoạt động cuối cùng mà hai chị em có thể kiên trì. Như chiếc phao tâm linh trong biển tăm tối. Nhưng đối với Ann, dụi mắt trên tàu là trò chơi duy nhất trong ngày. Đối với chúng ta, không ai không có một tuổi thơ tắm trong những đồ chơi xanh đỏ.
Nhưng đối với những đứa trẻ như An Helian, người sẽ sớm kiếm sống, đồ chơi là một thứ xa xỉ. Mỗi lần nhìn lũ trẻ con trong xóm chơi với nhau, tôi rất muốn chơi nhưng không thể vì tôi còn phải trông hàng và giúp chị gái chăm sóc em chứ không phải mẹ. Vì vậy, trước khi chìm vào giấc ngủ, còn nhắc cô ấy đánh thức tôi khi tàu đến. Tàu đến, lặng lẽ như được tặng một món đồ chơi mới. Đằng sau những ngôn từ dịu dàng, người yêu văn vẫn cảm nhận được thông điệp mà Thạch Lam muốn gửi gắm: hãy cứu lấy những đứa trẻ, đừng để chúng cô đơn và bị bỏ rơi như sự bình yên và kết nối. Lin Zelin đã viết và đi sâu vào đường phố của những vùng nghèo đói, khẳng định rằng dù khó khăn, nghèo khổ đến đâu, những người dân quê nghèo sống trong đó luôn mong có được cuộc sống tốt đẹp như vậy. Vì vậy, trên tàu. Anh ngủ thiếp đi khi đoàn tàu đi qua. Nhưng với một cô gái sớm vất vả, tâm hồn nhạy cảm đến mức không biết mơ mộng, trong đầu cô chỉ có ánh đèn leo lét của người chị.
Xem Thêm: Văn mẫu lớp 9: Nghị luận xã hội về lòng biết ơn 2 Dàn ý & 26 bài văn nghị luận xã hội hay nhất
“Đời tôi là chuyến tàu đêm, hành khách ồn ào, ga đến rồi đi, khi tàu về, toa vắng hiu quạnh”…
Phân tích Chế độ xem phố lúc hoàng hôn – Mẫu 13
Tác giả Thạch Lam là một nhân vật trưởng thành trong tự lực văn đoàn, viết văn mang một màu sắc cá nhân không lẫn với ai. Văn của Thạch Lam sâu sắc, dịu dàng nhưng đôi khi đa cảm, đi sâu vào lòng người đọc. “Hai đứa trẻ” là một trong những câu chuyện như vậy, miêu tả đường phố của một vùng nghèo khó vào thời xã hội Việt Nam đầy rẫy những người cơ cực.
Truyện mở đầu bằng một bức tranh giản dị mà kì ảo, khiến người đọc như lạc vào chốn bồng lai tiên cảnh trong truyện cổ tích: tiếng trống canh trong các chòi rẫy; chiều tối tiếng trống lại vang lên. Có lẽ tác giả đã chọn một buổi chiều mùa thu làm nguồn cảm hứng để miêu tả vùng đất nghèo khó, bởi mùa thu là mùa luôn gợi cho con người ta cảm giác bùi ngùi, nhớ nhung và xúc động. Hai đứa trẻ hiện ra, làm công việc thường ngày là thắp đèn và đóng quan tài, nhìn chuyến tàu từ Hà Nội về, mong chờ một điều gì đó, rồi lại chìm trong nỗi thất vọng khó hiểu.
Cảnh chiều tối của một thị trấn nhỏ vùng quê nghèo được tác giả miêu tả qua bức tranh “ chợ họp giữa phố đã lâu, người về, tiếng đã tan . Trên đất chỉ có rác, vỏ bưởi, vỏ trái cây Cái chợ, lá nhãn, cây mía Mùi xỉ than, mùi ẩm thấp, cái nóng ban ngày, mùi bụi bặm quen thuộc khiến ta có cảm giác đây là đất này, mùi riêng của quê hương này.. họ đang phân loại hàng hóa, cột đèn đã được thắp sáng, và họ vẫn đứng nói chuyện … “Những con đường của khu ổ chuột vào buổi tối khô héo, hoang vắng và màu cô đơn. Đây là thực tế của miền Bắc. Ở nước ta lúc đó, mọi thứ đều mờ mịt, không có điểm sáng nào, chỉ là những điều đơn sơ, giản dị, những con người nghèo khổ.
Tác giả dùng những từ ngữ nhẹ nhàng để miêu tả cảnh vắng vẻ, hoang vắng trên đường phố của những cộng đồng nghèo và hoang vắng. Ở đó, “những đứa trẻ nghèo ở đầu chợ, ngồi xổm dưới đất, nhìn lại. Chúng nhặt những thanh tre, nứa, hay bất cứ thứ gì chúng có thể dùng được. Xúc động nhưng bản thân cô không có. Không có tiền cho chúng”. gặp nhau, Nỗi đau khổ dường như nhân đôi, nhưng cũng để lại cho người đọc cảm xúc, niềm thương nhớ của những người nghĩa hiệp.
Và trong bức ảnh về những con đường ở khu vực nghèo khó, không chỉ có trẻ em và Lian, mà còn có những nhân vật khác, tập trung vào sự hỗn loạn của thị trấn lúc hoàng hôn. Ở đâu đó, một người mẹ và cô con gái dù “không kiếm được nhiều tiền” cũng đang dọn dẹp. Ngoài ra, còn có các chị giúp mẹ tôi bán đồ tại quầy hàng mà mẹ tôi thuê của người khác sau khi mẹ chuyển đến con phố này. Họ là những người cần cù lao động hết ngày này sang ngày khác, nhìn cái đói, cái nghèo diễn ra mà không thay đổi.
Không chỉ những người nghèo đó, mà cả một bà già điên vẫn đang mua rượu trong cửa hàng cũng xuất hiện trên màn hình ở Quzhen. Bà cụ thường “ngửa cổ uống cạn, ba xu bỏ đi” khiến người đọc chạnh lòng, thương cảm cho một con người đang uể oải vượt qua những khó khăn cuối đời. Một ngày không phương hướng.
Những con người ấy, ai cũng mong chờ một chuyến tàu từ Hà Nội về, với sự ồn ào, náo nhiệt để xua tan đi sự mịt mù, trống vắng. Có thể là do “tàu dường như đưa một chút về thế giới khác”. Có thể trong thế giới đó, có thể cuộc sống của họ tốt đẹp hơn, êm đềm hơn. Những người khốn khổ tìm cách đổi đời.
Có thể nói “Hai đứa trẻ” là một tác phẩm nhẹ nhàng, ý nghĩa, không có những tình tiết gay cấn nhưng lại để lại những số phận hẩm hiu, đau khổ và niềm khát khao về một ngày mai tốt đẹp hơn trong lòng người đọc.
Phân tích Chế độ xem phố lúc hoàng hôn – Mẫu 14
“Hai đứa trẻ” không phải là truyện ngắn hay nhất nhưng lại là một phong cách nghệ thuật tiêu biểu của Salin: giản dị, nhẹ nhàng, tinh tế và sâu sắc. Câu chuyện dường như không có gì: hầu như không có cốt truyện, không có xung đột kịch tính, không có gì đặc biệt. “Hai đứa trẻ” chỉ là một phần của cuộc sống thường ngày lặng lẽ nơi phố huyện nghèo từ chập tối đến đêm khuya, với những màu sắc quen thuộc và những âm thanh quen thuộc: tiếng trống thu không lời trong căn chòi nhỏ, chiều cuối chân trời, mùi hương của đất ẩm, tiếng chó sủa, tiếng ếch nhái, tiếng muỗi vo ve… Lác đác tiếng người nhỏ, quán nước chè tươi, quán mỳ túi, vỏ nhãn, vỏ ốc, rác rưởi và cảnh chợ trưa của người nghèo… .và nỗi buồn mơ hồ trong suy nghĩ tội nghiệp của “đứa con thứ”.
Tất cả chỉ có thế. Nhưng những bức tranh tầm thường đó, qua tấm lòng nhân hậu, qua nét bút tinh tế, nên thơ của anh, dường như có hồn, có màu sắc nhấp nháy, có thể khơi dậy những chỗ thầm kín, nhạy cảm. Phần nhạy cảm nhất của thế giới cảm xúc đánh thức và gợi lên biết bao cảm giác xót xa, day dứt, dịu dàng và trắc ẩn.
Đây là câu chuyện của “hai đứa trẻ”, nhưng cũng là câu chuyện của những con người nhỏ bé tội nghiệp lặng lẽ bước đi trong bóng tối ở một thị trấn lụp xụp.
Ít có tác phẩm nào như truyện “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam, khắc họa dày đặc hình ảnh đêm, lặp đi lặp lại… như một ám ảnh không bao giờ nguôi: tác phẩm kết thúc bằng “Hết” Dấu hiệu bắt đầu bằng ngày ” và kết thúc bằng “bóng tối quạnh hiu”, màu đen, bóng tối bao trùm và ngự trị vạn vật: những con đường, ngõ phố dần dần ngập trong bóng tối. Tối, tối, con đường ra sông, từ chợ rau, những con ngõ trong làng như tối hơn. .. Tiếng trống canh gác từ khu vực vọng lại, một âm thanh ngắn khô khốc, không lan xa rồi chìm vào bóng tối… Cả đoàn tàu từ Hà Nội, có ánh sáng, phút chốc chìm vào bóng tối”. ..
Trong nền tối dày đặc này, có sự sống, những con người sống trong bóng tối. Họ là những con người bình thường, chỉ xuất hiện thoáng qua, gần như những cái bóng, từ hình bóng những bà mẹ con nhà nghèo dưới nước, những hình nộm gia đình sống dưới đất cho đến cả gia đình. Người không quen biết: Mấy gánh hàng rong về rất muộn, mấy đứa trẻ tội nghiệp lom khom nhặt nhạnh tìm tòi…
Tất cả những điều này Thạch Lâm không miêu tả chi tiết: tương duyên, tương duyên, định mệnh… nhưng có lẽ vì thế mà số phận của họ dường như nhỏ bé và đáng thương hơn, mỗi người sống một cách khác nhau. Âm thầm, nhẫn nại, không ngừng Văn của Thạch Lam là thế: ánh sáng bên trái, hướng về gợi mở và thể hiện đời sống nội tâm: sống trong im lặng và bóng tối, nhưng giữa chúng không thể không thiếu tình cảm của con người. Qua lời nói và cử chỉ thân mật của họ, chúng tôi cảm thấy được quan tâm và gắn bó. Dưới văn bản nhân từ của Shi Lan, tất cả họ đều xuất hiện dịu dàng và tốt bụng.
Nhưng giữa bao nhiêu con người ấy, tác giả chỉ đi sâu vào thế giới tinh thần của “hai đứa trẻ”: Liên và An. Họ không phải là hạng người nghèo nhất trong xã hội, mà là con cái của những gia đình nề nếp điển hình, bị mắc kẹt trong nghèo đói, bế tắc vì sa sút và thất nghiệp.
Không phải ngẫu nhiên mà tác giả đặt tên cho truyện ngắn của mình là “Hai đứa trẻ”. Hình ảnh u ám của Quzhen và những con người u ám không kém sống ở đây được thể hiện qua ánh mắt và tâm trạng của hai chị em, đặc biệt là ánh mắt và tâm trạng của Lian. Mở đầu tác phẩm, ta bắt gặp hình ảnh ngồi lặng lẽ bên bức sơn mài đen “Đôi mắt em dần đượm bóng tối, nỗi buồn của buổi chiều quê thấm vào tâm hồn thơ ngây” “Nàng thấy buồn trong Thạch Lam” Doom” Nó không miêu tả chi tiết đời sống vật chất của họ. Tác giả chủ yếu thể hiện thế giới tinh thần của mối quan hệ này thông qua nỗi buồn mơ hồ và mờ nhạt của một cô gái trẻ. Cô ấy không còn là một đứa trẻ nữa, nhưng cô ấy cũng chưa phải là người lớn. Tác giả gọi cô là “chị” vì Quách Liên là người chỉ quan tâm đến cô, tình cảm, dịu dàng và dũng cảm. Tâm hồn cô không phải là mẹ mà là một tâm hồn trẻ thơ, trong sáng và ngây thơ. và những lời chúc bình dị.
Ở đây, nhà văn nhập vai “hai đứa trẻ”, thấu hiểu, đồng cảm, chia sẻ và miêu tả thế giới tinh thần trong sáng của hai chị em: hình ảnh tăm tối, bức tranh phố. hai đứa trẻ. Những tâm hồn trẻ thơ vốn hay quan sát, sợ hãi bóng tối và khao khát ánh sáng. Hình ảnh của Quzhen hiện lên qua tâm trạng này: “Hai chị em hơi lo lắng (trên chiếc chõng sắp gãy) ngồi yên nhìn ra đường…” Liam thấy “đứa trẻ tội nghiệp gần chợ ngồi xổm xuống.” Lục lọi dưới đất. “, nhưng “Tôi không có tiền cho họ…”. Trời tối dần, hai chị em thấy một cậu bé đầu ngõ mang theo điếu thuốc và một chiếc ghế… Hai chị em đứng lặng nhìn “bà già” đi vào bóng tối…”Hai chị em phải ngồi trên chiếc giường nhỏ nhìn người đến sau dần đi xa trong đêm”…”Từ khi dọn về đây…đêm nào em cũng ngồi trên cái cũi. Chiếc giường tre nhỏ dưới gốc cây sồi và bóng tối của quang cảnh đường phố xung quanh”… Đêm “đối với Lian En quen thuộc đến mức tôi không còn sợ hãi nữa”. “Không còn sợ hãi” có nghĩa là tôi đã từng sợ hãi. Một từ Có thể gợi lên biết bao liên tưởng. Những ngày đầu chuyển đến đây, chắc hẳn Ryan rất sợ bị bao trùm trong bóng tối dày đặc, nhưng giờ thì Liên Chân đã “quen lắm rồi”. Sống trong bóng tối mãi rồi cũng quen. như mãi Cũng như khổ, người ta rồi cũng sẽ quen khổ Từ “rất quen” tác giả dùng ở đây có chút gì đó đáng thương và bất lực Nhưng ngòi bút và tâm hồn của thạch nhũ không dừng lại ở đó. cam chịu, tác giả đi sâu khám phá tuổi trẻ Khát vọng ánh sáng sâu thẳm nhất trong tâm hồn, anh đi theo Liên An, ngước nhìn ngàn vì sao, tìm dải ngân hà, và con vịt đi theo anh, như một đứa trẻ, vẫn khao khát điều kỳ diệu trong truyện cổ tích, nhưng vũ trụ rất sâu thẳm. Hai đứa trẻ, đầy bí mật, nhưng lại quá xa lạ với chúng, trong giây lát chúng lại nhìn xuống đất, nhìn ánh sáng thân mật quanh ngọn đèn lung linh của mẹ. Có một chút … Tác giả đã quan sát rất kỹ cử chỉ, ánh mắt của họ Và ghi lại Nhưng chỉ riêng điều này thôi cũng đủ làm cho người đọc cảm thấy thích thú Sống mãi trong bóng tối, họ đã “rất quen thuộc” với bóng tối, nhưng càng làm điều này, họ càng họ càng khao khát ánh sáng Họ dõi theo, tìm kiếm, và chỉ mong ánh sáng sẽ đến từ muôn phương. Hãy đến: Những vì sao từ “bầu trời” “ngàn sao lấp lánh”, đếm từng ánh sáng xuyên qua rừng trúc, họ mơ ước của ánh quá khứ, ký ức về “Hà Nội xa”, “một Hà Nội” rực rỡ, tươi vui, ồn ào đã lùi vào xa xăm. chấm đèn xanh trên chiếc xe cuối cùng ở đằng xa…
Đây là một thế giới đầy ước muốn, dù chỉ là một ước muốn nhỏ nhoi, dù chỉ là ảo ảnh. Nếu không có lòng trắc ẩn sâu sắc, sự hồn nhiên trẻ thơ, sự nhạy cảm thơ ca thì không thể diễn tả một cách tinh tế niềm khao khát ánh sáng của những con người sống trong bóng tối.
Đọc “Hai đứa trẻ”, tôi có cảm giác tác giả không sáng tạo tiểu thuyết. Mọi chi tiết đều đơn giản như đời thực. Cuộc sống chỉ là như nó được hiển thị trên trang. Nhưng đó chính là sức mạnh của chiếc bút thạch anh tím. Từ những câu chuyện đơn điệu, nhàm chán và đơn điệu hàng ngày, nhà văn khám phá ra một cuộc sống cảm động và sâu sắc, nơi ánh sáng tồn tại trong bóng tối và cái đẹp tồn tại trong bóng tối. Sự bình yên của mỗi ngày, bóng tối phía trước và những kỷ niệm đẹp…
Nét độc đáo của bút đá là tác giả sử dụng thủ pháp tương phản gần như tự nhiên, không hề chỉnh sửa, phóng đại làm cho bức tranh phố huyện thêm phong cách. Mạnh mẽ, trần tục và gợi cảm.
Đọc “Hai đứa trẻ”, ta cứ miên man, day dứt trước màn đêm bao trùm vùng đất này, xót xa cho cuộc sống cô đơn, khuất phục của những con người sống nơi đây. Nhưng “Hai đứa trẻ” cũng làm chúng ta say đắm, trò chơi đồng quê trong “Lời ru chiều hè” và “Những đêm hè nhung gió mát” cũng vậy… nó gợi nhớ về một thời đã qua và gợi lên một cảm xúc mạnh mẽ. quê hương, đất nước, bồi đắp cho tâm hồn ta những tình cảm “sâu sắc”.
Phân tích Chế độ xem phố lúc hoàng hôn – Mẫu 15
Nhà văn Nguyễn Duẩn viết: “Tạ Lin là nhà văn yêu đời, uy nghiêm trước cuộc sống của mọi người. Hôm nay đọc lại Tạ Lin vẫn thấy đầy đủ dư vị và phong cách. Đánh giá cao những tác phẩm văn chương có bản sắc và chất lượng”. . Nguyễn Tuân là nhà văn cùng thế hệ với Thạch Lam, cả hai đều chết trong Văn hiến cứu nước, Nguyễn Tuân khẳng định gu thẩm mỹ độc đáo và tình yêu nhân loại trong văn Thạch Lam.
Truyện của thạch lam không có cốt truyện, mỗi tác phẩm như một bài văn xuôi, thấm đượm chất trữ tình, bi tráng. Đây là một câu chuyện tình yêu say đắm. “Dưới bóng hoa lan”, “Gia đình hoa lê”, “Cô hàng xén”, “Hai đứa trẻ”… đều là những truyện ngắn rất hay của Thạch Lam. Vườn” Nxb “Đời Đôi Tay”, Hà Nội, 1938. Truyện ngắn này tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của văn thạch, sử dụng những mẫu mực của đời sống thường ngày, tâm hồn của mỗi mảnh đời chất chứa quá nhiều nỗi buồn. Thật đáng tiếc, thật đáng tiếc.
Bối cảnh của câu chuyện là một cộng đồng nghèo và đổ nát, một chuyến tàu chạy qua, một nhà ga và một khu chợ nhỏ giữa làng và cánh đồng. Thời gian là buổi tối, khung cảnh là buổi sớm cho đến khi đoàn tàu chạy qua. Có hai đứa trẻ ngồi trong chòi ngắm cảnh, cố thức để chờ chuyến tàu đêm đi qua. Câu chuyện bắt đầu ở Khúc Trấn vào buổi chiều. Gọi là phố huyện nhưng cũng chỉ là một thị trấn nhỏ, nghèo của nước ta đầu thế kỷ 20, Tuban nhắc đến: “phố bên bờ sông”… Cảnh Tamura vào một buổi chiều cuối hè. “Trời tây đỏ như trời…” và “Chiều êm như lời ru” có tiếng trống chiêng và tiếng ếch nhái ngoài đồng. Khi màn đêm buông xuống, tiếng muỗi vo ve phát ra từ cửa hàng mờ tối. Cảm xúc của nhà văn dường như không thể nói nên lời, thể hiện nỗi nhớ quê sâu nặng da diết. Những bức tranh đồng quê trở nên gần gũi, thân thiện và đồng liêu dưới nét bút tinh tế của Thạch Lam.
Nhưng “Đứa con thứ hai” không chỉ là bức chân dung thiên nhiên mà trước hết nó là bức chân dung cuộc sống. Đây là bức chân dung về cuộc sống trong khu ổ chuột lúc hoàng hôn và đêm khuya, được quan sát và cảm nhận qua tâm hồn ngây thơ và nhạy cảm của hai đứa trẻ, chị em Lian và An. Ngồi thẫn thờ bên viên thuốc sơn đen trước khi một ngày tàn, cô thấy “buồn thiu”, đôi mắt “dần dần chìm trong bóng tối”, nỗi buồn của một buổi chiều quê thấm vào tâm hồn thơ ngây của cô. thơ của cô. Trời tối dần, trong nhà đã sáng đèn: “Chiếc đèn nhà bác Phó Mỹ, đèn Mỹ nhà bác Cửu, dây đèn xanh quán trọ…”. Cát trên đường phố “lấp lánh khắp nơi” và những con đường “gập ghềnh” hơn vào lúc hoàng hôn. Chợ “Long Gone” là một khung cảnh ảm đạm và đổ nát của cuộc sống đường phố nghèo vào buổi tối. Không một tiếng động, vỏ bưởi, vỏ bưởi, lá nhãn, bã mía, rác thải đều vương vãi dưới đất. Một số người bán hàng rong đêm khuya đang đóng gói hàng hóa của họ. Một số trẻ em nghèo ở rìa chợ lom khom “nhặt que tre, que củi, hoặc bất cứ thứ gì người bán rong còn dùng được”. Họ di chuyển xung quanh như những linh hồn bất lực. Khi tôi nhìn thấy họ, tôi động lòng trắc ẩn, nhưng tôi không có tiền để cho họ. Đói nghèo là cảnh chung của mọi người, mọi nhà và mùi ẩm thấp, bụi bặm, nóng bức gắn liền với “mùi đất, mùi nhà”. Đó là mùi vị của “bể đời,” của khốn khổ và nghèo đói. Bóng em như được bao phủ trong một câu chuyện cổ tích, làm nhòe đi cảnh vật, đè nặng lên cuộc sống của những con người “bé bỏng” nơi vùng nghèo khó. Trong cái quán nhỏ lợp bằng giấy bản, chiếc chõng tre của hai chị em chìm trong bóng tối. Khi màn đêm buông xuống, “cánh gián khắp phố tối dần”. Đường ra sông sâu, đường từ chợ vào nhà, ngõ vào làng tối hơn. Tiếng trống canh, tiếng ếch nhái ộp ộp từ xa, tiếng hoa rơi nhè nhẹ trên vai, tiếng gánh hàng rong của gánh hàng rong, tiếng cười “giòn rụm” của các bà già… tất cả những âm thanh ấy đều “chìm nghỉm”. vào bóng tối”. Thị trấn về đêm yên tĩnh hơn và đầy bóng tối.
Trong cảnh đổ nát, hoang vắng, tối tăm, có những sinh linh tội nghiệp, lầm đường lạc lối. Cuộc sống của hai mẹ con dường như gắn liền với màn đêm. “Cậu bé bước ra khỏi con hẻm với một ngọn lửa và một chiếc ghế trên lưng.” Mẹ của nó, em gái, theo sau, “đeo cũi chì và mang theo rất nhiều đồ đạc…”. Ban ngày mò cua bắt tôm, chiều nào cũng dọn hàng “từ sáng đến tối” mà “chẳng kiếm được bao nhiêu!”. Hình ảnh hai mẹ con gợi cho ta liên tưởng đến cuộc sống của hai mẹ con trong truyện “Gió lạnh đầu hè”: mẹ mò cua bắt ốc, con quần áo tả tơi cuộn mình trong gió lạnh đứng trong gió…thạch lâm luôn đối xử tội nghiệp Thương xót mẹ con tội nghiệp! Hơi loạn hình ảnh bà già “cười với khách”, cầm ly rượu sôi lăn tăn cười lớn, “vừa đi vừa ngoái đầu lại”, nhấp một ngụm uống cạn, nguệch ngoạc “lảo đảo” hắc hắc… khiến ta đầy ngậm ngùi cho mảnh đời tăm tối nơi vùng bần hàn. Khung cảnh nhà chú mới thật ảm đạm. Tiếng đàn tỳ bà kẽo kẹt Ngồi trên chiếu có chiếc chậu thiếc trước mắt, con tôi ngồi bệt xuống đất “chơi nhặt rác bẩn vùi trong cát ven đường”. Và gánh hàng rong đêm bán phở, thứ quà xa xỉ mà các chị em sẽ không bao giờ mua được. Cái sào của Bác bị gọi là “lộc cộc” và cái bóng của Bác “đã đưa sang một vùng…”. Cả hai góp phần tạo nên bức tranh đen tối về cuộc sống nơi phố nghèo, một cuộc sống lầm lũi, mục nát và nhọc nhằn.
Có thể nói hai chị em là hình ảnh trung tâm của bức tranh cuộc sống nơi vùng sâu nghèo khó. Hoàn cảnh gia đình ngày càng éo le, bố thất nghiệp, cả gia đình rời Hà Nội về quê, mẹ thì quần quật với công việc. Hai chị em được mẹ giao cho trông coi một cửa hàng tạp hóa nhỏ, trên tường treo đầy nhật ký và bán một ít que diêm, một ít bánh xà phòng và một ít rượu. Lian là một cô gái trẻ ăn mặc sang trọng, đeo một chiếc thắt lưng kẻ sọc màu bạc quanh eo một cách kiêu hãnh. Hà Nội rực rỡ ánh đèn là do cách xa Hà Nội “một vùng sáng lấp lánh”. Dần dần cũng quen với bóng tối của khu ổ chuột. Đèn đoàn…”Từng hạt sáng lọt qua chõng tre”, ngọn đèn Mỹ le lói trong nhà bác cuu, quầng đèn “lắc trên giường chị” và những chấm vàng bé nhỏ “lơ lửng” trong gánh em Một nơi dành cho những bức ảnh…từ đêm này sang đêm khác. Lian vẫn ngồi trên giường quan sát. Đêm càng sâu, “tâm hồn ăn uống lặng lẽ không ngừng nghỉ, có những cảm giác mơ hồ không thể cắt nghĩa rõ ràng”. Mỗi đêm, An Hách Liên đều cảm thấy buồn ngủ, nhưng vẫn cố gắng thức để chờ chuyến tàu đêm đi qua. Nhìn đoàn tàu từ xa “lửa xanh nát như ma”, tiếng còi tàu ngân dài trong gió xa, đoàn tàu đến gần, vượt qua “toa tàu sáng rực”, rồi “đi vào bóng tối”. Để lại than hồng đỏ bay trên đường sắt”. Chuyến tàu đã chạy xa, chị em vẫn dõi theo “đèn xanh nho nhỏ treo toa cuối…” Còn nhiều dấu vết của nỗi buồn. Chuyến tàu đêm như một Một niềm an ủi, một niềm khao khát mơ hồ, một niềm mơ ước không bao giờ tan, nó là ánh sáng cho cuộc sống nghèo khó hàng ngày Chuyến tàu đêm “như mang theo một chút của thế giới khác” Đợi tàu đến , nuối tiếc chuyến tàu đi qua Nó kêu ầm ĩ một lúc Nó sáng lên một lúc rồi “đi bộ về từ nhà ga, bóng tối và bóng tối.” Chuyến tàu đêm trở thành một sự kiện lớn ở thị trấn nghèo khó này: “Thật nhiều người ở Nghèo đói tối tăm hằng ngày Mong chờ ánh sáng.”
Cảnh phố nghèo sau chuyến tàu đi qua, đêm dần vắng lặng, mênh mông. Chỉ có đêm khuya, “Trống ấm chanh chó cắn”. Chị tôi đang chuẩn bị từng chút một, nhưng chú tôi đã ngủ quên trên màn hình. Liên tục chìm vào giấc ngủ “yên tĩnh và đầy bóng tối”, giống như một đêm yên tĩnh trong một thị trấn nhỏ ở một khu vực nghèo. Cảnh phố nghèo, người chung quanh ai cũng than thở, nghèo và tăm tối. Chị Lian, mẹ và con gái, một bà già điên rồ, một người bán rong siêu hạng, một người chồng và một người vợ, một tài xế nhà hàng hút thuốc! Rất nhiều người nhỏ bé tội nghiệp. Những miêu tả của Thạch Lâm về phố phường nghèo khó rất chân thực và cảm động. Ông dành tình cảm nồng hậu và lòng trắc ẩn cho những người dân quê ông, những người nghèo khổ và tăm tối. Những cảnh quay ở những vùng quê nghèo khó vừa chân thực vừa mang đậm tinh thần nhân văn.
Trong tuyển tập Chữ ở chỗ của nhà xuất bản Văn học Thạch Lam năm 1988, tác giả Nguyễn Tuân viết: “Truyện hai đứa trẻ nghèo nàn gợi cảm giác thân thuộc. Quá khứ mà xây Tương lai. thế giới quan của đôi vợ chồng trẻ nơi thôn quê, hình ảnh đoàn tàu, tiếng còi tàu đã trở thành thói quen, nỗi nhớ nhung.Đọc “Đứa con thứ hai”, tôi thấy chộn rộn vô hạn cho quê hương hiền hòa, sâu lắng.
Ảnh thị trấn lúc hoàng hôn – mẫu 16
Thời kỳ văn học trước Cách mạng tháng Tám. dung nham là một nhà văn tuyệt vời và linh hoạt. Hai đứa trẻ trong tập truyện ngắn Nắng trong vườn (1938) là kiệt tác của ông. Được viết theo lối lãng mạn, câu chuyện giống như một bài thơ trữ tình đầy buồn bã nhưng đầy cá tính.
Mỗi tác phẩm truyện, ngoài yếu tố nhân vật, còn phải có yếu tố, và đó chính là tình huống. Để tạo ra tình huống, tác giả nhằm xác lập mối quan hệ giữa nhân vật với môi trường xã hội mà nhân vật đó đang sống. Sự ăn ý giữa hoàn cảnh và nhân vật sẽ tạo thành chất keo kết dính các chi tiết lại với nhau, làm cho nội dung tác phẩm liền mạch và nghệ thuật của tác phẩm thêm hoàn thiện. là một trong những yêu cầu bắt buộc không chì đối với văn học hiện thực (hoàn cảnh ra đời của cá tính).
Nhà văn Thạch Lam mở đầu truyện ngắn về hai đứa trẻ bằng video Cuối ngày. Khung cảnh khu ổ chuột lúc bấy giờ đổ nát, hoang tàn, người dân mòn mỏi lang thang trong chợ. Giống như thứ tồi tàn nhất trong thành phố huyện, đó là tính cách của Lian An. Thông qua cảm xúc của hai tâm hồn trong sáng ấy, mọi cảnh phim đều được diễn ra một cách chân thật và sắc thái nhất.
Nhưng trước hết, cảnh mặt trời lặn vẫn được tác giả miêu tả một cách thơ mộng. “Phía tây đỏ như lửa cháy, mây đỏ như than tàn, rừng trúc trước thôn đen kịt, hiện rõ trên nền trời… Buổi chiều yên ả, như một lời ru, tiếng ếch kêu…”.
Bức tranh đẹp nhưng ẩn chứa trong đó là nỗi buồn được người họa sĩ cố tình che đậy bằng những mảng màu sặc sỡ. Lý do mô tả kịch bản. Nó dường như giúp người ta tìm thấy chút nhẹ nhõm sau những muộn phiền của cuộc sống. Văn của thạch lam luôn dạt dào cảm xúc, khiến người đọc như lạc vào cõi mộng của những vần thơ tình lãng mạn. Từng lời từ từ truyền vào lòng người một cảm giác rạo rực. Người ta nhận xét rằng văn chương Thạch Lam vừa hiện thực vừa lãng mạn. Ý kiến này rất phù hợp với truyện ngắn Hai đứa trẻ, bởi trong truyện ngắn này, hiện thực cuộc sống buồn bã, mệt mỏi luôn xoay quanh những con người sống ở phố huyện, ở đây gọi là phố huyện. Nhưng nó thực sự chỉ là một thị trường nhỏ. “Chợ họp giữa phố đã lâu. Mọi người ra về hết, tiếng ồn ào cũng lắng xuống. Chỉ còn lại rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ chợ, lá nhãn, lá mía. Dưới đất ẩm ướt. mùi bốc lên Khi thức dậy, cái nóng ban ngày lẫn với mùi bụi đường quen thuộc, gợi nhớ hương vị riêng của xứ sở quê hương này…”.
Nhìn thị trường hồ tiêu này mới thấy đời sống người dân khổ như thế nào? Những gánh hàng rong đứng giữa đêm khuya, chỉ hàn huyên vài câu, giải thích cho nhau nghe nỗi chán đời, chiếc máy ảnh của tác giả không quên ghi lại hình ảnh những đứa trẻ cơ cực mưu sinh trên đống rác của chợ. Những số phận đó “ngồi xổm trên mặt đất nhìn. Họ nhặt những thanh tre, que tre hoặc bất cứ thứ gì mà những người bán hàng rong có thể bỏ lại”. Lian Xin cảm thấy thương hại nhưng bản thân cô không có tiền để đưa cho họ. Đây là đau khổ tột cùng. Gần như đã từ bỏ hy vọng. Nỗ lực quá nhiều, hy vọng vẫn chỉ là giấc mơ. “Trong truyện ngắn này, các nhân vật đều đang phải vật lộn với cuộc sống hiện tại. Cô bán hàng nước sôi cạnh móc gạch không biết bán cho ai.
Siêu nhà hàng tốt hơn một chút, nhưng đó chỉ là một ngọn đèn dầu nhỏ. Tuy nhiên, sống ở khu vực nghèo khó này, hàng hóa của bạn vẫn là “hàng xa xỉ”.
Cảnh phố huyện thật éo le. Mọi người ở đó mệt mỏi và nặng nề. Mọi hoạt động chống đói nghèo gian khổ nhưng dậm chân tại chỗ. Tình huống đó thường sản sinh ra những gã đàn ông kỳ quặc, cụ thể là bà già “hơi khùng”, cười chết đi được. Những bộ thí nghiệm điên rồ là bằng chứng của sự sa sút trong cuộc sống, là biểu hiện điển hình của quá trình tìm lối thoát khỏi sự tuyệt vọng. Sự xuất hiện của nhân vật “chú bé mất trí” làm cho các nhân vật trong truyện ngắn Hai đứa trẻ cụ thể hơn, sinh động hơn và làm cho bức tranh cuộc sống hiện lên một cách trầm mặc.
Cảnh hoàng hôn ở một thị trấn nhỏ vùng nghèo khó trong truyện ngắn Hai đứa trẻ là một mô hình thu nhỏ của xã hội cũ. Ở đó số phận của con người được thể hiện rõ ràng nhất. Tất cả tập trung trong một không gian chật hẹp và tối tăm.
Thông qua phần một của truyện, nhà văn Lâm Trạch Lâm đã tái hiện bối cảnh cuộc sống trước Cách mạng tháng Tám. Truyện ngắn của hai đứa trẻ thể hiện sự hiểu biết sâu sắc của tác giả về cuộc sống tù túng của người nông dân lao động qua việc miêu tả phố phường ngày xưa, đồng thời lên tiếng bảo vệ quyền sống và quyền công lý. xã hội lúc bấy giờ. Vào thời điểm đó.
Phong cách tả cảnh đúng chuẩn của truyện, giọng trữ tình nhưng lại gợi một tâm trạng buồn. Nghệ thuật miêu tả kết hợp với cảm hứng lãng mạn được tác giả sử dụng khiến cho truyện ngắn này xứng đáng là tác phẩm xuất sắc của thời đại.
Điều đáng khen là trong khung cảnh lúc hoàng hôn, tình cảm của con người vẫn không hề phai nhạt. Dù cuộc sống không dễ dàng nhưng Lian vẫn hy vọng số tiền có thể quyên góp được cho những trẻ em nghèo đang phải kiếm đồ ăn thừa sau phiên chợ hạt điều. Lian không chỉ yêu bản thân và sự bình yên của cô ấy, mà còn yêu nhiều số phận bi thảm khác. Người dân vùng này, từ mẹ và chị tôi ngày ngày bắt tôm, tối dọn quán bán nước cho lính tuần, đến bà già thắp đèn dầu ở tiệm phở cười nói cạnh tranh với “hai điên rồ”…tất cả những điều đó Tất cả chỉ là sự cạn kiệt của cuộc sống chứ không phải sự xa lánh khiến tôi nghĩ con người phải thật độc ác.
Thạch Lam không phải là cây bút hiện thực và phê phán như nam cao hay Ngô tốt to nên ngòi bút của ông không lợi dụng cuộc sống trần trụi trong lam lũ. Tuy nhiên, trong truyện thơ ngắn rất tinh tế của Hai đứa trẻ, Lâm Trạch Lâm đã gián tiếp phản ánh và tố cáo cái xã hội ngột ngạt, tù đọng, trong đó cuộc sống con người mất hết ý nghĩa, bị dồn vào ngõ cụt. Nhân cơ hội này, tác giả đã chuẩn bị đoạn tiếp theo để miêu tả niềm khao khát được đi xa, mơ hồ trong hình ảnh chuyến tàu đêm, với sự háo hức của hai đứa trẻ.
Ảnh thị trấn lúc hoàng hôn – mẫu 17
Măng đá xanh là một hiện tượng đặc biệt trong văn học Lãng mạn 1930-1945. Ông có khiếu viết truyện ngắn. văn phong của Thạch Lâm trong trẻo, dịu dàng và gợi cảm. Và đằng sau những trang cảm xúc tinh tế ấy là niềm cảm thương cho kiếp người nghèo khổ trong xã hội cũ.
Hai đứa trẻ là một trong những truyện ngắn xuất sắc của Thạch Lam. Truyện được in trong tập truyện ngắn Nắng trong vườn (1938). Truyện không có cốt truyện, chỉ có thế giới tâm hồn của hai đứa trẻ Int và An, những người chạy quầy cắt thời sự và thức khuya chờ chuyến tàu từ Hà Nội về. Thông qua các bức tranh phong cảnh và tranh vẽ, cuộc sống buồn tẻ và vô vọng của thị trấn nhỏ được thể hiện.
Tác giả đã chọn thời điểm hoàng hôn – cuối ngày. Khung cảnh càng lúc càng tối. Ánh sáng mờ đi. Bóng tối bắt đầu len lỏi tứ phương, phía trên túp lều tranh, mây và lũy tre làng bao trùm cảnh vật, tiếng thu gọi trống thu gọi chiều từng giờ gợi lên từ sắc màu: phương tây đỏ như lửa, hồng Đám mây màu như hòn than sắp tắt.
Đó là cảnh một phố huyện đổ nát: tiếng muỗi vo ve, tiếng ếch nhái kêu, cảnh đầu đường xó chợ, chỉ còn rác dưới đất, một vùng đất bị lãng quên dường như đang chết dần chết mòn..
Giữa khung cảnh đổ nát, hoang vắng, tăm tối là một cuộc đời đen tối: những đứa trẻ tội nghiệp lủi thủi trong buổi chiều tàn. Hai mẹ con suốt mấy ngày mò cua bắt tôm, đến chiều tối cũng với niềm hy vọng vô vọng như gian hàng của mẹ, chúng tôi ra sân ga với những chiếc sọt tre cũ nát để bán đồ. Bà cụ từ trong bóng tối hiện ra, cùng bà quay lại, đi vào bóng tối… Thấp thoáng sau lưng họ là một bà lão phải cho thuê gian hàng xiêu vẹo, người cha mất việc làm. Xung quanh họ là những đồ vật đổ nát: những tấm ván gỗ với những khúc gỗ trên đó, những con cáo sắp đớp mồi…
Những người đó sống một cuộc sống đơn điệu hàng ngày. Nhịp sống triền miên nói lên sự kiệt quệ, vô nghĩa của kiếp người trong xã hội cũ. Người dân không chỉ phải chịu đói nghèo mà còn phải chịu đựng cuộc sống buồn tẻ. Hình dáng của những măng đá dường như mong được mang lại ánh sáng cho cuộc sống nghèo khó của họ. Những gì họ mong đợi là không rõ và chỉ ở lòng thương xót của tác giả.
Trong khung cảnh mù mịt của thị trấn tối tăm ấy,
nổi bật nhất chính là hai đứa trẻ, đặc biệt là cô bé Liên. Nhân vật bất biến trong bóng tối để lại cho người đọc sự nhạy cảm và sâu lắng của lòng người: cảnh thiên nhiên dưới nắng chiều vắng lặng và u uất khiến lòng ta bùi ngùi trước ngày tàn. Những đứa trẻ tội nghiệp nhặt rác ngoài chợ. Các nhà văn thích hóa thân vào các nhân vật, đau đớn trước những cuộc đời vô nghĩa, đang chết dần chết mòn.
Nguồn: https://anhvufood.vn
Danh mục: Giáo Dục