Phân tích bài thơ Thương vợ của Trần Tế Xương hay nhất (4 mẫu)

Phân tích bài thơ Thương vợ của Trần Tế Xương hay nhất (4 mẫu)

Phân tích bài thơ thương vợ

Phân tích những câu thơ thương vợ hay nhất (4 bài văn mẫu)

Đề bài: Phân tích bài thơ “Yêu vợ” của DuPont

Bạn Đang Xem: Phân tích bài thơ Thương vợ của Trần Tế Xương hay nhất (4 mẫu)

Xem thêm: Tuyển Tập Những Bài Thơ Thương Vợ Hay Nhất

Bài giảng: Yêu Vợ – Cô Thúy Nhàn (Giáo Viên Chiến Tranh Việt Nam)

Ví dụ 1

Dupont là một trong những nhà thơ nhạy cảm với những thay đổi của con người và hiện trạng. Xã hội xô bồ là xã hội mà mọi thứ đều bị đảo lộn, mất đi cả giá trị thiêng liêng nhất là tình yêu thương, tình người chỉ là thứ cảm xúc hời hợt của mua bán đổi chác phải không anh? Trong cái xã hội nhố nhăng đó, nhà thơ đã dành cho mình một tình cảm cao quý nhất, đó là tình cảm với vợ. “Vợ Yêu” là một bài thơ hay, ghi lại tình yêu chân thành của nhà thơ dành cho vợ, sự cảm thông, chia sẻ, biết ơn và cả những lời trách móc, tự trách mình về trách nhiệm làm chồng.

Mama River có ưu đãi quanh năm

Xem Thêm: Bộ xương người làm mấy phần, có bao nhiêu chiếc và chức năng

Có chồng hờ hững cũng đừng.

Ngay từ đầu, anh chồng đã tỏ ra quan tâm đến vợ, hiểu chuyện của vợ:

Dòng sông mẹ quanh năm buôn bán

Xem Thêm: Soạn bài Người lái đò sông Đà | Ngắn nhất Soạn văn 12

Năm đứa con một chồng nuôi nấng.

Công việc chính của nữ doanh nhân đó là chu cấp cho gia đình. Bốn mùa trong năm, không phải chỉ một ngày hai bà buôn bán hàng ngày, mà là bốn mùa năm, bốn mùa tháng, liên tục không ngừng nghỉ. Thử thách của cô tiếp tục trong nhiều năm. Mama River là không gian thương mại của cô ấy. Đó là vùng đất nhô ra bên bờ con sông chảy qua TP Nam Định, một vùng đất rất chênh vênh, không vững chắc, không ổn định, sẵn sàng đổ ập xuống sông bất cứ lúc nào. Lúc đó tôi mới thấy sự nguy hiểm của cuộc sống và những khó khăn của công việc kinh doanh. Ở đây, không gian sông mẹ đậm hơn là hình ảnh bà lão quanh năm ngược xuôi. Cô ấy là phụ nữ ngàn đời, và điều đó càng rõ ràng hơn khi bạn đến với cô ấy.

Những câu thơ sau nâng người vợ lên hàng chủ gia đình còn người chồng bị hạ xuống thành kẻ ăn bám, gánh nặng cho người vợ. Một chồng nuôi năm đứa con. Phương pháp đếm năm con trai theo chồng rất đặc biệt. Nhà thơ coi chồng như con trai con gái, nuôi chồng như kẻ gian ác nên phải ăn một miệng, ăn hai miệng. Đủ từ để mô tả mức độ giáo dục đó. Cô đã nuôi nấng anh không chỉ với thức ăn và quần áo mà còn cả rượu để anh ca hát và quần áo mới để anh vui chơi với bạn bè. Cô ấy chăm sóc mọi thứ, cô ấy nuôi nấng anh ấy và chu cấp cho anh ấy. Gánh nặng chồng con đổ dồn lên vai chị. Một người phụ nữ như chị chỉ biết khăn gói, sửa túi cho chồng, quán xuyến công việc kinh doanh của chồng mà phải bứt khỏi cuộc sống êm đềm, bước vào cuộc sống ồn ào, lo cho sáu miệng ăn. , làm công việc của chồng, đủ thấy chị đã hy sinh tất cả cho chồng con. Thấu hiểu hoàn cảnh của vợ, trân trọng những ưu điểm của vợ chứng tỏ nhà thơ rất yêu vợ sâu sắc.

Hai sự thật tiếp nối mạch cảm xúc của sự cảm thông và chia sẻ:

Bơi giữa hư không

Lên thẳng mặt nước vào những ngày đông khách

Công việc của cô ấy ở đây rất rõ ràng. Bà Tú một mình đi trên con đường dài vắng vẻ, có khi lội bì bõm lội nước, có khi lại cãi nhau chí chóe trên những chuyến đò đông đúc bên sông. Đó là công việc khó khăn của cô ấy. Lặn lội, eo hẹp thể hiện bản chất bán hàng khó tính. Thương trường là chiến trường, dễ nhường miếng ăn cho nhau, hóa ra bà Tú cũng nhiều lần đụng lời, gây nên cảnh hỗn loạn trên sông. Đoạn thơ gợi cho ta nhớ đến nơi ở của người phụ nữ xưa qua câu thơ:

Con cò bơi bên sông

Khóc chồng khi gánh lúa.

Giữa con cò già và thân cò dường như có những nét tương đồng. Hình ảnh tương phản độc đáo ấy càng làm cho tình cảnh thêm éo le. Batu có hình dáng giống con cò, gầy và cong, bước đi chậm chạp, đơn độc, luộm thuộm, luộm thuộm. Đối lập với sự lẻ loi, cô đơn của mình, với sự cô đơn trong sa mạc, với vẻ tất bật, tấp nập trên con thuyền đông đúc, nhà thơ đã để lại những cực nhọc, gian khổ để duy trì cuộc sống của chồng con. . Anh ấy hiểu điều này. Anh không thờ ơ. Đằng sau mỗi lời nói, có một trái tim. Anh ngưỡng mộ sự kiên trì của cô trong suốt một năm và khen ngợi sự tận tụy của cô đối với chồng con, nhưng trong lòng anh lại nảy sinh một loại hối hận và xấu hổ: anh tự trách mình đã không làm tròn trách nhiệm của một người chồng. Nếu phu nhân biết hắn tâm sự như vậy, gánh nặng trong lòng nhất định sẽ nhẹ đi, nhất định sẽ được an ủi, động viên.

Vất vả là vất vả, nhưng cô không hề phàn nàn một lời. Ngày qua ngày, công việc trôi qua lặng lẽ như chính cuộc sống của chị:

Số phận của hai chủ nợ

Dám làm chủ thiên hạ nắng mưa mười ngày.

Ca từ tự nhiên, đa thanh, có thể nói là lời của người ấy. Nhưng trước đây cô chưa bao giờ phàn nàn về bản thân, chấp nhận mọi thứ và giấu rất nhiều nỗi buồn trong lòng. Vì yêu vợ nên anh lên tiếng thay cô. Trong dân gian có câu, vợ chồng là do duyên phận. Tu Gufu đã đúng khi nói rằng bà Tu, cuộc đời của bà giống như một món nợ ân tình, một là nợ hai, số phận mang lại ít hạnh phúc, nhưng nợ nần mang lại nhiều vất vả, đây là số phận, vì vậy tôi phải chấp nhận nó, Dám phụ trách quần chúng, không dám nói, cho dù có muôn vàn gian nan, mưa gió, cũng không dám coi là quần chúng. Gặp phải số phận không lối thoát, câu thơ kết thúc bằng một đoạn buồn thân phận, khơi dậy thêm những cảm xúc dồn nén. Hẳn bà Tú đã nhiều lần tức giận, nhìn thấy sự bất công của thế gian, bà muốn phản kháng nhưng bà đã kìm lại và chấp nhận im lặng cho đến khi bà chịu đựng và buông xuôi. Nước mắt cô lại tuôn trào, trái tim cô căng thẳng, không muốn ai biết được nỗi lòng và nỗi đau của mình. Các con số một, hai, năm, mười và khổ thơ ngắn 2/2/3 thể hiện nỗi niềm khắc khoải, sâu nặng, trường tồn của bà gắn liền với công việc không bao giờ kết thúc. Lúc này, Tu Peng hoàn toàn chìm đắm trong lòng vợ, lắng nghe từng nỗi niềm của cô. Ẩn chứa đằng sau điều này là bao nhiêu nỗi niềm, một người chồng khiến vợ phải ngược xuôi mà không kìm được? Câu thơ thể hiện tình thương vợ và sự tự trách sâu sắc.

Hai câu cuối như một sự bộc phát mạnh mẽ, không phải là lời tỏ tình nhẹ nhàng như trước mà là một lời chửi rủa thâm độc:

Cha mẹ vẫn khỏe

Xem Thêm: Bộ xương người làm mấy phần, có bao nhiêu chiếc và chức năng

Có chồng hờ hững cũng đừng.

Tiếng chửi không phải của bà Tú, vì bà đã chấp nhận và chịu đựng nó cả đời, ông Tú muốn bà chửi cho bớt gánh nặng trong lòng, ít nhất là vì bà nghĩ ông khác các con bà. Sự kìm nén buộc anh phải dùng lời lẽ của cô để nguyền rủa chính mình. Là một người chồng ngồi ăn vạ, vô tư, hay bình phẩm, lên mặt, hết lần này đến lần khác soi mói vợ thì còn đáng làm chồng không? Anh tự trách mình kiêu ngạo, vô tâm, thờ ơ, vô trách nhiệm… Sự thờ ơ của anh khiến cô đau khổ gấp ngàn lần. Dù gánh nặng vật chất chồng chất như núi vẫn có một số chị em cố gắng hết sức lo cho chị thì chị cũng chịu được, nhưng sự thờ ơ, bị hành hạ, không được sẻ chia sẽ khiến chị suy sụp ngay. Cô ấy không cần một người chồng như vậy, có hay không. Với riêng mình, nhà thơ khái quát những hiện tượng trên là cuộc sống hàng ngày, nghĩa là phổ biến, thường xuyên xảy ra. Đây là đặc điểm của xã hội tiền đương đại mà nhà thơ đã sống. Lời khiển trách trong câu thơ nhằm làm nổi bật bản chất tội lỗi của xã hội không phân biệt tình cảm, danh, lợi, danh. Đoạn thơ kết thúc bằng hình ảnh không tưởng nhẹ nhàng đưa người đọc vào chiều sâu của những cung bậc cảm xúc chất chứa nỗi đau, sự giận dữ của người chồng và nỗi đau của người vợ.

Đoạn thơ này là tiếng nói chân thành ngợi ca, ngưỡng mộ, sẻ chia, đồng cảm trước những vất vả, cực nhọc của bà Tú cũng như sự tự trách, tủi thân của ông Tú. Nhà thơ phải yêu vợ, yêu vợ nhiều lắm thì nhà thơ mới viết được những vần thơ chân thật và cảm động đến thế. Chất trữ tình và chất trào phúng bổ sung cho nhau, đưa người đọc vào một cung bậc tình cảm rất sâu sắc, giản dị và đáng trân trọng, ẩn chứa trong lòng nhà thơ sự căm ghét những đổi thay của thế sự. Tử Gu gửi gắm thông điệp đến các ông chồng qua bài thơ: Hãy nói yêu thương và chia sẻ nhiều với vợ.

Bài văn mẫu 2

Xương Xương là một cây bút trào phúng xuất sắc của văn học trung đại. Ông thuộc tầng lớp Hậu Nho, sống giữa thời đại biến đổi, thời đại phong kiến ​​đang suy tàn, những giá trị cũ đang mai một dần mà cái mới chưa hình thành, nét đẹp truyền thống đang dần mai một. .nên thơ ông đầy u uất, chua xót. Nhưng nội dung trào phúng trong thơ ông chỉ là “chân trái”, còn “chân phải” vẫn là trữ tình. Thơ ông luôn đầy ắp những trăn trở, trăn trở về xã hội, theo nghĩa hẹp là về gia đình, về người vợ đảm đang, cực nhọc của ông. Bài thơ Thương vợ thể hiện đầy đủ chất trữ tình và trào phúng trong thơ ông.

Thơ xưa viết về vợ rất hiếm, nhất là khi vợ còn sống. Đặc biệt là Dupont, người không chỉ viết về vợ mình mà có hẳn một chủ đề riêng về bà: Đau mắt, viết về việc sống với vợ, tự vấn bản thân,  … Điều này cho thấy ông có quan điểm về tầm quan trọng của người vợ trong đời anh.

Tác giả giới thiệu khái quát hoàn cảnh của bà Tú và công lao to lớn của bà đối với gia đình trong hai câu kết:

Buôn bán quanh năm

Năm đứa con do một người chồng nuôi

Tử Tương miêu tả chính xác nghề bán gạo bên sông của mình. Công việc của cô có tính chu kỳ 24/24 và dường như không có lúc nào cô được nghỉ ngơi, cho mình thời gian. Không gian cô ấy làm việc cũng đầy nguy hiểm. Bà Tú quanh năm vất vả, chịu thương chịu khó, là trụ cột của gia đình. Cô ấy không chỉ phải nuôi con mà còn phải chăm sóc chồng. Vì vậy, một người phụ nữ phải hỗ trợ một gia đình sáu người. Trong bài thơ, Du Ben tách mình ra khỏi năm đứa con, điều đó cho thấy anh cảm thấy thân mình gánh nặng cho vợ hơn là năm đứa con. Nếu như một đứa trẻ chỉ cần đáp ứng nhu cầu ăn, mặc thì đối với trẻ, ngoài những nhu cầu cơ bản, trẻ còn cần được đáp ứng chế độ ăn uống, sở thích. Gao Shi cười nhạo chính mình.

<3 Đảo ngữ: đẩy “lặn lội” và “eo” lên đầu câu, nêu bật sự vất vả, gian nan trong cuộc mưu sinh của bà ngoại. “Tàu đông người” gợi lên những nguy hiểm của việc đi lại, buôn bán hàng ngày. Hình ảnh bà Tú qua phép ẩn dụ“thân cò”đầy bền bỉ gợi lên hình ảnh thân phận bé nhỏ, đau đớn, bơ vơ, mồ côi. Hình ảnh người bơi lội, nguyên mẫu trong văn học dân gian, nói lên sự tất bật của người lao động, đồng thời mang âm hưởng bạn. Câu thứ ba và câu thứ tư kết hợp hình ảnh ẩn dụ “thân cò” với tình từ “lặn lội” càng khắc sâu thêm nỗi vất vả của cuộc đời bà Tú.

Xem Thêm : Các hình chiếu vuông góc của hình cầu đều là?

Nhân duyên vợ chồng là do trời định, “nợ” là gánh, hai người sống tốt là duyên, cuộc sống không thuận hòa là nợ. Trong câu thơ: “Một phận hai nợ một phận/ Dám lo mười mưa năm nắng” cho thấy duyên với chồng tuy nhỏ nhưng nợ thì nhiều. . Ông Tú nhận ra mình là món nợ và gánh nặng cho cuộc đời ông Tú. Nhưng cô ấy không khúm núm mà toàn tâm toàn ý hy sinh, coi đó là điều hiển nhiên, âm thầm đòi hỏi hay phàn nàn điều gì đó từ anh. Du Bền đã dùng 6 câu thơ đầu để miêu tả vẻ đẹp, sự chịu thương chịu khó của bà Du vì gia đình một cách chân thực và đầy đủ nhất.

Hình ảnh ông Tú chỉ xuất hiện ở hai câu cuối:

Cha mẹ có một cuộc sống tốt đẹp

Có chồng không!

Tiếng mắng nghe cay nghiệt vô cùng, ném vào đời cũng là mắng chính mình. “lối sống” – những luật lệ hà khắc của chế độ phong kiến, sự phân biệt đối xử, gia trưởng, việc nhà và mưu sinh là việc của phụ nữ. Đó là một xã hội thuộc địa nửa phong kiến ​​đã nuôi dưỡng một cuộc sống lưu manh, bất công ngang ngược. Lời nguyền đó xuất phát từ tình yêu và lòng biết ơn vô bờ bến của người đàn ông dành cho vợ mình.

Tác phẩm này là văn hóa Yue của vần tám ký tự. Tử Cố đan xen hài hòa giữa trữ tình và trào phúng, trữ tình chính là mấu chốt để thể hiện lòng biết ơn sâu sắc của ông đối với vợ. Đây cũng là nét độc đáo trong thơ Tử Bành. Ngôn ngữ thơ bình dị, như ngôn ngữ đời thường. Hình ảnh thơ quen thuộc, giản dị đã tạo cho lời thơ một vẻ đẹp tự nhiên, chân chất nhưng vẫn có sức truyền cảm mạnh mẽ.

Với dung lượng của một bài thơ ngắn, Tubang đã mang đến bức tranh toàn cảnh và đầy đủ nhất, khắc họa vẻ đẹp, nhân cách của người bà như một thành viên trong gia đình, phẩm chất hi sinh cao cả. Đồng thời, đây cũng là những dòng tự mãn về sự bất lực của bản thân. Ngoài ra, bài thơ còn đạt được thành công về ngôn ngữ, hình ảnh, sự kết hợp giữa trào lộng và trữ tình.

Bài 3

“Văn học vượt qua quy luật của sự hư hỏng. Chỉ có điều nó không thừa nhận cái chết.” Thơ và Mappen văn học là một trong những ví dụ như vậy. Hơn trăm năm thân xác hòa nhập với lòng đất nhưng sự nghiệp văn chương của người tài hoa này trải qua bao năm tháng thử thách nhưng chưa bao giờ thôi lay động lòng người. Nói đến Đồ Bành, không thể không nhắc đến bài thơ trữ tình “Yêu vợ”, với nụ cười nhạt và hóm hỉnh, ông cũng bày tỏ tình yêu và sự kính trọng đối với người vợ thủy chung, luôn hy sinh trong khi cười nhạo mình. , cho gia đình cô.

Du Pont kết hôn năm 16 tuổi, vợ ông là Fan Shiwen. Cuộc đời của Du Pont là cuộc đời của một nghệ sĩ, nhưng trước hết, ông là một trí thức phong kiến ​​Nho giáo “lưng dài đắt giá” phải nương tựa vào vợ. Mọi chi tiêu trong gia đình đều do bà ngoại gánh vác. Điều đó đã đi vào câu ca dao “tiền đưa vợ” hay “đi xin lương vợ quan viên”. Trong bài thơ Thương vợ, vấn đề ấy còn được thể hiện sâu sắc qua thể thơ thất ngôn bát cú và thể thơ lục bát của Đường Lỗ.

Hai câu kết mở ra một không gian, thời gian và tác phẩm của bà Tú. Công việc khó khăn, khó khăn, khó khăn:

“Dòng sông mẹ quanh năm buôn bán

Năm đứa con một chồng nuôi”

Nghề kinh doanh theo quan niệm người xưa là con đường làm giàu “phi thương mại” đầu tiên, nhưng việc làm của bà Tú lại hoàn toàn ngược lại. Nơi để mua sắm ở đây không phải là một mảnh đất tốt, mà là ở “Mother River”. Theo cách hiểu của Huyền Đế: “Nơi nguy hiểm không phải là bến sông tấp nập”. “Dòng sông mẹ” là hiện thân của nơi làm ăn của bà Tú – nơi “đầu sóng ngọn gió”, nơi gặp biết bao hiểm nguy khi ở dưới nước, khi ở trên mặt nước, khi ở trên mặt nước. nó ở trên mặt nước. Thời gian ở đây “quanh năm” ngày này qua ngày khác. Thời gian vô tận không bao giờ ngơi nghỉ. Người vợ phải gánh vác gánh nặng chăm sóc gia đình.

Trước đây, với quan niệm “trọng nam khinh nữ”, “nam viết bạn bè, nữ viết nhiều”, những vấn đề lớn như kinh tế gia đình phải do đàn ông gánh vác, mà trách nhiệm lại nằm ở đây. Bà là người phụ nữ đảm đang, giàu nghị lực “một chồng nuôi năm con”. Ở đây đủ nuôi vài hạt cơm manh áo. Một người 7 miệng ăn lo công việc, tôi thấy người nội trợ gánh trên vai trọng trách rất lớn. Trong câu thơ này có một nghệ thuật đối xử với năm người con, nó là số nhiều nhưng được đặt ngang hàng nên đối với người chồng nó là số ít. Đủ ăn đủ mặc cho năm đứa con cũng đủ nuôi một chồng. Chúng ta biết rằng cuộc đời ông ngắn ngủi và giản dị, 37 năm, dường như cô đọng trong ba việc: đi học, thi cử và làm thơ. Năm 15 tuổi tôi đi thi, 22 năm còn lại tôi vẫn đi thi, mỗi lần vào phòng thi, tôi dựng tám lều, tiền do một bà trả.

Đóng hai câu miêu tả không gian, thời gian và công việc của chị thành hai câu thực mở hình ảnh “con cò”:

“Đi giữa hư không

Quá khó trên một con thuyền đông đúc”

Xem Thêm: “Nhân vật trong Rừng xà nu đều là những người con kiên cường bất khuất trong công cuộc chống Mĩ cứu nước.” Phân tích các nhân vật cụ Mết, Tnú, Dít để làm sáng tỏ nhận định trên

Câu thơ này gợi cho ta hình ảnh quen thuộc trong dân gian: “Con cò lội bờ sông/ nhặt gạo khóc chồng”. Hình ảnh này liên tưởng đến thân phận người phụ nữ Việt Nam sớm tối vất vả lo toan cho gia đình. Anh hàng thịt ở đây là thân phận của một con cò có thân phận, số phận cụ thể, gợi lên sự mong manh, tầm thường trước cuộc đời. Tác giả đã sử dụng phép đảo ngữ “thân cò lặn lội” để làm cho hình ảnh này cụ thể và sâu sắc hơn.

Chắc bà Tú vẫn chưa quên lời dặn của người xưa “không lội nước sâu, đò đầy không qua” nhưng vì miếng ăn, manh áo của gia đình mà bà phải đối mặt. sự nguy hiểm một cách tuyệt vọng và phải là “rơm”. “Thuyền đông người”. Hai tính từ đứng đầu và cuối câu đối nhau, gợi hình, gợi cảm. Nhà thơ dường như vô cùng cảm thông và xót thương cho hoàn cảnh của người vợ nhưng dường như nàng cũng rơi nước mắt vì cảnh đó. Hai câu này có thể coi là tinh hoa của cả bài thơ, đồng thời cũng là đoạn thơ gây xúc động nhất khi tái hiện hình ảnh người vợ trong bài thơ.

Nếu như tác giả bốn câu đầu đứng cùng quan điểm, đứng ngoài với tư cách là người chồng để “khách quan” quan sát, nhận xét và đồng cảm với bà Tú, thì bốn câu sau cụ Tứ Xương đi vào suy nghĩ của chính mình và cảm xúc.Giọng vợ “chủ quan” và chân thực hơn.

Có hai bài DuPont than thở cho tấm lòng của vợ:

“Một Đời Hai Nợ Một Đời”

Dám quản công năm mưa mười”

Từ “ming” trong tiếng Hán Việt có nghĩa là cái cớ để sản xuất ra cái gì đó. Theo quan niệm của Phật giáo, đây là phần mà Thượng đế muốn con người gặp nhau, có thể yêu thương và trở thành vợ chồng, giúp những đôi lứa yêu nhau đoàn kết trong cuộc sống. “Luyện trăm năm thành bạn, tu ngàn năm cùng ngủ” câu chuyện dân gian tạo thành một cặp duyên nợ. Trong con mắt của tu bon duyen chỉ có một món nợ mà có đến hai món nợ. Nghĩ cho kỹ, bà Tú kết hôn với ông Tú cũng là điều tốt, nhưng với người chồng “lạnh nhạt” ấy, bà lại càng mắc nợ nhiều hơn. Vì điều này, những nỗ lực của một người được nâng lên thành vận mệnh của cả cuộc đời. Vì là duyên nợ nên “có duyên”. Âu có nghĩa là chịu đựng, là chấp nhận. Thụ vì cam chịu, nên “Tùy Dương mười mưa dám quản công”. Thứ tự số từ: một, hai, năm, mười được sắp xếp tăng dần thể hiện những khó khăn chồng chất lên vai bà. Cuối mỗi câu có thêm “Ou Neng Xingming” và “Dám trị dân”, thể hiện đức tính nhẫn nhịn tất cả vì chồng con của một người vợ.

Kết thúc bài thơ, hai câu kết nâng lên thành tiếng chửi. Tử Băng lên tiếng mắng mỏ mẹ chồng vô liêm sỉ, vô dụng với vợ.

“Bố mẹ vẫn khỏe

Có một người chồng vô tâm cũng vậy”

Trước đây, mẹ chồng thường là “nỗi khiếp sợ” của các nàng dâu, bởi quan niệm phong kiến ​​về hôn nhân khiến người ta “mua” vợ cho con, coi con như người làm công không công. Cô con dâu đã hết may mắn. Chúng ta bắt gặp kiểu chửi thề nhẹ nhàng mà sâu lắng đó trong những bản ballad như: “Đồn cha mẹ hiền/ Cắn ​​miếng ăn không đứt, cắn tiền bẻ đôi” hay “Trách cha mẹ/ Tạ ơn trời bể”. Turpen không chỉ là một nhà thơ trữ tình, mà còn là một nhà trào phúng nổi tiếng. Thơ ông vừa là những lời chửi quan lại phong kiến ​​ngu dốt, vừa là những bài thơ tự hạ thấp mình. Trong đoạn thơ trên, nhà thơ mượn lời vợ để chửi mình là người chồng “hờ”, vô tích sự, không nuôi được vợ, mà ngược lại, ông còn đặt gánh nặng cuộc đời lên vai thánh nhân. Nhà thơ tự thấy mình là kẻ vô giá trị, và một cách ngưỡng mộ, tôn vinh vợ chưa từng thấy trong thơ ca trung đại: “Vuốt râu cho vừa lòng vợ, con chôn cất/ Liếc mắt nhìn đời anh em”. Hai câu kết có đặc điểm là tục tĩu nhưng vẫn có cảm giác giễu cợt, gây cười, hối hận và thương cảm cho người vợ.

Từ Xương và Nguyễn Khuyến là hai đại diện cuối cùng của văn học trung đại Việt Nam cuối thế kỷ XX, là hai nhà thơ tiêu biểu và độc đáo của dòng thơ nội tâm. Ngôn ngữ viết của ông có chất thơ cách tân, mới mẻ, theo khuynh hướng khẩu ngữ, sử dụng ngôn ngữ đời thường nhưng vẫn đảm bảo giọng điệu trữ tình, sức gợi hình gợi cảm. “Vợ Yêu” là một bài thơ tinh tế, giàu đẹp, kết hợp nhuần nhuyễn giữa ngôn ngữ dân gian và ngôn ngữ văn học, khắc họa chân dung người phụ nữ và nói lên tâm trạng, tình cảm của người vợ đối với mình. Rồi nhịp 4/3, 2/2/3 truyền thống trong thơ Đường luật làm cho lời thơ trở nên mềm mại, uyển chuyển.

Bài thơ “Vợ Yêu” của Thiền sư thể hiện tình cảm sâu sắc, chân thành của nhà thơ đối với cha mình. Trước Tử Hùng, ít nhà thơ nào làm được thơ về vợ như ông. Đoạn thơ này không chỉ thể hiện tấm lòng rộng mở yêu thương vợ của nhà thơ mà còn thể hiện tài năng, bút pháp của nhà thơ trong việc sử dụng và sáng tạo ngôn ngữ dân gian.

Bài 4

Nhắc đến thơ trào phúng, không ai có thể quên ông, một giọng thơ mạnh mẽ, đanh thép, hàm súc và hùng tráng hiếm có. lan viên từng viết: “xương thỏ cười như mảnh thủy tinh”. Nhưng Trần Tế Xương không phải là nhà thơ hiện thực như Nguyễn Tuân nói, hiện thực chỉ là “chân trái”, “chân phải” của ông là trữ tình. Tôi trân trọng và nhớ đến thơ của Tử Peng nhiều hơn, có lẽ vì người ta nghe được tiếng tim chân chất, giàu cảm xúc, trọng nhân cách, chịu nỗi đau khôn nguôi. Buồn bã, không có tiền giúp đỡ một người ăn xin, một người đồng hương cùng cảnh ngộ, ông ta chửi: “Làm cha không ai tiếc”. Mang nỗi nhục của kẻ nô lệ trí thức, ông căm thù: “Bắc có nhân tài! Ngoảnh mặt nhìn nước”…

Ngoài xã hội, trong gia đình, anh luôn bị dày vò bởi cảm giác thiếu trách nhiệm, “thương vợ”, với người chồng phải gồng gánh trụ cột gia đình, anh tự chửi mình là “đồ vô tâm”.

Đúng là xưa nay đa phần các cụ rất thương vợ thương con, nhưng do quan niệm nào đó mà các cụ thường không dám bày tỏ trực tiếp tình cảm của chồng, nhất là với vợ. Hơn nữa qua giấy trắng mực đen, qua văn chương. Ở thế kỷ XX, có hai nhà thơ Nguyễn Khuyến và Từ Bôn đã không ngần ngại bày tỏ tình yêu của một người chồng với vợ khi họ còn sống. Nhưng Yêu Vợ của Dupont là bài thơ nổi tiếng nhất về chủ đề này:

Mẹ sông có bán quanh năm

Xem Thêm: Soạn bài Người lái đò sông Đà | Ngắn nhất Soạn văn 12

Năm đứa con một chồng nuôi nấng.

Nuốt trong khoảng cách,

Xem Thêm : Chữ Kí Tên Phương, Phượng Đẹp Nhất ❤️️ 1001 Mẫu Chữ Ký

Có mặt trên mặt nước sớm vào một ngày đông đúc.

<3

Dám làm chủ thiên hạ nắng mưa mười ngày.

Cha mẹ bạc mệnh,

Xem Thêm: Bộ xương người làm mấy phần, có bao nhiêu chiếc và chức năng

Có chồng hờ hững cũng đừng.

Đoạn thơ làm nổi bật hình ảnh hai con người: người vợ cần cù, hi sinh và người chồng rất thấu hiểu, chia sẻ, yêu thương, kính trọng vợ.

Hai phần đầu mô tả sự nghiệp và trách nhiệm của cô ấy:

Mẹ sông có bán quanh năm

Xem Thêm: Soạn bài Người lái đò sông Đà | Ngắn nhất Soạn văn 12

Năm đứa con một chồng nuôi nấng.

Giao dịch, giống như bất kỳ nghề nào khác, là nghề bạn làm để kiếm sống. Người xưa cũng tin rằng đây là nghề duy nhất để làm giàu. Nhưng công việc kinh doanh của cô ấy không như vậy. Không có hàng quán, cửa hiệu, nhà hàng nhưng “công việc kinh doanh” của chị là ở “Dòng sông mẹ”. Từ “Sông Mẹ” gợi nhớ đến một mảnh đất nhô ra bên bờ sông, có thể nước xuống, nước lên, mất hút, thuyền bè qua lại, thành chợ, cũng không thành chợ. cũng có thể là thị trường. Cắt lát vào buổi sáng hoặc buổi chiều. Hai ba gánh hàng mà thương lái buôn thúng, bưng gánh thì chi phí ít, lãi nhiều nên thu nhập chắc chẳng được bao nhiêu. Tuy nhiên, để có được công việc nặng nhọc ấy, bà Tú không chỉ phải cam chịu một, hai lớp mà phải theo đuổi “quanh năm”. Từ “một năm bốn mùa” có nghĩa là một khoảng thời gian dài, 12 tháng, từ tháng Giêng đến tháng Chạp, đồng thời cũng có nghĩa là năm này qua năm khác. Công việc nặng nhọc này dường như sẽ ở lại với cô ấy đến hết đời, vì nó không khiến cô ấy tốt hơn khi nhận một công việc nhàn hạ khác hay đưa “sự nghiệp” của mình lên một tầm cao hơn.

Công việc vất vả, thu nhập ít ỏi nhưng bà ngoại phải lo miếng ăn cho cả gia đình sáu người. Và, không phải sáu mà là “vợ chồng năm con trai”, “năm con trai” là số nhiều nhưng tóm lại là chịu được, lo cho họ chỉ cần bát cơm manh áo. Còn ông chồng, là “một”, nhưng chi bằng năm người con còn lại. Đôi khi còn hơn thế nữa! Mỗi lần đi thi, tiền đổ lên lưng vợ, chưa kể khi có rượu chè, khi cao hứng thì ra đường hát trả công cho vợ… Vì vậy, có rất nhiều khoản phải chi nhưng lúc nào mẹ cũng lo lắng “có đủ không?”. Đã tháo vát thì làm sao chiều chồng được!

<3

Nuốt trong khoảng cách,

Xem Thêm : Chữ Kí Tên Phương, Phượng Đẹp Nhất ❤️️ 1001 Mẫu Chữ Ký

Có mặt trên mặt nước sớm vào một ngày đông đúc.

Câu thơ này làm liên tưởng đến hình ảnh con cò trong câu ca dao quen thuộc:

…con cò bơi bên sông

Hái cơm khóc chồng

…con cò đi kiếm ăn ban đêm

Đeo cành mềm thả xuống ao

Hình ảnh cánh chim hiền lành, chăm chỉ hái lượm, kiếm ăn lặng lẽ bên bờ ruộng, bờ sông đã trở thành biểu tượng của những người phụ nữ hết lòng vì chồng con, ít nghĩ đến bản thân.

Trong bài thơ không phải là con cò mà là thân cò. Nó không còn là một con vật cụ thể mà là một định mệnh, một số phận, một cái gì đó rất mong manh, nhỏ bé trước muôn vàn vũ điệu của cuộc đời (tội nghiệp con rùa/thân em như ruộng/thân em/thân em như hạt mưa sa…  ) . Cái đuôi quá yếu ớt, quá bị động nhưng lúc nào cũng cuộn tròn, vùng vẫy. Khi anh đi vắng, trời lại sang đông, hoàn cảnh anh thật khốn khổ. Hai tính từ đứng đối diện nhau ở đầu hai câu vừa có nghĩa bóng, vừa có tính biểu cảm. Có một người đàn bà gầy như cò hương đi một mình trên con đường lầy lội với gánh nặng trĩu trên vai. Hàng đã cất vào kho, che mưa gió, mất tiền, phải ra hàng. Cũng thân cò phải xù lông, tranh mua tranh bán, xuống tàu bắt tàu, nổi dậy bắt chợ. Đổ mồ hôi nơi đông người, rơi lệ nơi vắng người.

Nhưng trong mắt ông già cô là một tiểu thư địa phương, không một lời oán trách, ngược lại là một kiểu nhẫn nhịn vốn có của phụ nữ phương Đông.

<3

Dám làm chủ thiên hạ nắng mưa mười ngày.

Việc sử dụng khéo léo các con số, cả tăng và đảo: một, hai, năm, mười, gây khó khăn tăng dần, trong khi sức mạnh phi thường của người vợ gánh vác tất cả. Mạnh mẽ như vậy, thật đáng tiếc! Hầu hết phụ nữ đều phụ thuộc vào chồng để hạnh phúc, nhưng đối với một bà, đó chỉ là một món nợ cả đời. Những khuyết điểm khi giả làm người phàm để nói hộ vợ nhưng đồng thời cũng thấy rõ sự hy sinh của người bạn đời. Kết thúc hai câu kết cũng là một lời khẳng định được đưa ra sau những khó khăn: au phải phận / dám quản công. Thái độ rõ ràng, chấp nhận không thể tranh cãi, hành vi rõ ràng. Phụ nữ Việt là thế, bà Du Pont là thế, họ coi “nhà chồng” là việc của mình và tự nguyện gánh chịu những điều bất bình.

Chị ấy chỉ im lặng chịu đựng nên ông tôi mắng chị ấy :

Cha mẹ bạc mệnh,

Xem Thêm: Bộ xương người làm mấy phần, có bao nhiêu chiếc và chức năng

Có chồng hờ hững cũng đừng.

Lời bài hát như những từ tục tĩu. Nhưng một lời nguyền thực sự: “lối sống nuôi dạy con cái…” Không phải người vợ đau khổ, mà chính người chồng tự nguyền rủa mình. Từ “dửng dưng” nghe chua chát quá. Cô ấy đã kết hôn với một người chồng độc ác, không giúp ích được gì cho gia đình và vợ của anh ta không thể gọi điện và để vợ anh ta chăm sóc cô ấy. Đúng là có chồng mà không có chồng còn khổ hơn không có chồng. Có chút chua xót trong bài thơ dựa vào hồ Huyền Hương:

Muốn ăn xôi mà xôi nguội

Xin giấy phép lao động miễn phí.

Cơ thể này biết rõ điều này

Tôi thà ở đây lúc này còn hơn.

Tóm lại, hình ảnh nổi bật trong bài thơ là hình ảnh người phụ nữ, là hiện thân của những khó khăn, vất vả của cuộc sống, là sự hội tụ của nhiều đức tính: cần cù, dũng cảm, kiên nhẫn…quên mình. Vì cuộc sống chồng con.

Có một người tưởng chừng như không phải anh Tú nhưng đôi mắt và trái tim anh luôn ở đó. Đôi mắt của anh có thể nhìn rõ ràng, những khó khăn và khổ nạn hàng ngày, và trái tim của anh, anh có thể hiểu được sự cô đơn và đau khổ âm thầm của cô. Bài thơ “Người vợ yêu dấu” là một bản tự phê bình và tự buộc tội rất chân thành và nghiêm khắc đối với DuPont. Mỗi câu thơ như tiếng thở dài đau khổ của một người rất có trách nhiệm nhưng bất lực. Đó là tình yêu và lòng biết ơn chân thành của người chồng đối với người vợ đã chịu cực khổ vì mình.

Giới thiệu kênh youtube vietjack

Ngân hàng đề thi lớp 11 tại

khoahoc.vietjack.com

  • Hơn 75.000 câu hỏi toán trắc nghiệm có đáp án
  • Hơn 50.000 câu hỏi trắc nghiệm với 11 đáp án chi tiết
  • Gần 40.000 Câu Hỏi Đáp Án Trắc Nghiệm Vật Lý 11
  • Ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm

Nguồn: https://anhvufood.vn
Danh mục: Giáo Dục