Văn mẫu lớp 9: Phân tích bài thơ Ánh Trăng của Nguyễn Duy 2 Dàn ý & 22 bài văn mẫu lớp 9 hay nhất

Phân tích bài thơ ánh trăng

Phân tích bài thơ ánh trăng

Video Phân tích bài thơ ánh trăng

22 bài văn phân tích ánh trăng đầu tiên của nguyễn duy, kèm theo 2 dàn ý chi tiết. Như vậy, học sinh lớp 9 sẽ được giúp hình thành vốn từ vựng và hoàn thành bài học nhanh chóng. Bài viết của em rất hay, để lại ấn tượng sâu sắc trong tâm trí mọi người.

Bạn Đang Xem: Văn mẫu lớp 9: Phân tích bài thơ Ánh Trăng của Nguyễn Duy 2 Dàn ý & 22 bài văn mẫu lớp 9 hay nhất

“Đêm trăng thơ” là lời nhắc nhở về thời gian gian khổ, và cuộc đời của người lính là nỗi nhớ quê hương, thiên nhiên, đất nước. Vậy các em hãy chú ý tham khảo chi tiết bài viết này trên download.vn để học Văn 9 ngày một tốt hơn nhé.

Phân tích dàn ý bài thơ Ánh trăng

Đề cương 1

I. Lễ khai mạc

  • Giới thiệu bài “Ánh trăng” của tác giả Nguyễn Duy Hòa, và khái quát nội dung, nghệ thuật của tác phẩm
  • Câu nói nổi tiếng của nguyễn bui wii.
  • Hai. Nội dung bài đăng

    1. Tổng quan chung

    – Nguồn gốc và sự ra đời của bài thơ

    • Thơ về thiên nhiên – một trong những đề tài phổ biến trong thơ ca nói chung
    • Bài thơ lấy đề tài thiên nhiên để nói về thi nhân, con người và những chiêm nghiệm, chiêm nghiệm về cuộc đời
    • 2. Phân tích bài thơ và chứng minh cho nhận định sau:Bài thơ nói về hình ảnh ánh trăng trong mối liên hệ với cuộc sống

      – Hình ảnh ánh trăng trong nhan đề bài thơ nói lên đề tài, chủ đề của bài thơ này

      – Ánh trăng trở thành hình ảnh trung tâm của bài thơ này

      • Yue’er đã gắn bó với con người từ khi còn nhỏ và trải qua nhiều gian khổ
      • Thuở nhỏ tôi sống với ruộng đồng, với sông, sau với hồ, và khi tôi ở trong rừng, vầng trăng trở thành tri kỉ

        • Cấu trúc và biện pháp lặp “cánh đồng, sông hồ, rừng cây” từ nhỏ đến lớn, từ quê hương đến đất nước đã trở thành nhân chứng, thức tỉnh con người
      • li>

        →Sau gian khổ, cuộc sống hồn nhiên bình dị, tình yêu sâu sắc trong thế giới và “tình bạn” của mặt trăng

        – Trăng là bạn đồng hành, đồng hành cùng đau khổ, trăng hiện lên như hình bóng của tình cũ

        – Mặt Trăng được nhân cách hóa như một “người bạn tâm giao” với những tình cảm sâu nặng, tình cảm thủy chung

        “Vầng trăng trở thành tri kỷ”

        – Mối quan hệ đổi thay giữa nhà thơ và vầng trăng: tác giả vẽ nên sự tương phản giữa con người xưa và con người nay, giữa sự vắng bóng của quá khứ và sự “hiện đại” đầy đủ. đủ thực tế

        – Từ ấy, diễn tả sự thay đổi tâm trạng của con người: Con người quên trăng, quên quá khứ nên vầng trăng biết ơn giờ chỉ “như khách qua đường”. Người có đầy đủ vật chất, tiện nghi dễ quên đi những nhọc nhằn, đau đớn trong quá khứ

        – Đoạn 4 tạo bước ngoặt làm thay đổi mạch cảm xúc của nhân vật trữ tình

        • Khi điều bất ngờ xảy ra, hãy đẩy tình huống đến bước ngoặt:
        • Đột nhiên đèn vụt tắt và căn phòng tối đen như mực

          • Đây là một tình huống quen thuộc, rất thực tạo nên bước ngoặt để tác giả bộc lộ và thể hiện chủ đề tác phẩm.
          • Chiaroscuro, giữa “căn phòng tối”><"trăng tròn"
          • Người và trăng nhìn nhau, tình xưa bừng lên, như “vầng trăng” còn đợi
          • Sự xuất hiện bất ngờ của mặt trăng có sức rung động mạnh mẽ, thức tỉnh lương tâm con người
          • → Một khổ thơ quan trọng tạo nên bước ngoặt của thơ ca và là tiếng chuông thức tỉnh tình người, lương tri

            – Hình ảnh vầng trăng và dòng cảm xúc của tác giả: cảm xúc mãnh liệt của nhân vật trữ tình “ngước mặt lên / rưng rưng lệ / như ruộng là ao / như sông là rừng”

            – Chủ đề của lời thơ đứng lặng nhìn trăng, đồng thời cũng là lòng thủy chung, tình bạn đối diện với quá khứ hiện tại và sự phản bội thản nhiên

            • Trước vầng trăng biết ơn, con người dường như ý thức được lòng nhân ái: nhìn sâu vào mình, thấy lỗi lầm, thấy mình thay đổi
            • Những cuộc gặp gỡ không lời giúp mọi người nhìn lại bản thân
            • – Đoạn cuối thể hiện tư tưởng triết học sâu sắc của tác giả

              • “Vầng trăng tròn” tượng trưng cho sự chung thủy, tình yêu và sự trọn vẹn với thiên nhiên, quá khứ, cho dù con người có thay đổi, vô tâm
              • Ánh trăng được nhân hóa “âm thầm”, không oán trách, không oán trách, thể hiện tấm lòng bao dung, độ lượng của kẻ nhân từ
              • Sự im lặng khiến nhân vật trữ tình “ngỡ ngàng”, đó là sự thức tỉnh lương tâm rất đáng trân trọng
              • Câu cuối là tiếc nuối, tâm sự thành tri kỷ, thành mộng
              • → Lời cảnh tỉnh nhắc người về quá khứ, tình chung thủy

                iii. Kết thúc

                • Nguyễn Duy vận dụng nghệ thuật hình ảnh ánh trăng độc đáo. Ánh trăng gợi lại câu chuyện về một cuộc đời yêu thương và chung thủy
                • Bài thơ “Ánh trăng” còn gợi lên trong lòng ta bao suy nghĩ về lẽ sống, đạo làm người, lẽ sống nhân ái ở đời, qua những dòng thơ thiết tha, sâu sắc
                • Đề cương 2

                  I. Giới thiệu:

                  -Giới thiệu về Ánh trăng

                  Nguyễn Duy là nhà thơ nổi tiếng, người tiên phong trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Thơ anh gần gũi với cuộc sống, có nét duyên dáng ngọt ngào, giản dị và đằm thắm. Một trong những tác phẩm nổi tiếng của nguyễn duy là “Ánh trăng”, rất gần gũi và giản dị. Tác phẩm đã cho ta cảm giác chân thực và sâu sắc.

                  Hai. Văn bản:

                  – Phân tích “Ánh trăng” của Ruan Weishi

                  1. Trăng quá khứ:

                  • Tác giả gợi lại những kí ức tuổi thơ về vầng trăng: gắn bó với đồng ruộng, gắn bó với dòng sông, gắn bó với ao,…
                  • Tác giả nhớ lại thời chinh chiến ở trong rừng có trăng
                  • Cảm xúc sâu sắc
                  • Vầng trăng như người bạn thân, người tri kỷ của tác giả
                  • 2. Mặt trăng hiện tại:

                    • Bây giờ, trăng đi qua như một người xa lạ, xa lạ, không rõ ràng, trăng như người xa lạ, không biết nhau, chưa gặp một người không chung thủy, hờ hững, không thân thiết với nhau. Như cũ
                    • 3. Cảm xúc của tác giả với vầng trăng:

                      • Tác giả nhớ tháng kỉ niệm, tháng cũ với tâm trạng bùi ngùi. Tác giả cảm thấy cuộc đời thay đổi, tình cảm cũng thay đổi, cảm nhận được quá khứ tươi đẹp và kỉ niệm sâu sắc về vầng trăng
                      • Hai. Kết luận:

                        – Hãy nêu cảm nhận của em về tác phẩm Dưới ánh trăng của nguyễn duy

                        Ví dụ:

                        Hình ảnh ánh trăng trong tác phẩm là một hình ảnh rất chân thực và sâu sắc. Qua kí ức về vầng trăng của tác giả và phong cảnh hiện tại, ta thấy được hiện thực của con người, khi cuộc sống ấm no con người sẽ quên đi những đau khổ, khó khăn trong quá khứ.

                        Phân tích ngắn gọn bài thơ “Ánh trăng”

                        Nguyễn Vệ thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Thế hệ này đã trải qua biết bao gian khổ trong chiến tranh, chứng kiến ​​sự hy sinh to lớn của đồng đội, nhất là của đông đảo quần chúng nhân dân trong chiến tranh. “Ánh trăng” được Nguyễn Vĩ sáng tác vào năm 1978, tức là 3 năm sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng 1975, bày tỏ cảm xúc, suy nghĩ của mình trước một số người còn nhớ về những mất mát, hy sinh năm ấy. Có người quên quá khứ.

                        Cái hay của bài thơ này là nó kể câu chuyện về cuộc sống hàng ngày bằng những dòng giản dị và không tô điểm với những cảm xúc và suy nghĩ sâu sắc. Chuyện nhà thơ và vầng trăng là thế này: Thuở nhỏ tôi ở làng biển, thời chiến tranh ở trong rừng, trăng là người bạn tâm tình, gần gũi, thân thiết:

                        Thuở nhỏ tôi sống ở đồng ruộng, sông nước, về sau ở biển cả, trong chiến trường, vầng trăng trở thành tri kỷ

                        Trần trụi và ngây thơ như một cái cây, không bao giờ quên Enyue.

                        Khi tôi còn nhỏ, tôi sống ở một ngôi làng có trăng sáng. Vào thời điểm đó, mọi người đều ngây thơ và không có kế hoạch. Mặt trăng là một bộ phận của tự nhiên liên quan đến đời sống con người. Từng trang viết mang bao ước mơ, chứa đựng bao tâm tư, tình cảm. Trăng với người như bóng, sao cách nhau không xa.

                        Trong những năm tháng gian khổ của chiến tranh, “vầng trăng sáng thành tâm hồn” luôn bên em, soi bước hành quân, soi trong giấc ngủ. Bằng nghệ thuật nhân hóa độc đáo, trăng là người bạn chí cốt, người tri kỷ, người đồng chí cùng chia sẻ vui buồn với chiến sĩ, thi nhân.

                        Hành quân đêm khuya, trên con đường chông gai nơi tiền tuyến, đêm gác họp trong rừng lạnh, đêm ngủ say, người lính nào cũng có vầng trăng bên cạnh. Vầng trăng ở bên bạn, người đồng đội, cùng trải qua những gian khổ của cuộc đời chiến đấu, chia sẻ ngọt bùi, tình bạn, đồng cam cộng khổ; mỗi khi người lính nhớ nhà, nhớ nhà, nhớ nhà, trong niềm vui chiến thắng, lòng rạo rực, bồi hồi, và lo lắng… …

                        Vầng trăng đã cùng con người trải qua bao gian khổ, bước vào sinh tử. Vì thế, người lính vô cùng cảm động và thề “không bao giờ quên ơn trăng trối ấy”. Khi chiến tranh kết thúc và tôi trở lại cuộc sống thành phố, cuộc sống của tôi và người dân của tôi cũng thay đổi:

                        Từ khi về thành phố quen với ánh đèn cửa gương, trăng như khách lạ qua ngõ

                        Cuộc sống sung túc, viên mãn đã khác xưa rất nhiều khiến người ta quên đi những tri kỉ, những người bạn chân thành năm xưa. Bây giờ, trăng đi qua ngõ, lạnh lùng lạ lùng như khách qua đường. Trăng vẫn tròn, vẫn trung thành và trìu mến, nhưng người ta đã quên trăng, thờ ơ, lạnh lùng, thờ ơ đến mức dửng dưng. Trăng bỗng trở nên lạ, không ai nhớ, không ai biết.

                        Sự cố mất điện đã khôi phục lại rất nhiều ký ức, khiến mọi người đối mặt với hoàn cảnh giống như trong quá khứ. Sự xuất hiện của Mingyue đã đánh thức ký ức và khiến mọi người tỉnh táo nhận ra lỗi lầm của mình:

                        <3

                        Con người đối mặt với mặt trăng trong hoàn cảnh bất ngờ. Chính sự bất ngờ này làm cho con người thực sự sống với chính mình, với cội nguồn của sự sống. Những giọt lệ nơi khóe mắt vừa là cảm động vừa là sự ân hận tủi nhục, tận cùng của sự đau buồn:

                        Ngước lên thấy nước mắt như ruộng, sông, rừng.

                        ”Ngẩng đầu’ nghĩa là nhìn lại khuôn mặt của mình, thấy tội lỗi của chính mình, tôi trở thành một con người khác, một người quên đi những năm tháng gian khổ, những yêu thương, những mất mát, những hy sinh,… mà nước mắt tuôn rơi. Sự thức tỉnh và thú nhận của nhà thơ. Thực ra có thể hiểu là “nước mắt” chứ không phải là “nước mắt”, giọt nước mắt trong lòng người cảm động hơn giọt nước mắt trên mí mắt.

                        Vầng trăng tuy phẳng mà nhà thơ cũng “ngỡ ngàng”. Tâm sự không nói ra nhưng vẻ đẹp của lời tâm sự đã đánh thức nhà thơ. Khuôn mặt của người xưa có thể được nhìn thấy qua “mặt trăng”. Với người này, đó có thể là hình bóng của tuổi thơ. Với những người khác, đó có thể là hình hài của một tháng năm bình yên, hạnh phúc. Đặc biệt đối với nhà thơ, đó là gương mặt của đồng đội dưới làn đạn pháo ác liệt của năm tháng.

                        Nhà thơ “ngỡ ngàng” trước sự xuống cấp của đạo đức xã hội và lối sống, trong đó có mình: có đèn điện quên trăng, có hòa bình quên chiến tranh. Vì vậy, lời tâm sự chân thành của tác giả là lời nhắc nhở về những gian khổ đã qua, lòng biết ơn và thái độ, tình cảm đối với thiên nhiên, làng quê, quê hương.

                        Cùng với bài “Khúc ca không quên” của nhạc sĩ Fan Mingjun, bài thơ “Ánh trăng” của nhà thơ Nguyễn Vĩ nhắc nhở chúng ta về đạo lý sống “uống nước nhớ nguồn”, lòng biết ơn thủy chung – quê hương Mỹ truyền thống tươi đẹp của chúng ta . Tất nhiên, mỗi chúng ta đều có những lý do riêng để quên đi những điều thiêng liêng, xin hãy chân thành suy nghĩ và biết rằng “Đọc bài thơ này mới tỉnh ngộ. Đây chính là giá trị nhận thức mà văn chương mang lại.

                        “Ánh trăng” của Nguyễn Duy với giọng điệu tự nhiên tình cảm, hình ảnh giàu sức biểu cảm, gợi nhớ về những năm tháng gian khổ trong cuộc đời quân ngũ, gắn bó với thiên nhiên, đất nước. Đơn giản và nhẹ nhàng. Đoạn thơ này có ý nghĩa nhắc nhở, củng cố cho người đọc thái độ sống “uống nước nhớ nguồn”, trung thành với quá khứ.

                        Phân tích ánh trăng – Ví dụ 1

                        Vầng trăng luôn là đề tài muôn thuở trong giới văn học Việt Nam. Đến với cung trăng, khó ai có thể cưỡng lại vẻ đẹp của nó. Như vậy, ta đến với vầng trăng của đại thi hào dân tộc có câu “silin”; của người chính nghĩa “đầu súng trăng treo” hay của Hồ Chí Minh “một rằm ngắm trăng khuya” … Chúng ta đều đã được chiêm ngưỡng một bức tranh thơ mộng, huyền ảo và huyền bí.cảnh đêm trăng. Tuy nhiên, khi đến với “Moonlight” của Ruan Wei, chúng tôi có một ý tưởng hoàn toàn mới. Trăng ở đây là quá khứ thủy chung, bất tử; người bạn thủy chung, tri kỷ; là bài học thấm đẫm giá trị nhân văn sâu sắc.

                        Điều bao trùm cả bài thơ là một nỗi day dứt, một nỗi niềm khôn nguôi. Ngay nhan đề bài thơ cũng đủ cho ta biết chủ đề của cả bài thơ. nguyễn duy sao không phải là “nguyệt” hay “nguyệt” mà là “ánh trăng”? Bởi vì, khác với “tháng” và “trăng” là những hình ảnh cụ thể, “ánh trăng” là ánh sáng. Tia sáng ấy đã soi rọi vào những góc tối của con người, đánh thức lương tri con người, thắp sáng một thời kỳ đầy ắp những kỷ niệm đẹp đẽ và quý giá.

                        Từ lâu, trăng với em đã trở thành tri kỉ: “Trăng thương, trăng nhớ, trăng ơi”, cho đến “Ánh trăng”, quy luật ấy vẫn không thay đổi. , trăng và người, người và trăng, vẫn thế, vẫn nương tựa vào nhau. Ở hai phần đầu, tác giả đã hồi tưởng lại những kỉ niệm, cảm xúc hoài niệm trong quá khứ:

                        Bốn dòng đầu của bài thơ là những tiếng thủ thỉ, cảm nhận về “tuổi thơ” và “thời chiến”, đưa người đọc trở về quá khứ xa xăm, một quá khứ đầy kỉ niệm. , mở ra một không gian rộng lớn, rất rộng lớn. Không gian ấy là “đồng”, là “sông”, là “máng”, là cuộc sống tuy khó khăn nhưng con người và thiên nhiên lại nương tựa, gần gũi, hài hòa. Chữ “và” như nối cả vần thơ, nhưng cũng nối liền con người với thiên nhiên, vũ trụ, tháng ngày tri ân. Ở hai câu đầu, nhà thơ đã cho ta thấy một tuổi thơ vô cùng tươi đẹp, đó là những tháng ngày vui vẻ, tươi đẹp nhất được nô đùa trên cánh đồng bao la và ngắm trăng trên bãi cỏ. Trước cửa nhà, đêm đêm nghe bà kể chuyện cổ tích dưới ánh trăng. Thật là một ký ức tuổi thơ tuyệt vời! Nhà thơ Trần Đăng Khoa cũng có một tuổi thơ gắn liền với trăng sáng:

                        ”Trăng tròn soi sân ta, trăng khuya thắp đèn, trăng sáng soi sân ta”

                        Khi chiến tranh đến, ánh trăng cùng những người lính trải qua bao năm tháng gian khổ vì nước, vượt qua mọi khó khăn, mọi sự tàn phá của quân thù:

                        ”Còn trăng, trăng nước này lên trên lửa”

                        Ở đây, mặt trăng và bạn vẫn là hai người bạn tốt nương tựa vào nhau và “kết bạn tri kỷ”. “Tình bạn” ấy cũng giống như “người quen đêm lạnh” của những người công chính. Tất cả chỉ là chia sẻ, thấu hiểu và hiểu nhau sâu sắc. Người bạn sẻ chia mọi vui buồn, Trăng đồng cam cộng khổ, xoa dịu nỗi đau mất mát chiến tranh bằng ánh sáng dịu mát, thân thương. Vì vậy, những tháng ngày tuổi thơ, những năm tháng đấu tranh đã trở thành kỉ niệm chan hòa, ân nghĩa với nhân vật trữ tình.

                        ”Trần trụi với thiên nhiên, hồn nhiên như cây cỏ, tưởng chừng không bao giờ quên tháng tri ân. ”

                        Với nghệ thuật liên tưởng “trần trụi với thiên nhiên” và hình ảnh ẩn dụ độc đáo “ngây thơ như ngọn cỏ” đã để lại cho người đọc ấn tượng về ánh trăng năm xưa. Trăng và người sống chân thật với nhau không chút giả tạo, dối trá. Trăng trong trẻo, vô tư như tuổi thơ, chân chất như nhiệt huyết sôi sục của những người lính trẻ. Vì vậy, nhân vật trữ tình cam đoan:

                        ”Không bao giờ quên tháng tri ân’

                        Giọng điệu của bài thơ này có vẻ đều đặn nhưng chỉ có một chữ “nghĩ” dường như báo trước một sự thay đổi trong tâm sự của nhà thơ. “Tưởng” đó là viết tắt của trí tưởng tượng, một lời khẳng định chắc nịch. Tuy nhiên, từ “nghĩ” cũng là một bước chuyển của trạng thái tâm hồn và thái độ của nhà thơ.

                        Rồi chiến tranh qua đi, đất nước ngày càng giàu đẹp, cuộc sống ngày càng khấm khá. Bao giờ cũng vậy, hoàn cảnh cuộc sống luôn thay đổi, và lòng người dễ thay đổi. Phần tiếp theo đưa người đọc trở lại hiện tại, nơi mối quan hệ giữa các nhân vật trữ tình và Yuelao đã thay đổi:

                        ”Từ khi về thành phố quen ánh đèn cửa gương, ngõ vắng như người dưng trăng qua’

                        Từ chỗ sống hài hòa với thiên nhiên, giờ đây cuộc sống của người dân trở nên chật hẹp. Không gian núi rừng bao la, hoang sơ đã được thay thế bằng không gian phố xá hiện đại hào nhoáng. Và hình ảnh vầng trăng – người bạn luôn sát cánh bên nhân loại – cũng bị thu nhỏ lại. Không có người ở bên, nó chỉ biết chui rúc trong những ngõ tối. Tầm quan trọng của mặt trăng không còn như trước. Ngày qua ngày, vầng trăng vẫn hiện hữu trong cuộc sống của con người, và nó vẫn đồng hành cùng con người, dù ở đâu, dù ở đâu, dù thời gian, không gian, dù khó khăn, trở ngại. Trăng vẫn thế, vẫn tròn, chung thủy, bất biến nhưng con người đã thay đổi. Không biết xấu hổ, vô tình leo lên người, lén lút, không thể nhận ra. Từ “tháng tâm sự”, “tháng tri ân” bỗng trở thành “khách qua đường”. “Không ổn rồi. Chỉ hình ảnh so sánh giữa “Trăng” và “Người qua đường” thôi cũng đủ cho thấy sự thờ ơ, nhẫn tâm của con người đối với bạn mình ngày xưa. Chỉ một chữ “ngoại nhân” thôi mà sao đau lòng đến thế!

                        Nhưng “sông có sông, người có lúc” không phải chuyện nào cũng thuận buồm xuôi gió. Phải có thay đổi, và những bất ngờ đó là cuộc sống. Và ở đây, chúng ta cũng sẽ bắt gặp những tình huống bất ngờ làm thay đổi tâm trạng của nhân vật trữ tình:

                        ”Bỗng đèn tắt trong nhà tối om, trăng tròn ngoài cửa sổ”

                        Vào cái khoảnh khắc bất ngờ từ tối đến sáng ấy, nhân vật trữ tình không khỏi ngạc nhiên và thích thú khi thấy rằng ánh trăng vẫn tròn, vẫn đẹp, tròn đầy và nguyên vẹn. Chính thời điểm đó đã tạo nên bước ngoặt tình cảm của nhân vật trữ tình.

                        Vầng trăng xưa chợt về, nhân vật trữ tình cho ta cảm giác mạnh mẽ như quay ngược về quá khứ, bao kỉ niệm xưa ùa về một lúc:

                        ”Ngước lên nước mắt như ruộng, hồ như sông, rừng’

                        Nhà thơ lặng lẽ đối mặt với trăng không nói một lời, với một cử chỉ ngoan đạo: “Ngước mặt lên nhìn”. Nếu như đối lập với Hồ Chí Minh là sự say đắm trước vẻ đẹp của đêm trăng, niềm khao khát mãnh liệt được chạm vào trăng, sự đắm chìm trong trăng, với thiên nhiên:

                        ”Người nhìn trăng sáng ngoài cửa sổ, trăng sáng nhìn thi nhân qua cửa sổ”

                        Thế thì ở nguyễn duy, đối diện là đối diện với quá khứ, với những lời giãi bày, day dứt với những tri kỷ đã qua. Lúc này, có người chống lại mặt trăng, cũng như cổ đại và hiện đại, những người trung thành với những người không biết và sử dụng mọi cách. Nhìn trăng, nhìn nhân vật trữ tình, nhìn bản thân quá khứ trong “tuổi thơ” và “thời chiến”. Để rồi nhân vật trữ tình cũng nhận ra giá trị và vẻ đẹp của vầng trăng – người bạn cũ của mình:

                        ”Trăng luôn tròn, dù ai vô tình ngăn trăng cũng đủ làm ta sợ”

                        Sau khung cửa, vầng trăng hiện ra “tròn vành vạnh” không đổi thay. Trăng ít nói nhưng nhân hậu, bao dung, không thù dai, không oán trách những người bạn đã phản bội mình. Tuy nhiên, chính sự im lặng nghiêm khắc, thanh cao ấy lại khiến người ta bừng tỉnh. Sự chấn động của lương tâm con người thật đáng khâm phục. Nó thể hiện những suy nghĩ, trăn trở, đấu tranh với chính mình để sống tốt hơn, tìm lại vẻ đẹp trong tâm hồn. “Sốc” để không rơi vào quên lãng, để không đánh mất quá khứ và đánh mất bạn tốt. Ánh trăng êm ả thức tỉnh con người, đó là sự thức tỉnh của nhân cách và sự trở về với lương tâm trong sạch. Dòng cuối bài thơ, thêm nhiều tâm sự, lời ăn năn, đầy day dứt, hệt như khổ thơ cuối bài thơ “Cố nhân”: “Hồn bây giờ ở đâu?”

                        Khi nói về thơ của Nguyễn Ngụy, có người nhận xét: “Thơ Nguyễn Ngụy sâu sắc, tha thiết, chứa đựng hồn cốt của dân ca Việt Nam. Thơ ông không cố tìm hình thức mới mà đào sâu vào nghĩa, tình muôn thuở của người Việt Nam. Ngôn ngữ thơ của nguyễn duy không hoa mỹ nhưng gần gũi, giản dị, đôi chỗ hơi “bụi đời”, phù hợp với ngôn ngữ đời thường. đúng rồi! Qua bài “Ánh trăng” ta thấy được tài năng sáng tạo thơ ca của Nguyễn Duy. Đặc biệt, chỉ có một điểm duy nhất trong toàn bộ bài thơ “Ánh trăng” gợi cho chúng ta rằng câu thơ hồi tưởng của Nguyễn Duy là một dòng nước xiết chảy mãi không ngừng. Không chỉ vậy, cả bài thơ còn lay động lòng người bằng những cách thể hiện giản dị như thủ thỉ, thủ thỉ, nhắc nhở chân thành, lời thơ sâu lắng, thơ tứ tuyệt mới lạ. Bằng cách này, Ruan Wei cũng muốn gửi gắm đến mọi người lời nhắc nhở về đạo lý sống ngàn đời của một dân tộc là “nhân nghĩa”; ”tục ngữ uống nước nhớ nguồn”; chúng ta hãy sống có nhau, đừng thay đổi tâm trí của chúng tôi và quên gốc rễ của chúng tôi.

                        Từ một câu chuyện, bài thơ gợi lên thái độ, tình cảm về những năm tháng gian khổ mà hào hùng, lòng biết ơn thiên nhiên, đất nước bình dị. “Ánh trăng” mang một ý nghĩa sâu sắc, không chỉ là lời nhắn gửi đến những người chiến sĩ chống Mỹ, mà cho tất cả mọi người, trong đó có chúng ta.

                        Phân tích ánh trăng – Ví dụ 2

                        “Văn học hiện thực dù viết ở thời đại nào cũng có thể góp phần gợi mở, định vị những giá trị sống cho con người hôm nay”. Ánh trăng” còn là một tác phẩm văn học đích thực gửi gắm bài học quý giá cho người đọc. Giá Trị Vượt Thời Gian – Bài Học Về Ân Điển Và Lối Sống Chung Thủy.

                        Tác phẩm “Ánh trăng” được Nguyễn Việt sáng tác năm 1978, khoảng ba năm sau ngày đất nước giải phóng. Thoát khỏi cuộc sống lao động vất vả, được sống an nhàn, người ta dễ quên đi quá khứ gian khó, quên đi tình yêu đã từng có. Vì vậy, nguyễn duy viết bài thơ này để tự nhắc mình và mọi người,

                        Ngay từ đầu tác phẩm, tác giả đã đưa người đọc trở về những ngày xưa khó quên:

                        “Thuở nhỏ sống trên đồng ruộng, sông nước, sau này cùng chiến trận trong rừng, vầng trăng trở thành tri kỷ”

                        Sự xuất hiện của các hình ảnh như “đồng”, “sông”, “chìm”, “rừng” gợi cho ta không gian bao la, vô biên. Không gian ấy mỗi lúc một mở rộng ra trước mắt chúng ta. Cùng với sự lớn lên và trưởng thành của nhân vật trữ tình. Anh từng là một đứa trẻ hồn nhiên vui đùa trên cánh đồng, dòng sông quê hương, nay đã trở thành một người lính trưởng thành chiến đấu trong những trận chiến cam go. Đi theo người lính như hình với bóng, “trăng sáng nhập hồn”, luôn đồng hành cùng người lính và chia ngọt sẻ bùi suốt đêm dài chiến trận. Đây cũng là lý do người cựu chiến binh từng khẳng định:

                        “Ghi nhớ tháng tri ân”

                        “Si” có nghĩa là nghĩ, tin, suy nghĩ. Nói câu này chứng tỏ người lính luôn tin rằng tình cảm giữa anh và trăng sẽ mãi bền chặt, không thể tách rời. Tuy nhiên, nghĩ rằng bạn sẽ không bao giờ quên nghĩa là bạn đã có lúc quên. Trong lời thơ có chút ngậm ngùi, thương tiếc của sự gắn bó tưởng như chưa bao giờ thay đổi, vậy mà nay đã thay đổi. Dòng hồi tưởng quá khứ đã qua cũng mở ra một khúc quanh mới, trở thành bước đệm để thể hiện thơ ca.

                        Sau chiến tranh, những người lính rời xa núi rừng khắc nghiệt, trở về với cuộc sống phố xá hiện đại xa hoa, hào nhoáng của “đèn điện”, “cửa gương”. Cuộc sống ấy hoàn toàn trái ngược với sự gian khổ, thiếu thốn của những người lính trước đây. Nhưng sự thay đổi về điều kiện sống này dẫn đến một sự thay đổi khác—sự thay đổi trong lòng người:

                        “Trăng qua ngõ như khách lạ”

                        “Người lạ” là người lạ không quen biết, đau hơn người lạ từng là tri kỷ. Chỉ khi đó chúng ta mới biết đời sống vật chất mạnh mẽ như thế nào. Nó có thể thay đổi lương tâm của nhân loại. Quên trăng nghĩa là người lính quên đi mối tình gian nan một thời, quên mất nước hy sinh, quên mình với lý tưởng cao đẹp của tuổi trẻ. Tuy nhiên, một tình huống đã xảy ra:

                        “Thình lình đèn trong nhà tắt – trời tối, và đột nhiên một vầng trăng tròn xuyên qua cửa sổ”

                        Đảo từ “bỗng” ở đầu câu để nhấn mạnh thái độ ngỡ ngàng, ngỡ ngàng của những người lính khi trời thành gặp trăng rằm. Thái độ ấy cũng bởi vì từ lâu người lính đã quên trăng, coi trăng như người dưng, nhưng trăng vẫn hiện hữu, vẫn trung thành với con người như trong gian khó. Vừa nhìn thấy “ông cụ”, người lính đã làm động tác “ngẩng đầu lên”. Tác giả không viết “Ngẩng đầu nhìn trăng” vì ông thực sự coi trăng như một người không thể ngờ tới. Lúc đó trong lòng nhà thơ nhiều cảm xúc “rung động”, muốn nói mà không nói ra được. Lại lần nữa những hình ảnh “đồng”, “sông”, “rừng”, “bể nước” mở ra những kỉ niệm tình yêu đã qua. Vầng trăng hiện lên như biểu tượng cho vẻ đẹp vĩnh hằng của thiên nhiên, của làng quê; của một quá khứ đa cảm; của một chàng trai trẻ với nhiều lý tưởng sống tốt đẹp hơn.

                        Câu thơ cuối cô đọng nỗi nhớ trăng của người chiến sĩ:

                        “Trăng cứ quay mãi, trăng lặng đến đâu cũng đủ khiến ta há hốc mồm.”

                        Cấu trúc “cứ… kể đi…” gợi liên tưởng đến trạng thái tương phản của người và trăng. Ngay cả khi con người phản bội và lãng quên, vầng trăng vẫn luôn thủy chung và nguyên vẹn. Nghệ thuật nhân văn giúp nhấn mạnh vẻ đẹp vượt thời gian của thiên nhiên đất nước. Lúc gặp nhau, trăng không mắng mà “im thin thít”. Phép nhân hóa gợi cho ta hình ảnh một vị quan xét xử hào hùng nhưng vô cùng nghiêm khắc, thật bất ngờ. “Sự ngạc nhiên” ở đây là sự ngạc nhiên đầy ý nghĩa. Người lính “giật mình” vì nhận ra lỗi lầm của mình là vô tình và đáng phải nhận. “Bất ngờ” cũng bởi sự thú nhận, tự trách, xấu hổ cách đây một tháng, tình yêu vẫn còn, và tự nhận thức cần phải thay đổi cách sống. Với những khoảnh khắc như vậy, người ta sống trong sáng hơn, trung thực hơn và tốt đẹp hơn. Bài thơ dần nói lên một triết lý nhân sinh sâu sắc. Nó nhắc nhở chúng ta về những đạo lý sống ngàn xưa của dân tộc ta – lối sống ân nghĩa, thủy chung, uống nước nhớ nguồn. Chúng ta không thể nào quên những mất mát, hy sinh của các bậc tiền nhân, những người đã đổ mồ hôi xương máu để chúng ta có cuộc sống hòa bình, độc lập hôm nay. Vì vậy, tất cả mọi người, đặc biệt là thế hệ trẻ phải biết sống có trách nhiệm, sống đúng với những gì mình đáng được hưởng.

                        Bài thơ được viết theo thể thơ năm chữ, viết hoa chữ đầu mỗi khổ, để cảm xúc tuôn trào tự nhiên, khiến bài thơ như một câu chuyện kể theo trình tự thời gian, trải dài từ quá khứ đến hiện tại. Tác giả xây dựng hình ảnh trăng mang tính biểu tượng, giúp nhà thơ gửi gắm đến người đọc một thông điệp sâu sắc. Bài thơ này không chỉ là câu chuyện của riêng tác giả mà còn là câu chuyện của bao thế hệ đã trải qua chiến tranh, gian khổ và những năm tháng yêu thương.

                        Sau bao năm tiếng súng, người ta sống trong thời thanh bình, dễ quên đi quá khứ. Đây là lý do tại sao “Ánh trăng” của Ruan Wei có giá trị vĩnh cửu. Nó dẫn đến một cuộc sống biết ơn và trung thành, không chỉ cho thế hệ đó, mà còn cho hiện tại và tương lai.

                        Phân tích bài thơ “Ánh trăng” – Văn mẫu 3

                        Nhà thơ Nguyễn Đình Thi từng nhận xét “tác phẩm không chỉ là sự kết tinh tâm hồn của người sáng tạo, mà còn là sợi tơ chuyển tải cuộc đời mang trong trái tim người nghệ sĩ”. Với bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Việt Nam, câu nói này càng trở nên đúng hơn bao giờ hết. Trải qua những cảm xúc sóng gió, chúng tôi cảm nhận được những nét vẽ sâu sắc và những nhịp đập tinh tế của trái tim, trước những thay đổi nhỏ nhất, với tấm lòng biết ơn, chúng tôi truyền lại những nguyên tắc sống và lối sống viên mãn cho mọi người.

                        Ruan Wei, sinh năm 1948, thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong thời kháng chiến chống Nhật. Thơ ông thường sâu sắc về nội tâm, với những trăn trở đau đớn và những suy tư sáng suốt. Ta hãy hướng về vầng trăng triết lí, ngồi nhớ mẹ dịu dàng, trìu mến, tình gia đình, hơi ấm ổ rơm,… ta sẽ cảm nhận được những trăn trở, day dứt, ấm áp nhất trong tác phẩm của ông.

                        Trong sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Duy, tràn ngập “ánh trăng” tỏa sáng. Ánh trăng ấy là một lời thức tỉnh nhẹ nhàng mà sâu sắc về một triết lý sống, một suy ngẫm về lý do của lòng trung thành, về tình yêu, về cuộc sống hiện đại đầy cám dỗ, lãng quên và vô tâm.

                        Hai câu đầu gợi những kỉ niệm đẹp, những ân tình ngày xưa. Bốn dòng mềm mại như thủ thỉ, gửi gắm kể về một thời tuổi thơ, tuổi trẻ, đặc biệt là những năm tháng gian khổ của chiến tranh. Thơ giản dị và không phô trương: “thời thơ ấu”, “trong khói lửa chiến tranh”. Những câu thơ mở ra một không gian bao la sông nước, khoảng trời ấy nuôi dưỡng một đứa trẻ đa tình hồn nhiên, không gian ấy đóng mở thật chặt, hoài niệm về quá khứ. Điệp từ “với” được lặp lại ba lần nhấn mạnh sự gần gũi, thân thiết của con người với thiên nhiên:

                        Thuở nhỏ tôi sống với ruộng đồng, với sông, sau với hồ, và khi tôi ở trong rừng, vầng trăng trở thành tri kỉ

                        Cuộc sống “thời thơ ấu” và “thời chiến” gian nan, vất vả nhưng chan hòa với thiên nhiên. Cuộc sống ấy bình dị, vô tư như thiên nhiên, như rừng cây trên mặt hồ. Tôi chợt nhận ra mình có một người bạn “tâm giao” dịu dàng và gắn bó – trăng tròn, dịu dàng. Vẻ đẹp của trăng đã hàn gắn những vết thương chiến tranh, hàn gắn những mệt mỏi, đau thương của kiếp người ấy, trăng an ủi con người bằng sự sẻ chia thầm lặng, cùng “đầu súng trăng treo” sát cánh cùng màn đêm. Mặt trăng dõi theo từng bước của chúng tôi và là đối tác đáng tin cậy nhất. Vì thế, vầng trăng là hiện thân của quá khứ, của kỉ niệm yêu thương:

                        Thiên nhiên hồn nhiên trần trụi, thực vật không bao giờ quên ơn trăng, trăng đã được nhân hóa cao độ, trở thành người bạn tinh thần, tình cảm của nhà thơ. Không bao giờ quên. Tuy nhiên, giữa những kỉ niệm đẹp đẽ, êm đềm, tác giả bỗng nảy sinh những nghi ngờ, vướng mắc và hoang mang, điều này cho thấy một sự thay đổi trong câu chuyện đã xuất hiện. Từ “Nghĩ” như một nét nối tinh tế giữa hai câu thơ, giúp bài thơ uyển chuyển cả về nội dung lẫn hình thức.

                        Với một kết thúc đẹp như mơ, tác giả đưa ta về hiện tại, nơi lòng người đã đổi thay và có một nơi xa xăm. Sau chiến tranh, người lính trở về với nhịp sống hối hả. Tác giả nhận ra một quy luật đáng buồn của cuộc sống: khi được sống trong nhung lụa êm ấm, con người rất dễ quay lưng lại với những quá khứ gian khó, đáng thương ấy, dù đó là những quá khứ mộng mơ, đẹp đẽ và đáng quý. Quy tắc này do mọi người quên và thay đổi quá nhanh:

                        Từ khi về thành phố, tôi đã quen với ánh đèn cửa gương, ánh trăng soi ngõ, như kẻ lạ trên phố

                        “Đèn điện, cửa gương” là hình ảnh ẩn dụ cho một cuộc sống hiện đại, tiện nghi và gần gũi với thiên nhiên. Từ những thay đổi của hoàn cảnh sống, lòng người cũng dần thay đổi mà khó nhận ra, hoặc rõ ràng là quên nhưng lại cố tình quên. Trăng đã từ người bạn thân biến thành “người qua đường”. Trăng luôn trung thành “đi qua ngõ”, như đợi bạn cũ nhận ra, nhưng bạn cũ giờ đã quen với ánh sáng của ngọn đèn điện giả vàng, khép mình trong bốn bức tường bê tông. Những tông màu nề nếp và chật chội, nhưng nghĩ rằng cuộc sống đã hạnh phúc hơn trước. Người ta để lớp xi măng nhẵn nhụi cuốn đi những rung động, cảm xúc vi tế trong lòng, thậm chí bịt kín những khe ánh sáng huyền ảo từ quá khứ. Sống như vậy, phải chăng chúng ta đang đánh đổi sự giàu có của tâm hồn mình để lấy những tiện nghi hiện đại phù phiếm, và hạnh phúc đích thực luôn có một trái tim yêu thương!

                        Nếu không có sự thay đổi đột ngột: thành phố mất đà, có lẽ sự lãng quên này đã tồn tại mãi mãi. Hoàn cảnh ra đời của bài thơ chính là điểm ngoặt tạo nên cảm xúc trào dâng giúp nhà thơ nói lên được tình cảm, tư tưởng, chủ đề của tác phẩm.

                        <3

                        Tình huống này có vẻ không mới và lạ, nhất là trong những ngày đầu giải phóng như bài thơ này được viết năm 1978, nhưng trong hoàn cảnh của tác giả, nó lại làm nổi bật sự đối lập, tương phản của ánh sáng và bóng tối. Những từ láy như “chợt”, “vội vàng”, “dội lên” tạo nên nhịp thơ nhanh, mạnh để rồi mọi vật như dừng lại, lặng đi bởi “bỗng” vầng trăng rằm lấp lánh. Đó cũng là lúc ý nghĩa cao đẹp của cả bài được tô đậm: trong khi con người cảm nhận vẻ đẹp của thiên nhiên thì con người lại vội vã với cuộc sống hiện đại, và cuộc sống bị nó làm cho sửng sốt, kinh ngạc. Đã có “đèn điện” sáng choang, người ta chẳng cần đến ánh trăng huyền ảo mờ ảo nữa, chỉ khi ánh sáng nhân tạo biến mất, người ta mới chợt nhận ra những người bạn năm xưa từng thề non hẹn biển vẫn còn bàng hoàng trước ánh trăng rằm. Bạn bè, nguyên vẹn, luôn chung thủy chờ đợi. Trong khoảnh khắc người và trăng gặp nhau, tình cũ của tình cũ được thăng hoa. Cuộc hội ngộ bất ngờ gây chấn động mạnh và đánh thức lương tâm con người; “bỗng” không phải ở giữa trăng mà ở chính tâm trạng của tác giả – sự thay đổi của lòng người và trạng thái bâng khuâng, ngỡ ngàng khi trăng tròn vành vạnh, từ nào để đau khổ, suy nghĩ.

                        Nếu khổ thơ thứ tư đẩy cảnh thơ lên ​​cao trào thì khổ thơ thứ năm lại “khóc” trong niềm xúc động mạnh mẽ của nhà thơ.

                        Ngước lên thấy nước mắt như ruộng, sông, rừng

                        Nhà thơ đối mặt với trăng bằng một sự im lặng thành kính, chữ “mặt” cuối câu thơ là một từ láy, tạo nên ý thơ và ngụ ý cho người đọc biết nhà thơ đối mặt với trăng hay thiên nhiên đối mặt với con người ; Đối mặt với hiện tại của quá khứ, vô tình thờ ơ với lòng trung thành và sự gắn bó. Chợt gặp lại người bạn cũ, nhà thơ chợt nhận ra rằng mặt nạ thời gian đã che lấp tất cả, lúc ấy nhà thơ như “khóc” cảm xúc – tủi thân cho những đổi thay vô bờ bến. Đan xen với nỗi tủi hổ ấy, một niềm vui đến nghẹt thở lặng lẽ tràn vào trái tim mỏi mệt bấy lâu nay của nhà thơ, gặp lại trăng sáng – gặp lại bạn cũ, chợt nhớ về một thời có ruộng, có ao, có sông, có rừng. . Cuộc sống lúc này dường như đã ngừng nhường chỗ cho dòng thương nhớ, nhường chỗ cho những suy tư của bản thân. Bài thơ bao hàm quá khứ và hiện tại, thiên nhiên và con người, lao động và chiến đấu, trung thành và tàn nhẫn. Vầng trăng cũng gợi lên hình ảnh thiên nhiên hiện tại vừa tráng lệ vừa mộng mơ, một sự bừng tỉnh bất ngờ và một niềm khát khao mãnh liệt về tương lai. Nhịp thơ trong sáng, hàng loạt điệp từ “đồng”, “biển”, “rừng”, “sông” quấn quanh mạch cảm xúc của cả bài thơ khiến người đọc cũng có cảm xúc như nhân vật. , nguyên vẹn. bài thơ. Cảnh trữ tình.

                        Xem Thêm: Cách Sử Dụng Của either và neither

                        Trong hồi tưởng và thao thức, nhà thơ đã đi đến một suy tư và triết lý sống sâu sắc, tóm tắt nội dung của cả bài thơ:

                        Trăng luôn tròn, dù ai không cẩn thận, ánh trăng lặng lẽ đến đáng sợ

                        Gặp nhau bất ngờ, trăng và người như đối lập. Vầng trăng đã trở thành biểu tượng của sự trường tồn, và sự “không ngừng quay đi quay lại” của trăng tượng trưng cho sự viên mãn, viên mãn của tình yêu thiên nhiên, cuộc sống, con người xưa dù con người nay có đổi thay, chứ không phải “vô tình”. Ánh trăng là “khoảng lặng” được nhân hóa, hàm ý thể hiện sự bao dung, độ lượng và nghiêm khắc của một người bạn trung thành. Thơ lấy từ hiện thực—bản chất vĩnh hằng bất biến—để gói gọn lối sống cao thượng, lòng biết ơn, sự viên mãn, lòng trung thành và vị tha. Tấm lòng đáng kính đó là tấm lòng đồng chí của những người đã từng “cùng củ sắn/cơm manh manh áo/bát cơm manh áo”, những người đã từng sống chết nương tựa vào nhau. Tình yêu lớn lao trên đời mới bao la, bao dung, độ lượng, vị tha, chỉ khi bạn bè vô tình “tỉnh giấc”, mới có cơ hội nắm bắt quá khứ, giữ vững tấm lòng trong sáng.

                        Có lẽ vì thế mà một cái nhìn “lặng lẽ” cũng đủ để câu cuối nghẹn ngào, vang vọng trong lòng người đọc, đánh thức bao suy nghĩ.

                        “Ánh trăng” gợi nhiều cảm xúc với cách thể hiện giản dị, cảm xúc thầm thì, giọng thơ đều đều. Bài thơ không chỉ như một truyện ngắn mà còn như một bài thơ nghị luận xã hội. Trình tự kể, lập luận chặt chẽ. Nó giúp cho thơ dễ dàng, tự nhiên thấm vào lòng người đọc, thấm nhuần những triết lý nhân sinh cao cả, thủy chung, nghĩa tình, đồng thời thể hiện sự quan tâm, trăn trở đối với hiện thực. tại:

                        Khi tôi đến một thành phố xa xôi, tôi có còn nhớ những ngọn núi, những ngôi làng rực rỡ ánh đèn trên Phố Đông và Lin Zhongyue

                        Chất tự sự và trữ tình đan xen trong từng giai điệu, từng dòng thơ. Chữ đầu bài thơ không viết hoa thể hiện niềm xúc động mãnh liệt của tác giả. Thơ có lúc ngân nga, ngân vang, nhịp điệu âm vang, có lúc gấp gáp, mạnh mẽ, có lúc trầm lắng, trầm tư khiến tác phẩm trôi chảy, uyển chuyển, tự nhiên, nhịp nhàng trong cảm xúc dâng trào.

                        Câu chuyện của nhà thơ không chỉ viết cho riêng mình mà còn có sức phổ quát lớn cho cả một thế hệ đã từng trải qua những năm tháng chiến tranh dài đằng đẵng, mưa bom bão đạn, gian khổ. Chuyện trăng còn gặp nhiều chuyện khác nữa – với nỗi buồn lo đổi đời, như chuyện ăn mày ba sương và hai anh hùng Chu Lai, như Việt Nướng với “tôi” và “tôi” thầy. Họ như đồng lòng chung tay gióng lên hồi chuông lớn đến độc giả: đừng lãng quên quá khứ, đừng lãng phí cuộc đời. Dù thế giới có đổi thay, lòng người có khác, nhưng chúng ta cũng không được quên lòng trung nghĩa của dân tộc “uống nước nhớ nguồn”, không bao giờ đánh đổi tình cảm lấy hư danh.

                        Phân tích bài thơ “Ánh trăng” – Văn mẫu 4

                        Cuộc sống là một chuỗi những thăng trầm và biến đổi mà con người không thể nào đoán trước được. Đôi khi chúng ta bị cuốn vào dòng chảy bất tận của nó và nhanh chóng quên đi những giá trị và lòng trung thành của những quá khứ không quá xa phía sau chúng ta. Sau cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ vĩ đại của dân tộc – cuộc chiến tranh đổ máu và nước mắt vì sự thống nhất của Tổ quốc, ghi dấu biết bao chiến công anh dũng, biết bao tấm gương hy sinh anh dũng, chúng ta không khỏi bùi ngùi chứng kiến ​​những điều tưởng chừng như không thể nào quên. trước những năm tháng, sự thờ ơ, vô cảm của người dân. Văn học đương thời đã nhận thức rõ điều này. Nhiều tác phẩm đã gióng lên hồi chuông cảnh báo đầy bất ngờ và thấm thía cho một xã hội không lo cơm ăn áo mặc này. Bài thơ “Ánh trăng” của Ruan Wei là một trong số đó.

                        Tác giả đặt tên cho bài thơ là “Ánh trăng”. Thật vậy, toàn bộ tác phẩm là hình ảnh của ánh trăng – vầng trăng quê hương, rừng vàng, biển bạc. Vẻ đẹp hoang sơ, huyền ảo của vầng trăng đồng hành cùng những năm tháng gian khổ của tác giả từ thuở ấu thơ đến tâm hồn con người. Cao hơn, người và trăng trở thành bạn tâm giao. Sợi dây kết nối mối quan hệ này bền chặt và bị uốn cong qua biết bao biến thiên của thời gian khiến nhà thơ phải thốt lên:

                        Tưởng sẽ không bao giờ quên vầng trăng tình yêu

                        Nhưng cuộc sống không phải là sự kéo dài tuyến tính của ngày hôm nay và không phải lúc nào nó cũng theo mong đợi của con người. Những gì ta nâng niu, trân trọng ngày hôm qua bao nhiêu thì hôm nay có thể trở nên thừa thãi, vô nghĩa, xa lạ, lạnh lùng… bấy nhiêu. Quá khứ dù tốt đẹp đến đâu cũng là quá khứ và nó có thể bị lu mờ bởi những lo toan, kế hoạch và bao ước vọng, ước mơ của đời thường. Ở đây, tác giả kể câu chuyện đau lòng về một vầng trăng bị lãng quên bị “ánh sáng gương soi” lấn át. Trong tâm thức người dân, trăng ngày ấy không ở đâu xa, nhưng buồn thay, giờ đây như “người qua đường, lối đi”. Sự ngu ngốc vốn quen thuộc nay trở nên im lặng và xa lạ. Để rồi, ngay sau đó, nhà thơ tạo ra bước ngoặt của tác phẩm, và xảy ra tình huống “đèn tắt” bất ngờ. Khi ấy, đối diện với vầng trăng tròn đầy yêu thương năm xưa, người ta chợt nhận ra rằng đằng sau vẻ dịu dàng, bao dung của ánh trăng lại ẩn chứa vẻ đẹp chân thực và đáng quý của ngày xưa.

                        Trên cơ sở đó, tác giả đã viết nên đoạn cuối chứa đầy triết lí sâu xa của cả bài thơ.

                        Trăng bao giờ cũng tròn, dù ai không cẩn thận, ánh trăng lặng lẽ cũng đủ làm ta giật mình.

                        Vầng trăng vẫn ở đó, trọn vẹn và cao cả lạ lùng. Dù con người có thờ ơ nhưng vẫn tỏa sáng với vẻ đẹp thuần khiết của thiên nhiên. Vầng trăng tròn ấy tượng trưng cho những ngày xưa gian khổ, thiếu thốn nhưng hào hùng, vẻ vang, để nhân dân một lòng yêu thương, đùm bọc, chăm lo cho cách mạng:

                        Trăng cứ tròn vành vạnh

                        Giá trị đích thực của quá khứ, ân nghĩa thủy chung của thời đại huy hoàng – tuy đã khuất xa và ẩn mình trong quá khứ nhưng vẫn còn mãi với thời đại. Sự êm dịu, êm dịu của vầng trăng đặt cạnh sự thờ ơ của con người càng khiến tác giả thêm day dứt, hối hận trước tòa án lương tâm. Quả thật, không có tòa án nào cho sự lãng quên của con người, chỉ có lương tâm sâu thẳm trong tâm hồn thức tỉnh chúng ta về trách nhiệm với quá khứ. Sự cao thượng của vầng trăng, sự vị tha mặc kệ ta, kẻ lạ – buộc nhà thơ phải nhìn nhận lại mình. Bài thơ được viết năm 1978, chỉ ba năm sau ngày toàn thắng. Tại sao chỉ ba năm đô thị và nhịp sống hối hả đời thường lại có thể khiến người ta quên đi hàng nghìn ngày thiếu thốn trong khói lửa chiến tranh, trôi đi trong hơi ấm tình đồng đội và trong vòng tay sinh sản? Vẫn biết không có gì là trường tồn trước sức bào mòn của thời gian, nhưng những gì đang diễn ra vẫn khiến nhà thơ ngẩn ngơ khi nhìn lại.

                        Người ta quên nhanh quá! Trăng vẫn sáng. Bằng nghệ thuật nhân hóa tinh tế:

                        Ánh trăng im lặng

                        Ta đã từng chứng kiến ​​sự bao dung vĩ đại của mặt trăng trong quá khứ. Trước sự phản bội vô tình của người ta, nó im lặng, sự im lặng nhẹ nhàng, bao dung nhưng lại như một lời quở trách nghiêm khắc vào sâu thẳm trái tim nhà thơ. Điều lạ lùng là chính sự im lặng tưởng chừng như yếu ớt và cô độc ấy lại ẩn chứa một sức mạnh nội tâm. Họ chợt nhận ra giá trị của những gì họ đã lãng quên – quá khứ của chính họ và những ngày vinh quang của cả dân tộc:

                        Đủ để làm tôi ngạc nhiên

                        Giọng thơ như thủ thỉ tâm tình, da diết nhớ nhung, từ “ngỡ” được tác giả sử dụng rất tài tình, kết hợp với biểu cảm và nhịp điệu lồng ghép đã làm nổi bật quan niệm nghệ thuật của cả bài thơ. . Nó không chỉ thể hiện sự tiếc nuối của con người mà còn gửi gắm nhiều lời mà nhà thơ muốn nhắn nhủ đến xã hội đang cuốn mình trong vòng xoáy của lo toan, mưu mô này.

                        Không có quá khứ thì không có hiện tại chứ đừng nói đến tương lai! Mọi thứ chúng tôi có đều dựa trên kết quả của những ngày qua. Tất cả những gì chúng ta làm là tiếp tục những gì tổ tiên và chính chúng ta đã làm trong quá khứ. Chúng ta phải trân trọng và gìn giữ quá khứ để hướng tới tương lai. Phải chăng đây là triết lý mà tác giả Ruan Wei muốn gửi gắm đến người đọc qua vần thơ?

                        Mục đích của nghệ thuật là tác động vào tâm hồn con người, làm cho con người và xã hội tốt đẹp hơn. “Ánh trăng” đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ này với những nét đặc sắc về nghệ thuật và những nét đặc sắc về nội dung. Khổ thơ cuối của bài thơ này khiến tác giả hơi “ngỡ ngàng”, chứa đựng nhiều triết lý nhân sinh và thức tỉnh cả xã hội chúng ta!

                        Phân tích bài thơ “Ánh trăng” – Văn mẫu 5

                        Vầng trăng – hình ảnh giản dị quen thuộc, trong sáng và trữ tình. Vầng trăng đã trở thành đề tài thường xuyên xuất hiện trên trang thơ của các thi nhân mọi thời đại. Nếu “Tứ bình tĩnh” của Liebach miêu tả một đêm trăng đẹp và gợi nỗi nhớ quê hương thì “Trăng ngày nghỉ” của Hồ Chí Minh thể hiện một trái tim lạc quan, một phong thái ung dung và yêu thiên nhiên. Nói đến bài thơ “Ánh trăng” nguyễn duy ta thấy hình ảnh vầng trăng mang ý nghĩa triết lí sâu sắc. Đây là nguyên tắc “uống nước nhớ nguồn”.

                        Thơ Nguyễn Duy sâu lắng, đượm hồn dân ca Việt Nam. Thơ ông không tìm cái mới lạ mà đào sâu, khơi dậy tình yêu muôn thuở của người Việt Nam. “Ánh trăng” là một bài thơ như thế, đối với thi nhân, vầng trăng có một ý nghĩa đặc biệt: là vầng trăng tri kỉ, vầng trăng tri ân, vầng trăng thức tỉnh. Đây như một hồi chuông cảnh tỉnh cho tất cả những ai đang có lối sống quên đi quá khứ.

                        Tác giả mở đầu bài thơ bằng kí ức tuổi thơ của nhà thơ và hình ảnh vầng trăng trong thời chiến:

                        “Thuở nhỏ tôi sống trên đồng ruộng, sông nước, rồi kết thân với ao, với rừng, với trăng”

                        Hình ảnh vầng trăng trải dài trong không gian êm đềm, trong trẻo của tuổi thơ. Hai câu thơ vỏn vẹn mười chữ dường như diễn tả xu thế chung của cuộc đời. Mỗi con người sinh ra và lớn lên đều có rất nhiều thứ để gắn bó và quan hệ. Cánh đồng, dòng sông, bể là nghĩa trang, nơi chôn vùi biết bao kỉ niệm tuổi thơ khó quên. Cũng chính ở đó ta bắt gặp hình bóng của vầng trăng. Với biện pháp gieo vần “đông”, “sông” và điệp ngữ “với” thể hiện niềm vui được đi lại, tiếp xúc nhiều hơn của tác giả khi còn nhỏ, được thưởng ngoạn vẻ đẹp của những bãi triều tự nhiên. tác giả. Như vậy, không phải ai cũng có! Thuở nhỏ, trăng theo tác giả vào chiến khu “chờ giặc tới”. Vầng trăng luôn ở gần người lính, cùng họ vượt qua sương gió, cùng họ vượt qua bao đau thương, sự khốc liệt của bom đạn quân thù. và đạn. Những người lính hành quân dưới ánh trăng soi đường, ngủ dưới ánh trăng và dưới ánh trăng sáng, lòng người lính như được mở ra để vơi đi nỗi cô đơn, nhớ nhà. Trong những năm tháng đẫm máu, vầng trăng thực sự trở thành “người bạn tâm giao” của những người lính.

                        Đoạn hai nhắc nhở người đời cuộc sống quân ngũ mấy năm qua gắn bó với thiên nhiên, đồng quê hiền hòa, bình dị. Trăng rằm, người tri kỷ ấy, dường như không bao giờ bị lãng quên :

                        “Trần trụi hồn nhiên, hồn nhiên như cây cỏ, tưởng không bao giờ quên tháng tri ân”

                        Cảnh quay lại xuất hiện: “Trần trụi”, “Thơ ngây”, “Tự nhiên” làm cho lời thơ tự nhiên hơn, dường như nguồn cảm xúc của tác giả vẫn tuôn trào. Đó là hình ảnh so sánh ẩn dụ vẽ lên chất trần, phẩm chất hồn nhiên của người lính những ngày ở rừng. Vầng trăng đơn sơ mộc mạc ấy là hồn quê, hồn ruộng, hồn sông. Những chiếc xe tăng và những người lính hồn nhiên chân chất ấy. Rồi Soul-Moon sẽ phải thích nghi với một môi trường sống hoàn toàn mới:

                        “Từ khi về thành phố, tôi đã quen với ánh đèn rực rỡ và ánh trăng như một người xa lạ.”

                        Thời gian trôi nhanh, vạn vật cuốn đi như cơn lốc, chỉ có tình yêu như ánh nắng rực rỡ, đọng lại sâu thẳm trong tâm hồn mỗi người. Nhưng con người không thể cưỡng lại sự thay đổi này, và những người lính năm xưa đã quen với sự xa hoa của “đèn điện và cửa gương”. Và rồi trong cuộc sống xa hoa này, người lính quên đi người bạn tâm giao của mình, người bạn mà anh tưởng chừng không thể quên, “người tri kỷ ấy” đi ngang qua con ngõ của anh, mà tôi không nghĩ là quen lắm. Biết. Hình ảnh nhân hóa của vầng trăng trong bài thơ làm lay động lòng người đọc, bởi trăng là người. Chính sự nhân hóa này khiến người đọc cảm thấy tiếc cho sự “lãng quên” của người bạn thân một thời. Tiếng ồn ào của phố xá, của công việc mưu sinh và những đòi hỏi vật chất thường nhật khác đã làm con người xao nhãng những giá trị tinh thần ấy, phần tàn nhẫn của con người đã lấn át lý trí của người lính và quay lưng lại với quá khứ. Khi con người sống một cuộc sống vật chất đầy đủ, họ có xu hướng quên đi những giá trị tinh thần và nền tảng cơ bản của cuộc sống, đó là tình cảm của con người. Nhưng rồi tình huống bất ngờ xảy ra, buộc người lính phải đối mặt:

                        “Bỗng đèn mua nhà vụt tắt – trời tối, ngoài cửa sổ chợt thấy trăng tròn”

                        Khi đèn tắt, khi không còn sống được cuộc sống xa hoa, đầy đủ vật chất, những người lính bất ngờ buộc phải đối mặt với một thực tế đen tối. Trong cái “đột ngột” và “đột ngột” ấy, người lính chợt mở cửa sổ và chợt nhận ra. Đó không phải là một người xa lạ, mà là một người bạn cũ của tôi? Người đó không hề hay biết, người bạn tâm giao, người bạn thân, người bạn thân đã mất của anh đã chờ đợi anh ở bên ngoài. “Người Bạn Đó” không bao giờ bỏ rơi người ta, không bao giờ oán trách hay trách móc người ta quên mình. Trăng vẫn rất vị tha, bao dung và cũng sẵn sàng đón nhận tấm lòng của một con người biết ăn năn, biết cách thăng hoa. Cuộc đời không ai đoán trước được. Không ai sống một cuộc đời bình lặng mà không có khó khăn và thử thách mãi mãi. Đời người như một dòng sông, một chuỗi dài ngoằn ngoèo. Chính trong những khúc ngoặt và biến cố ấy, người ta mới thực sự hiểu được điều gì là quan trọng và điều gì sẽ gắn bó trong hành trình dài rộng của cuộc đời. Những người lính trong bài thơ dường như hiểu điều này!

                        “Ngước lên thấy nước mắt như ruộng, sông, rừng”

                        Khi đối mặt với ánh trăng, dù không bị khiển trách, nhưng có một điều khiến người lính cảm thấy áy náy. Chữ “mặt” trong cùng một nét dày: trăng và mặt người cùng nói. Trong đáy lòng người lính có một cảm giác “rưng rưng”, dường như nước mắt chực trào ra vì sự cảm động đầy vị tha của người bạn “tâm giao”. Đối diện với vầng trăng, người lính bỗng có cảm giác như đang xem một cuốn phim quay chậm về tuổi thơ, trong đó có “dòng sông” và “chiếc xe tăng”. Chính cảnh quay chậm đã làm trào dâng những người lính, nhưng cảm xúc và nước mắt cứ thế tuôn rơi một cách tự nhiên, không chút sức lực! Những giọt nước mắt ấy, một phần đã làm cho người lính bình tĩnh hơn, tâm hồn trong sáng hơn. Những hình ảnh về tuổi thơ và chiến tranh được tái hiện để minh họa cho cảm nhận của mọi người. Tâm hồn ấy, vẻ đẹp tinh khôi ấy sẽ không bao giờ mất đi, nó sẽ luôn sống lặng lẽ trong tâm hồn mỗi người, và nó sẽ cất lên tiếng nói khi người ta bị tổn thương. Thơ của bài thơ này giản dị và chân thành, ngôn ngữ giản dị và sâu sắc, và hình ảnh đã ăn sâu vào trái tim của mọi người.

                        Trăng sáng đầu tháng ba thật sự đã đánh thức mọi người:

                        “Trăng cứ quay, trăng lặng đến đâu cũng đủ làm lòng ta rộn lên”

                        Xem Thêm : Kim loại tác dụng với nước: lý thuyết, ví dụ và bài tập

                        Đoạn cuối có nội hàm độc đáo và đạt đến chiều sâu tư tưởng, triết lí. “Vầng trăng tròn” là vẻ đẹp mà mặt trăng vẫn tròn đầy, tròn đầy và không bị vấy bẩn mặc cho những thăng trầm của cuộc sống. Trăng chỉ im lặng, trăng không nói, trăng chỉ nhìn nhưng ánh mắt ấy cũng đủ khiến người ta giật mình. Ánh trăng như một tấm gương, cho con người nhìn thấu mình, nhận ra chính mình, đánh thức lương tri. Con người có thể phủ nhận và quên đi bất cứ điều gì trong tâm hồn mình. Nhưng dù thế nào đi nữa, những giá trị văn hóa tinh thần của dân tộc vẫn luôn bao bọc, che chở cho con người.

                        Ánh trăng đã đi vào lòng bao thế hệ độc giả như một lời nhắc nhở mọi người: Nếu ai đã lãng quên hay đánh mất một giá trị tinh thần quý giá, hãy thức tỉnh và tìm lại chúng. những giá trị đó. Và những ai chưa biết trân trọng những giá trị này, hãy trân trọng những kỷ niệm quý giá ngay từ bây giờ, trước khi quá muộn. Bài thơ này không chỉ hay về nội dung mà còn có bước đột phá về nghệ thuật. Thể thơ ngũ ngôn được vận dụng sáng tạo, chữ đầu câu không viết hoa thể hiện cảm xúc tự nhiên của nhà thơ. Nhịp thơ thay đổi nhanh, giọng điệu tình cảm để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc.

                        Phân tích bài thơ “Ánh trăng” – Văn mẫu 6

                        Nhà văn Nguyễn Tuấn từng nói: “Làm thơ là mở cái mà khổ trước tưởng như đã bịt kín”, nên bài thơ nào cũng phải mở ra một cái gì đó. Nội dung nghệ thuật là một khái niệm mới trong tâm trí người đọc, nếu Lý Bạch từng nâng ly với Minh Nguyệt và trải lòng về sự cô đơn của mình với ba bóng người, nếu Nguyễn Du để Minh Nguyệt chứng kiến ​​mối tình của Thôi Kiều và Đô đốc, thì Chủ tịch Hồ Chí Minh trăng còn được ví như người bạn thân thiết, “vầng trăng sáng soi nhà thơ qua cửa sổ”. Tôi cũng viết về trăng, một hình ảnh từ lâu đã trở thành nguồn cảm hứng vô tận cho thơ ca nhưng bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy vẫn gợi lên trong lòng mỗi người đọc những cảm xúc, tình cảm mới mẻ, sâu sắc. nhiều ý nghĩa.

                        Nguyễn Duy tên thật là Nguyễn Duy Nhuệ, sinh năm 1948. Ông là nhà thơ quân đội, từng tham gia kháng chiến chống Mỹ và viện trợ cho Triều Tiên. Một tác phẩm tiêu biểu là tập thơ “Ánh trăng”, đây là một trong những tập thơ của người son quan trọng trong sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Duy.

                        Ánh trăng được sáng tác tại Thành phố Hồ Chí Minh vào năm 1978, ba năm sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, thống nhất đất nước. Những người lính rời chiến trường, trở về thành phố, sống và làm việc trong hòa bình và mãn nguyện, đất nước đang đổi mới, vật chất dư dả, cuộc sống bộn bề, nhưng người ta vô tình quên đi những năm tháng gian khổ, nhưng có một tình yêu thủy chung. Để khi ánh trăng lặng thi sĩ tỉnh giấc…

                        Ở hai khổ thơ đầu, mạch cảm xúc của Nguyễn Duy tập trung vào nỗi nhớ về quá khứ, sự gắn bó của nhà thơ với vầng trăng trong mỗi bước đường đời.

                        “Tuổi trẻ tôi cùng non sông, đánh trận trong rừng, trăng thành bạn tri kỷ”

                        Ngay từ khổ thơ đầu, nhà thơ bắt đầu bằng nhịp thơ đều và những dòng 5 chữ ngắn gọn, đầy cảm xúc là nỗi nhớ da diết về tuổi thơ của chính mình. Đây là lời tâm sự của một người lính đã trải qua cuộc chiến gian khổ về cuộc sống giữa trung tâm xa hoa Sài Gòn, người lính nhớ lại tuổi thơ của mình, thời trai trẻ xông pha trận mạc. Nếu như cuộc đời của cậu bé Nguyễn Vệ gắn liền với cánh đồng, dòng sông trong vắt và biển cả bao la, thì khi lớn lên trong chiến tranh, cuộc đời nhà thơ lại tiếp tục gắn bó sâu sắc với thiên nhiên núi rừng, cũng giống như Du Hu Jintao trong Việt ngữ Hán ngữ có nói “rừng che quân rừng vây giặc”. Tuy nhiên, dù hoàn cảnh, điều kiện sống có đổi thay, chỉ có một điều không thay đổi: vầng trăng trên đầu, vầng trăng trong lòng tác giả, đã trở thành người bạn, người tri kỷ, người bạn đời. Trong những năm tháng tuổi trẻ, trên mỗi bước hành quân chiến đấu. Trăng cùng khổ, ta cùng khổ, ta đi đâu trăng theo ta, em ơi, ta gần nhau lắm.

                        Sự gắn bó, thân phận, tình cảm giữa nhà thơ với trăng được thể hiện rõ nét qua những vần thơ.

                        “Trần trụi hồn nhiên, hồn nhiên như cây cỏ, tưởng không bao giờ quên tháng tri ân”

                        Cả cuộc đời tác giả, từ tuổi thơ đến tuổi thanh niên rồi ra chiến trường, luôn “trần trụi” thân thiết với thiên nhiên, không chút che giấu, tác giả sống một cuộc đời bình dị. Giản dị, hiền hòa và hồn nhiên như cây cỏ, nó có sức sống bền bỉ và mãnh liệt. Trên trời có trăng sáng, suốt ngày ngắm nhìn cuộc sống hạnh phúc của nhà thơ, Nguyễn Vĩ quen thuộc đến mức “tưởng”, tin chắc rằng mình sẽ không bao giờ quên vầng trăng tình yêu. Nghĩa là, lênh đênh trên biển, tôi vẫn coi đó là tri kỉ suốt hai mươi năm cuộc đời mình.

                        “Từ khi về thành phố quen với ánh cửa gương, trăng qua ngõ như khách lạ qua phố”

                        Nhưng “tư tưởng” thường khó duy trì, vì cuộc sống luôn biến đổi, vì vật chất luôn quyết định ý thức. Rời xa chiến trường và quê hương với ruộng đồng, sông hồ, nhà thơ đến chốn phồn hoa đô hội, sống một cuộc đời sung túc, xa hoa. Nếu như trước đây, tôi phải vất vả, nằm phục kích sâu trong rừng rậm, chân lấm tay bùn, đèn dầu leo ​​lét thì nay cuộc sống đổi thay, “đèn gương” đều là những thứ mới lạ, dễ dàng. Cho thiên hạ hưởng thụ, sống sung sướng mãi, riết rồi cũng quen. Chợt chốc thi sĩ quên mất ánh sáng dịu dàng từ thiên nhiên, từ vầng trăng mà ông hằng ngỡ là người bạn tâm giao của mình. Chẳng biết vì cuộc sống quá bộn bề, bộn bề hay vì con người vô tâm đã lãng quên kỷ niệm xưa, nay thấy trăng trên trời không còn trân trọng, chỉ là “người lạ trên đường”. đường bộ”. Nói đến đây lòng tôi bỗng chạnh lòng, chạnh lòng thương cái vầng trăng tròn ấy Ta đã từng sát cánh bên nhau, chia vui sẻ buồn, từ thôn quê đến rừng núi, từ thuở ấu thơ cho đến lúc trưởng thành, chỉ là một vài năm, chỉ vài năm thôi. Thật kỳ lạ khi mọi thứ đã thay đổi.

                        “Bỗng đèn tắt trong nhà tối, trăng tròn chợt ùa ra ngoài cửa sổ”

                        Trong lúc trớ trêu và éo le ấy, một tình huống bất ngờ xảy ra – mất điện, căn phòng chìm trong bóng tối khiến những người lính vốn quen với ánh đèn rực rỡ như chết lặng, ngơ ngác. Không còn cách nào khác, ông đành tìm một nguồn sáng khác, cánh cửa mở ra, một vầng trăng rằm “bất chợt” chiếu vào căn phòng tối, chiếu thẳng vào tâm hồn nhà thơ khiến ông giật mình.

                        “Ngước lên thấy nước mắt như ruộng, sông, rừng”

                        Vầng trăng và nhà thơ như đối diện nhau một cách trực tiếp và chân thực nhất, bầu trời xanh ngắt, xa hơn nữa là hình ảnh cánh đồng, bãi tắm tuổi thơ, dòng sông xanh… Có lẽ hình ảnh khó quên nhất là hình ảnh cánh rừng, hình ảnh những năm tháng gian khổ nhưng đầy kỷ niệm khó quên Nhưng chỉ là vầng trăng của người bạn tâm tình, vẫn là người bạn đồng hành, Vẫn sẻ chia, vẫn theo bước chân người lính không bao giờ rời xa.

                        “Trăng cứ quay, trăng lặng đến đâu cũng đủ làm lòng ta rộn lên”

                        Đối diện với trăng, nhà thơ dường như thấp kém, vì tủi hổ lỗi lầm vô tình, sẵn sàng quên đi tình xưa, chạy theo dòng đời tấp nập, theo cửa gương “tia chớp” và thiên nhiên, lãng quên mà người ta đã từng ”tưởng sẽ không bao giờ quên” tri kỷ. Trăng không trách móc hay chỉ trích, trăng vẫn âm thầm tỏa sáng, phủ lên người thi nhân một thứ ánh sáng nhân hậu, đẹp đẽ. Điều đó càng khiến người ta “ngỡ ngàng” hơn, ngạc nhiên hơn, thậm chí là giật mình.Sự im lặng đôi khi là liều thuốc tốt, để ta soi xét lại chính mình. Sự bao dung, dịu dàng, thủy chung của vầng trăng đã khiến nhà thơ hiểu ra nhiều điều, và có lẽ “sự bất ngờ” đang bừng tỉnh. Thức tỉnh để tìm lại chính mình, sống tốt hơn, nhớ và trân trọng những gì đẹp đẽ của quá khứ, để không sống vô tình, vô nghĩa.Vầng trăng là tấm gương sáng về lòng trung nghĩa của con người. Một người bạn tâm giao để người lính nhìn lên và ngẫm lại xem mình đã thực sự sống tử tế bao năm qua chưa.

                        Vầng trăng luôn thân thuộc với con người, vầng trăng tỏa ánh sáng dịu êm, như người bạn, người thân, người tri kỷ luôn sẵn sàng sẻ chia, ôm ấp, đồng hành cùng con đi khắp muôn phương. “Ánh trăng” của Nguyễn Vệ là một bài thơ tưởng chừng mộc mạc, giản dị nhưng hàm chứa ý nghĩa lớn lao, là bài học ghi nhớ ân đức, lời dặn dò, tấm gương của người đời. Cảnh. Bởi dù đã trở thành dĩ vãng nhưng chúng vẫn là những giá trị quan trọng xây dựng nên tâm hồn và cuộc sống, dễ bị lãng quên đồng nghĩa với sự thờ ơ, vô cảm trước cuộc sống.

                        Phân tích bài thơ “Ánh trăng” – Văn mẫu số 7

                        “Cát trắng” và “Ánh trăng” là hai tập thơ của Nguyễn Vĩ, một nhà thơ lớn lên trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Tâm hồn thơ trẻ toát lên bóng tre, như sóng vỗ vào dòng sông thơ ấu đượm hương vị thôn quê:

                        “Khi còn nhỏ, tôi đã đi câu cá trong cống để bắt váy của cô ấy, đến chợ Pinglin để bắt chim sẻ trong tai tượng Phật, và đôi khi ăn cắp thẻ của chùa Chenxiang”.

                        (Bán phá giá)

                        “Tre Việt Nam”, “Hơi ấm rơm”, “Ánh trăng”, “độ len”… đều là những bài thơ nổi tiếng của Nguyễn Duy. Bài thơÁnh trăngtrong tập thơ cùng tên được tác giả sáng tác tại Thành phố Hồ Chí Minh năm 1978, ba năm sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng. Bài thơ như một lời tâm sự chân thật: trăng không chỉ là vẻ đẹp thiên nhiên của làng quê, nó còn là nỗi nhớ tuổi thơ và những tháng ngày chiến đấu gian khổ. Đối với mỗi chúng ta, không bao giờ được lãng quên vầng trăng, cũng như không được cố tình lãng quên.

                        Nếu như ở bài thơ “Cây tre Việt Nam” thể thơ lục bát được chia đôi, ba câu để tạo hiệu quả nghệ thuật ấn tượng thì ở bài thơ “Ánh trăng” này nó mang một diện mạo mới. Chữ đầu dòng không viết hoa. Phải chăng nhà thơ muốn cảm xúc trôi theo dòng chảy của thời gian và kí ức?

                        Hai phần đầu bàn về Vầng trăng thơ ấu và Vầng trăng chiến tranh. Vầng trăng tuổi thơ trải khắp không gian rộng lớn: “Thuở nhỏ tôi ở với ruộng, với sông, rồi với ao”. Hai câu thơ 10 tiếng, gieo vần ngược (đồng – sông), điệp từ “em” được lặp lại 3 lần, diễn tả thuở nhỏ tôi được bơi lội nhiều nơi, vui thú cảm nhận vẻ đẹp của thiên nhiên. trăng quê và bên sông.Ngắm trăng bên biển. ống thổi. Có bao nhiêu người trong chúng ta có lý do để trở thành một nhà thơ trong thời thơ ấu của mình? Thuở nhỏ, nhà thơ Trần Đăng Khoa chỉ biết nhìn trăng trong sân nhà: “Trăng rằm soi bóng sân em… (sân nhà em trăng sáng lắm). Tuổi thơ như tìm bên vầng trăng, chút hoài niệm xa xăm.

                        Hai câu tiếp theo nói máu lửa hồi sinh, Mingyue và binh lính, Mingyue đã trở thành “tâm phúc”:

                        “Trong rừng chiến, vầng trăng trở thành người bạn tâm tình.”

                        “Soul Mate”: Biết người khác như chính mình, một người bạn tâm giao là một người bạn rất thân và hiểu bạn. Vầng trăng và người lính, nhà thơ đã trở thành bạn tâm giao trong những năm tháng ở rừng trong chiến tranh. – “Bộ đội ngủ dưới trăng/ Gối trăng ngủ ngon” (Hồ Chí Minh). Giữa rừng sương mù, chiến sĩ hiên ngang chờ giặc đến “đầu súng trăng treo” (chính nghĩa). Đã bao đêm, đường hành quân của các chiến sĩ đã trở thành “đường dát trăng vàng”. Vầng trăng chia ngọt sẻ bùi niềm vui chiến thắng với các chiến sĩ nơi tiền tuyến. Đất nước đã trải qua những năm tháng máu lửa, trăng cùng đoàn quân của Người đã vượt qua mọi sự tàn phá, hủy diệt của bom đạn quân thù:

                        “Và mặt trăng, mặt trăng của đất nước này, nhô lên trên ngọn lửa.”

                        (Phạm Tiên Đô)

                        Người già thường “bám trăng, kề cận trăng”, những người cựu chiến binh đã bao lần đứng trên đồi cao, hành quân vượt núi cũng say lòng ngắm trăng trên cao nguyên. Đọc thơ Nguyễn Việt thật thú vị bởi nó mở ra trong tâm trí nhiều người một trường liên tưởng: “Trong rừng chiến tranh – vầng trăng trở thành tri kỷ”.

                        Đoạn hai gợi lại cho tác giả cuộc sống quân ngũ những năm tháng gian khổ đã qua gắn bó với thiên nhiên, vùng quê bình dị, hiền hòa. Một vần khác nổi lên – một ẩn dụ so sánh làm nổi bật sự trần trụi, hồn nhiên của những năm tháng ở rừng của những người lính. Bạn là như thế này:

                        “Ngây thơ như cây cỏ”

                        Vầng trăng là biểu tượng cao đẹp của những năm tháng ấy, đã trở thành “vầng trăng tri ân”, “vầng trăng tri ân” không bao giờ quên — Tháng tri ân.”

                        Thay lòng đổi dạ thật đáng sợ. Môi trường sống thay đổi, con người cũng dễ đổi thay, có khi dễ trở nên vô tình, có người dễ “bạc”. muan-dinh, tòa nhà, ánh điện thân quen, gương cửa… và “vầng trăng tri kỷ”, “vầng trăng “biết ơn” đã bị lãng quên, dửng dưng.

                        “Từ khi trở lại thành phố, tôi đã quen với ánh đèn bên cửa gương, ánh trăng như người xa lạ.”

                        Vầng trăng được nhân cách hóa, lặng lẽ băng qua đường, trăng như khách lạ đi qua, không ai nhớ, không ai biết. Chỉ những người có lương tri và lương tri mới biết sám hối. Biết sám hối, hoàn thiện nhân cách với chính mình, hoàn thiện bản thân, hướng tâm hồn đến ánh sáng, cao thượng. Không đao to, không đao to búa lớn, ngược lại, giọng thơ thủ thỉ, tuôn trào, nhà thơ nói chuyện với người. Chất trữ tình của thơ trở nên sâu lắng, chân thành.

                        Giống như một dòng sông chảy xiết, nó uốn khúc và quay vòng. Cuộc sống cũng đầy những thay đổi. Để ghi lại cảnh “đời sống thành thị” của một người mới về thành phố trong rừng, nhà thơ chỉ dùng 4 dòng 20 ký tự. Các từ láy như “bỗng”, “vội vàng”, “chợt” gợi cảm xúc biểu cảm. Một triết gia đã từng nói: “Cuộc đời dạy ta nhiều hơn những trang sách”. thơ nguyễn duy cho ta biết nhiều điều:

                        “Thình lình đèn vụt tắt, cửa sổ của nhà hàng tối om vội bật tung, trăng tròn”

                        Vầng trăng xưa đã đến với em, vẫn “tròn”, vẫn “đẹp”, vẫn thủy chung với mỗi người, mỗi gia đình, với thi nhân, chiến sĩ. Những người nhìn trăng và than khóc:

                        “Ngước lên xem ruộng lạ sông hồ rừng gì”.

                        Nguyễn Khôn từng coi trăng là nhân từ.” Trong bài “Nguyễn Cẩm” của nhà thơ Xuân Diệu viết cách đây 60 năm cũng có một câu: “Trăng buồn trăng nở, chữ là gần mặt trăng. Trở lại với tâm trạng của người lính trong bài thơ này. Với vẻ thương hại: “Ngẩng mặt lên đi”. Từ “miên” trong bài thơ: trăng “trò chuyện” với khuôn mặt của cùng một người. Yue’er không nói, Yue’er cũng không trách, nhưng Xiaobing lại cảm thấy hơi rưng rưng. “Nước mắt” là vì chúng sinh, nước mắt chảy dài trên mặt, muốn khóc mà không có nước mắt. Nước mắt làm cho lòng người bình tĩnh trở lại, trong trẻo trở lại, vẻ đẹp lại lộ ra. Tâm hồn gắn bó, hòa hợp với thiên nhiên, với Cổ Nguyệt, với đồng, với hồ, với sông, với rừng, với quê hương. Thông điệp gửi gắm nhằm thể hiện ngòi bút tài hoa của Nguyễn Duy: … “như ruộng, như hồ, như sông, như rừng”. Hình tượng và sự súc tích, từ ngôn ngữ hình ảnh đi vào sâu thẳm lòng người, khắc sâu điều nhà thơ muốn nói với chúng ta một cách nhẹ nhàng mà thấu đáo.

                        Khổ thơ cuối của bài thơ có ý nghĩa sâu sắc và gợi nhiều suy nghĩ:

                        “Trăng cứ quay mãi, trăng lặng đến đâu cũng đủ làm ta sợ.”

                        “Viên Viên” có nghĩa là trăng tròn, vẻ đẹp viên mãn. “Ji” có nghĩa là im lặng, không có bất kỳ âm thanh nào. Trăng tròn lặng lẽ, và “không có gì là vô tình” tượng trưng cho lòng khoan dung, sự thuần khiết và lòng trung thành trọn vẹn. mà không trở lại. Đây cũng chính là phẩm chất cao quý của con người mà Nguyễn Duy và nhiều nhà thơ đương đại đã phát hiện và cảm nhận sâu sắc trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước.

                        Ánh trăng” là một bài thơ hay. Việc sử dụng thể thơ ngũ ngôn thật sáng tạo và tài tình. Vần điệu phong phú, ngôn ngữ trong sáng, giọng thơ vừa hàm súc vừa hướng ngoại. Nhà thơ đã thổ lộ những bí mật thầm kín nhất của mình với độc giả. Tính triết lý sâu sắc được thể hiện qua hình ảnh “Ánh trăng” đã tạo nên giá trị tư tưởng và giá trị nghệ thuật của bài thơ này. Một người không nên sống một cách tự nguyện, phải tuyệt đối trung thành, phải trung thành với bạn bè, đồng chí và nhân dân, đó là lý do tại sao bài thơ Ruan Wei nói rất hay và cảm động.

                        Phân tích bài thơ “Ánh trăng” – Văn mẫu 8

                        Là một trong những nhà thơ trưởng thành trong thời kỳ kháng chiến chống Nhật, Nguyễn Vệ nổi tiếng với những bài thơ hay, nhẹ nhàng và cảm động như hơi ấm của ngọn cỏ và cây tre Việt Nam. Bài thơ được nhiều người chú ý là bài Ánh trăng. Đoạn thơ này thể hiện tài năng và thể hiện rõ chất thiền trong thơ Nguyễn Duy.

                        Bài thơ “Ánh trăng” là bài thơ được nhà thơ Nguyễn Duy sáng tác năm 1978. Một lý do khiến bài thơ này được mọi người yêu thích là nội dung bài thơ chứa đựng những tình cảm chân thành, mới lạ và sâu sắc. Ở hai khổ thơ đầu, nhà thơ nhắc đến những kỉ niệm thân thương của tuổi thơ nơi quê hương:

                        Thuở nhỏ tôi sống với ruộng đồng, với sông, sau với hồ, và khi tôi ở trong rừng, vầng trăng trở thành tri kỉ

                        Từ thuở ấu thơ, trăng đã gắn bó với tác giả một tình cảm không thể tách rời. Khi chúng ta nói về mặt trăng, chúng ta có nghĩa là dòng sông, cánh đồng và biển cả. Vì vậy, dù có đi đâu, trăng vẫn gắn bó với con người. Người đi một bước, trăng cũng đi một bước. Vầng trăng vốn là người bạn, cho đến khi nhà thơ nhập ngũ, tham gia chiến trường gian khổ, trăng trở thành người bạn tri kỷ của nhà thơ. Lúc này, đối với nhà thơ, vầng trăng đã trở thành người bạn không thể thiếu. Trăng cùng thi nhân chia ngọt sẻ bùi, cùng thi nhân vượt qua khó khăn gian khổ trong cuộc đời quân ngũ. Chính vì thế nhà thơ hiểu trăng hơn. Nhà thơ đã miêu tả vẻ đẹp của ánh trăng với một cảm xúc trẻ trung, tươi mới:

                        Trần trụi và ngây thơ như một cái cây, không bao giờ quên Enyue

                        Vẻ đẹp của trăng là một vẻ đẹp như tiên cảnh, không mặc gì thì trăng vẫn là một vẻ đẹp vô tư, hồn nhiên. Cũng chính vì nó tượng trưng cho vẻ đẹp trong sáng hòa nhập của trăng và thiên nhiên. Vầng trăng thật đẹp và thật gần, lại có đồng cam khổ bên cạnh, nên nhà thơ đã nghĩ, mình sẽ không bao giờ quên vầng trăng tròn tri ân ấy.

                        Tuy nhà thơ nghĩ thế, nhưng hóa ra nhà thơ cũng có lúc quên trăng:

                        Từ khi về thành phố, tôi đã quen với ánh đèn cửa gương, ánh trăng soi ngõ, như kẻ lạ trên phố

                        Nếu như thuở nhỏ tác giả gần gũi với thiên nhiên, với sông hồ, rừng cây thì bây giờ môi trường sống của nhà thơ đã thay đổi. Anh sống ở thành phố, nơi ánh đèn soi sáng mọi ngóc ngách, mọi không gian. Chính vì ánh sáng của đèn điện và gương soi mà người ta không còn nhớ đến ánh trăng. Dần dần, tháng tri ân bị đẩy lùi vào quên lãng. Vầng trăng tượng trưng cho những kỉ niệm, những kỉ niệm về những năm tháng gian lao ấy, những người bạn thuở thiếu thời, những người đồng đội đã cùng vào sinh ra tử. Nhưng giờ đây, trăng đã trở thành khách qua đường. Khi cuộc sống thay đổi, nó đòi hỏi một sự thay đổi trong cách suy nghĩ của mọi người. Nếu không vì sự cố mất điện của thành phố, có lẽ mặt trăng đã trôi vào dĩ vãng :

                        Mua nhà đen đủi, vỡ cửa sổ, bỗng dưng trăng rằm

                        Ngay lúc đèn tắt, ánh trăng bất ngờ xuất hiện. Dường như cùng với ánh trăng, bao kỉ niệm xưa lại ùa về trong tâm trí tác giả. Đó là một thời của sông, hồ, rừng, nghèo đói và thiếu thốn, nhưng luôn tràn đầy hạnh phúc. Đây là lý do khiến nhà thơ bật khóc:

                        <3

                        Vầng trăng vẫn tròn vành vạnh và nguyên vẹn. Điều duy nhất thay đổi là trái tim. Chính vì đối diện với trăng mà trăng không nói gì khiến nhà thơ cảm thấy xấu hổ. Phải công nhận là tháng tri ân quá hào phóng.

                        Bài thơ Ánh trăng của Ruan Wei đã lay động nhiều độc giả bởi cách diễn đạt giản dị. Giọng thơ trầm ấm cùng lối ngũ ngôn súc tích làm cho cả bài thơ tràn đầy tình cảm. Qua bài thơ này, chúng ta cũng nên soi lại cách sống của chính mình để sống tốt hơn.

                        Phân tích bài thơ “Ánh trăng” – Văn mẫu 9

                        Ruan Wei thuộc thế hệ các nhà thơ lớn lên trong Chiến tranh chống Nhật Bản. Nguyễn Việt mới xuất hiện đã nổi tiếng với bài thơ Cây tre Việt Nam. Bài “Hơi ấm ổ rơm” của anh đã được giải báo chí Văn nghệ. Hôm nay, Ruan Wei tiếp tục sáng tạo. Ánh trăng đều và trong lành là một trong những bài thơ của ông được nhiều người yêu thích bởi sự chân thành, cảm xúc sâu lắng và sự mới lạ bất ngờ.

                        Hai khổ thơ đầu của bài thơ gợi lại những kỉ niệm đẹp đẽ:

                        “Thuở nhỏ tôi ở đồng ruộng sông nước, rồi rừng hồ chiến tranh, vầng trăng thành bạn tri kỷ.”

                        Vầng trăng gắn bó với tác giả từ thuở ấu thơ. Mặt Trăng gắn liền với cánh đồng, sông nước, biển cả. Bất cứ nơi nào bạn đi, mặt trăng luôn ở bên cạnh bạn. Nhưng phải đến khi tác giả sống trong rừng trên đường Trường Sơn xa gia đình, quê hương thì Trăng mới trở thành “người bạn tâm giao”. Trăng và tác giả là những người bạn không thể thiếu nhau. Mặt trăng và quả cam bổ sung cho nhau trong nỗi đau.

                        Tác giả đã tổng kết vẻ đẹp của trăng và bày tỏ tình yêu, sự kính trọng của mình đối với trăng:

                        “Trần trụi hồn nhiên, hồn nhiên như cây cỏ, tưởng không bao giờ quên tháng tri ân.”

                        Vầng trăng mang một vẻ đẹp mục đồng tột cùng, một vẻ đẹp không cần châu báu, một vẻ đẹp vô tư, hồn nhiên. Trăng tượng trưng cho vẻ đẹp của thiên nhiên nên nó là hiện thân của thiên nhiên, hòa quyện với cây cỏ. “Vầng trăng tri ân” là vì trăng đã từng chia vui sẻ buồn, vì trăng là bạn, là bạn, là tri kỷ như tác giả đã nói ở trên, nhưng đôi khi tác giả thú nhận rằng mình đã quên “tháng năm yêu thương” ấy. “:

                        “Từ khi về thành phố đã quen ánh đèn bên cửa gương, ánh trăng như người dưng.”

                        Trước đây tác giả sống với sông hồ, rừng cây, nay môi trường sống đã thay đổi. Tác giả về cuộc sống với thành phố. Cuộc sống cũng đã thay đổi, “quen dần với đèn điện”, “cửa gương”. tác giả. “Mặt trăng” ở đây tượng trưng cho những năm khó khăn.

                        Đó là tình bạn, tình đồng chí được hình thành qua những năm tháng khó khăn. “Trăng” giờ đã trở thành “Người lạ ơi”. Mọi người thường thay đổi như thế này. Bởi vậy, người ta thường nhắc nhau: “Lòng đắng cay nhớ nhung là ngọt ngào”. Ở thành phố, vì đã quen với “đèn nhà, cửa gương” và cuộc sống tiện nghi, người ta không còn để ý đến người bạn tri kỷ trước đây là “Trăng”. Đã đến lúc tắt điện trong thành phố:

                        “Thình lình, đèn trong căn nhà tối om vụt tắt, và một vầng trăng tròn ló ra từ cửa sổ.”

                        “Vầng trăng” xuất hiện thật đột ngột, vào lúc ấy, vào lúc ấy… Tác giả sững sờ trước vẻ đẹp huyền ảo của vầng trăng. Bao nhiêu kỷ niệm xưa chợt ùa về khiến tác giả “nước mắt chảy dài trên mặt”:

                        “Ngước lên thấy có gì lạ, như ruộng, như hồ, như sông, như rừng”.

                        Xem Thêm: Xem ý nghĩa tên Trà My xong đảm bảo muốn đặt ngay cho con gái

                        Cuộc gặp gỡ giữa nguyễn duy và Moonlight như gặp lại người yêu thuở nào, như gặp lại người bạn cùng chiến đấu những năm tháng gian khổ. Tác giả không giấu được niềm xúc động mạnh mẽ trong lòng. “Trăng” nhắc nhở tác giả không bao giờ quên những năm tháng khó khăn đó, không bao giờ quên tình bạn, tình đồng chí, những năm tháng chiến tranh cùng chia lửa, sẻ chia. Đầy gian nan và thử thách.

                        Ở khổ thơ cuối, Nguyễn Vệ dẫn người đọc chìm vào một suy tư, chiêm nghiệm về “Tháng tri ân”:

                        “Trăng cứ quay mãi, trăng lặng đến đâu cũng đủ làm ta sợ…”

                        Ai đổi thay khi vầng trăng không thể tách rời, vô tình ở lại với vầng trăng. Trăng bao dung, hào hùng biết bao! Tấm lòng độ lượng ấy, đến cả trăng cũng không một lời trách móc, cũng đủ “ngỡ ngàng”. Vầng trăng tượng trưng cho phẩm chất cao quý của con người, vầng trăng tượng trưng cho vẻ đẹp vĩnh cửu của tình bạn, tình yêu trong những năm tháng “không thể nào quên”.

                        “Ánh trăng” của Nguyễn Duy đã lay động biết bao thế hệ người đọc bằng những cách thể hiện giản dị như lời bộc bạch, lời tâm sự chân thành, sự tự vấn nội tâm. Hãy cho phép mình sống tốt hơn, ý nghĩa hơn.

                        Phân tích bài thơ “Ánh trăng” – Văn mẫu 10

                        Ruan Wei thuộc thế hệ các nhà thơ lớn lên với mỹ học kháng chiến chống Nhật cứu nước. Sau chiến tranh, Nguyễn Việt tiếp tục làm thơ, ngày càng phong phú, với phong cách và giọng điệu “quen mà không chán”.

                        Thơ Nguyễn Duy giản dị, mộc mạc nhưng đầy suy tư, triết lý sâu sắc về cuộc đời và con người. Bài thơ “Ánh trăng” là bài thơ tiêu biểu của hồn thơ Nguyễn Duy. Tác phẩm được sáng tác năm 1978, ba năm sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

                        Qua bài thơ này, Nguyễn Vĩ muốn nhắn nhủ, thức tỉnh người đọc về thái độ sống “uống nước nhớ nguồn”, biết ơn và trung thành với quá khứ, thức tỉnh tâm hồn người chiến sĩ, tuyệt đối trung thành với kẻ thù. Cách mạng kể cho con người những năm tháng gắn bó với thiên nhiên, đất nước.

                        Bài thơ này là một truyện ngắn kể theo trình tự thời gian từ quá khứ đến hiện tại. Dòng cảm xúc của nhà thơ cũng theo dòng tự sự này mà bộc lộ những suy tư, chiêm nghiệm, chiêm nghiệm. Trước hết, đoạn thơ này mở ra những kỉ niệm đẹp đẽ, tình cảm gắn bó giữa con người với vầng trăng trong quá khứ xa xăm:

                        Thuở nhỏ tôi sống nơi đồng ruộng, sông rồi hồ, khi chiến tranh ở trong rừng, trăng với thiên nhiên trần trụi như bạn tri kỉ, hồn nhiên như cây cỏ, tôi tưởng sẽ không bao giờ quên được ân tình tháng năm.

                        Bằng giọng thơ tình cảm, thủ thỉ, tác giả đã gợi lại kí ức của tác giả về những năm tháng dài đằng đẵng từ tuổi thơ cho đến khi trưởng thành, trở thành người lính trong khói lửa chiến tranh. Tất cả tắm trong ánh trăng. “Tuổi thơ”, tôi gắn bó với thiên nhiên như với cánh đồng, sông hồ quê hương. Lớn lên thành một chiến binh chiến đấu và bám rừng núi.

                        Trong cuộc sống ấy, con người sống chan hòa với thiên nhiên, bình dị, ấm áp và hiền hòa. Trong khi các mặt trăng “tri kỷ” và “hiệp ước” thể hiện sự gắn kết giữa con người với thiên nhiên, vũ trụ. Ở đây, trăng được nhân hóa thành người và trở thành người bạn tốt của con người: trăng sẻ chia vui buồn, sẻ chia buồn vui, tình bạn hàn gắn vết sẹo chiến tranh, dùng ánh sáng dịu dàng của mình. Nên là bạn “bạn thân”.

                        Con người sống một cuộc sống thanh bình, giản dị và thỏa mãn “trần trụi với thiên nhiên”, “hồn nhiên như cây cỏ”. Và trăng sống chan hòa với con người, gắn bó trìu mến bằng “tình bạn” của nhau. Thế nên, trái tim em đã gặp trái tim anh bằng một tấm lòng thủy chung, trìu mến và đầy mỉa mai: “Không bao giờ quên”. Từ “si” chỉ thể hiện sự ngậm ngùi, nuối tiếc, tiếc nuối, cả hai đều chỉ sự thay đổi về tình cảm đáng ra phải trân trọng.

                        Nếu như hai phần đầu tác giả đưa người đọc về quá khứ xa xăm thì ở phần ba, Nguyễn Vệ lại đưa người đọc về hiện tại dưới tác động của ngoại cảnh. Người ơi cho người quên trăng :

                        Từ khi về thành phố, tôi đã quen với ánh đèn cửa gương, ánh trăng soi ngõ, như kẻ lạ trên phố

                        Thành phố là một nơi khác, hoàn toàn mới, trái ngược hoàn toàn với những không gian tôi có trong thời thơ ấu và khi tôi là một người lính trên chiến trường. Hình ảnh “đèn gương” là một hoán dụ, tượng trưng cho cuộc sống đủ đầy, tiện nghi, khép kín trong phòng khách hiện đại, xa rời thiên nhiên và đô thị náo nhiệt.

                        Từ đó, nhà thơ diễn tả diễn biến tình cảm của con người: “vầng trăng vốn yêu nhau thân thiết” đã trở thành “người dưng trên đường”. Trăng đi xuống ngõ, còn người thì lạnh lùng, thờ ơ, không còn nhận ra trăng đã từng là tri kỷ, tri kỉ.

                        Lời kể của truyện Mật ngắn gọn, súc tích, giản dị, giản dị mà chân thành, những dòng đầu không viết hoa thể hiện những suy nghĩ miên man của nhà thơ trước dòng thời gian, trước cuộc sống sung túc, trước sự đổi thay của thời cuộc và trái tim con người.

                        Dường như mặt trăng sẽ biến mất mãi mãi, và những người sở hữu mặt trăng sẽ không bao giờ có cơ hội gặp lại. Bởi trước nhịp sống hối hả của phố thị, dưới ánh cửa gương và ánh đèn điện, trước sự tất bật, lo toan cho cuộc sống của con người, vầng trăng sẽ trở nên mờ nhạt rồi biến mất, nhưng khi một tình yêu bất ngờ xuất hiện, nó sẽ có cơ hội thắp sáng lên Chuyện xảy ra, rồi đánh thức bao suy nghĩ, bao kỉ niệm, vang vọng trong lòng nhà thơ:

                        <3

                        Nếu như ở những khổ thơ đầu giọng thơ trầm lắng, chậm rãi, liên tiếp, đắm chìm trong những kỉ niệm đẹp của quá khứ thì đến khổ thơ thứ tư, giọng thơ cao lên đột ngột, thể hiện sự ngạc nhiên, sửng sốt. Mặt trăng trước cửa sổ.

                        Cúp điện, theo lẽ tự nhiên con người chỉ nhìn vào nơi có ánh sáng, hành động phản xạ giống như thói quen “vội mở tung cửa sổ” mà tình bạn “trăng tròn” năm nào tình cờ bắt gặp. đảo ngữ sẽ Từ “bỗng” được đẩy lên đầu câu thơ nhấn mạnh sự bất ngờ, sửng sốt, bàng hoàng khi con người bắt gặp vầng trăng. Vầng trăng tròn đầy yêu thương luôn dõi theo con người, đồng hành cùng họ, luôn lặng lẽ tỏa sáng, không bao giờ mất đi.

                        Và người ta quên mất trăng, nên khi nhìn thấy trăng, họ ngạc nhiên, bất ngờ. Mọi sự im lặng xung quanh thật cần thiết cho giây phút này, mọi thứ như ngừng trôi đi, để nhường chỗ cho sự gặp gỡ của hai tâm hồn:

                        <3

                        Nhà thơ lặng lẽ “ngước” nhìn trăng, và “nước mắt chảy dài trên mặt” buồn bã, khuôn mặt như sắp khóc, mừng mà không nói nên lời. Từ “miên man” ở cuối khổ thơ đầu là từ đa nghĩa tạo nên tính đa nghĩa trong thơ: nhà thơ hướng về vầng trăng, người bạn tri kỷ bị lãng quên.

                        Người đối mặt với mặt trăng, mặt trăng đối mặt với con người, hoặc quá khứ đối mặt với hiện tại, lòng trung thành và tình bạn đối mặt với sự phản bội, và họ không thể tự giúp mình. Đối diện với vầng trăng, nhà thơ như thấy mình trong đó, như đang sống lại nỗi nhớ về thiên nhiên “ruộng, sông, rừng, ao” bao năm tháng.

                        Kết quả là nhà thơ “rơi nước mắt”. Cảm xúc ấy vừa là niềm vui khi được ôn lại quá khứ, vừa là giọt nước mắt thú tội, giọt nước mắt tủi hổ, giọt nước mắt ân hận vì đã thay đổi. Giọng thơ chuyển từ ngạc nhiên, bất ngờ sang xúc động “nước mắt em chảy dài trên mặt”. Từ láy “như thể” kết hợp với biện pháp liệt kê của các hình ảnh “ruộng-sông-rừng-bể” làm cho nhịp thơ trầm lắng, chậm rãi, nỗi nhớ da diết từ đâu vọng về. .

                        Từ ký ức đến hiện tại, từ hiện tại đến cảm xúc rưng rưng, ​​và cuối cùng rơi vào suy tư, chiêm nghiệm. Đó là giây phút giác ngộ tâm linh của nhà thơ, và cũng là thông điệp tha thiết mà Nguyễn Vĩ muốn gửi gắm trong cuộc đời:

                        Trăng bao giờ cũng tròn, dù ai không cẩn thận, ánh trăng lặng lẽ cũng đủ làm ta giật mình.

                        Việc miêu tả trăng trong cả bài thơ có nhiều định nghĩa khác nhau, như: trăng tri kỷ, trăng tri ân, trăng rằm, cuối cùng kết tinh thành “vầng trăng tròn vành vạnh”. Điều đó cho thấy trăng đã trở thành biểu tượng của sự bất biến, vĩnh cửu, bất biến; nó tượng trưng cho sự tròn đầy, thủy chung, vẹn nguyên của thiên nhiên tươi đẹp trong quá khứ, hiện tại và tương lai, cho dù lòng người có đổi thay, lầm lỗi” vô tình”.

                        Hình ảnh ánh trăng được nhân cách hóa với thái độ “im lặng” vừa gợi cho ta cái nhìn nghiêm khắc như một lời trách móc, vừa gợi cho con người ta thái độ “vô tình” vô liêm sỉ, vô vị lợi. Nhưng đồng thời, tư thế “im lặng” của trăng cũng chứa đựng tấm lòng bao dung, nhân hậu, độ lượng của một người bạn thủy chung, trung thành. Bởi dù lòng người có đổi thay, trăng vẫn canh giữ, vẫn lặng lẽ soi sáng, vẫn “quay đầu”.

                        Câu cuối bài thơ dồn nén biết bao cảm xúc trong sự “ngỡ ngàng” của mọi người. Phải chăng sự im lặng của vầng trăng đánh thức con người, hay cú “sốc” nhân cách, cú “sốc” lương tâm, thành tâm sám hối, gột rửa tội lỗi, hồi tâm hướng thiện, tâm hồn thanh tịnh thì tốt hơn. và còn sống.

                        Việc chuyển nghĩa bài thơ từ hình ảnh “trăng tròn” sang “ánh trăng” hàm chứa nhiều ý nghĩa khái quát: nếu như trăng rằm nói về quá khứ chung thủy, trọn vẹn thì “vầng trăng” lại nói về hào quang của quá khứ, ánh sáng của lương tâm, đạo đức Tỏa sáng, xua tan bóng tối của sự lãng quên và phản bội, thức tỉnh con người và tâm hồn trở nên trong sáng. Ngày càng đẹp hơn.

                        Vì vậy, ánh trăng của Nguyễn Vi là một loại ánh trăng tràn đầy tình người và tình người sâu sắc. Nó mãi mãi trở thành bài học, không chỉ cho người lính mà cho tất cả mọi người, để rồi từ đó, mỗi chúng ta sẽ đối diện với chính mình, với quá trình của chính mình. Xem tôi sống thế nào, thế nào…

                        Bài thơ kết hợp giữa biểu cảm và tự sự một cách hài hòa, tự nhiên, tạo nên một câu chuyện độc lập, một lời tâm sự, tự nhắc nhở chân thành, với giọng điệu trầm lắng, sâu lắng. Kết cấu và giọng điệu làm nổi bật chủ đề và cảm hứng cho bài thơ.

                        Hình ảnh thơ vừa cụ thể, vừa khái quát, mang ý nghĩa biểu tượng sâu sắc, hàm chứa chất suy tưởng, triết lí sâu sắc. Các câu thơ mạch lạc, không dùng dấu câu, không viết hoa đầu dòng (trừ chữ đầu mỗi khổ thơ), thể hiện một tư tưởng thường trực, tha thiết, sâu sắc.

                        Tóm lại, qua bài thơ này, người đọc thấy được ý nghĩa sâu xa và những bài học triết lí sâu sắc mà nhà thơ muốn gửi gắm đến người đọc, đó là thái độ “Uống nước nhớ nguồn” và trung thành với lòng nhân ái của con người. vừa qua.

                        Phân tích bài thơ “Ánh trăng” – Văn mẫu 11

                        Nhà thơ Nguyễn Duy có nhiều tác phẩm chân chất, giản dị. Bài thơ “Ánh trăng” của tác giả được sáng tác tại Thành phố Hồ Chí Minh năm 1978. Thơ sử dụng những hình ảnh vô tri vô giác để đánh thức và lay động cảm xúc của con người.

                        Bài thơ “Ánh trăng” mở đầu bằng hình ảnh ánh trăng quen thuộc, gắn liền với những kỉ niệm thân thương của tuổi thơ và thời chiến tranh khốc liệt:

                        Thuở nhỏ tôi sống với đồng ruộng, với sông, rồi với ao hồ, khi ở trong rừng, vầng trăng trở thành tri kỷ.

                        Hình ảnh “Ánh trăng” có thể nói đã trở thành một biểu tượng đẹp đẽ của tuổi thơ tác giả, gắn liền với một kí ức tuổi thơ đẹp đẽ, khó quên. Ánh trăng nhè nhẹ rắc từ cánh đồng quê hương, từ dòng sông, từ bến nước nuôi dưỡng tâm hồn mỗi người.

                        Giữa ngọn lửa chiến tranh, Moonlight, người yêu thời thơ ấu, đã trở thành một người bạn trung thành và kiên định. Tác giả Nguyễn Vệ đã nhân hóa ánh trăng như lời tâm sự của những người lính tham chiến, đến từng chi tiết. Tình cảm giữa ánh trăng và người lính thật đáng quý biết bao. Ở phần tiếp theo, tác giả kéo ánh trăng lại gần, mỉa mai:

                        Thiên nhiên trần trụi, ngây thơ như cây, không quên trăng

                        Dù thế nào thì “Ánh trăng” cũng nhất quán, tạo cho tác giả một cảm giác “không bao giờ quên”. Ánh trăng trong sáng thể hiện lòng biết ơn và lòng trung thành, luôn nhắc nhở tác giả không quên hình ảnh trung nghĩa không thể nào quên. Nhưng tác giả quên mất hình ảnh vầng trăng:

                        Từ khi về thành phố, tôi đã quen ánh điện trong gương, ánh trăng soi qua ngõ, như người lạ qua phố

                        Trở về với cuộc sống sau chiến tranh, trở về với hòa bình, cuộc sống hiện đại tiện nghi với ánh đèn điện đã khiến tác giả quên đi ánh trăng và lời tâm sự xưa. Hai đoạn cuối giọng trầm lắng hơn, dùng từ “ngoại” để diễn tả sự ngậm ngùi.

                        Man và Moonlight từng là bạn thân và người quen, nhưng bây giờ tác giả lại tàn nhẫn và thờ ơ với anh như một người qua đường. Hình ảnh ẩn dụ “như người dưng” này khiến người đọc chạnh lòng, ngậm ngùi. Hoàn cảnh đặc biệt khiến tác giả ngộ ra nhiều điều:

                        <3

                        Khi “đèn vụt tắt”, tác giả ngỡ ngàng vì căn phòng tối đen như mực, những chuyển biến nhanh chóng đã làm thay đổi tất cả. Cửa sổ “lộp bộp”, tác giả xấu hổ vì “trăng tròn bất chợt”. Câu thơ này cho thấy từ xưa trăng tròn vành vạnh ai biết.

                        Qua đoạn thơ này, tác giả nhận ra sự vô tâm, quên quá khứ của mình, Ánh trăng xưa là bạn thân, nay hổ thẹn quên đi. Phần cuối cùng:

                        Trăng tròn, vành tròn, người vô tội đến đâu, trăng vẫn lặng lẽ mà ta vẫn bàng hoàng

                        Những cặp đối lập song hành đủ khiến lương tâm con người nhận thức được nhiều điều. Tác giả sử dụng những từ như “vô biên”, “chảo” để người đọc cảm nhận được sự khắc nghiệt của ánh trăng. Từ chiến tranh đến hiện đại, cuộc sống đã thay đổi rất nhiều, con người dù có đổi thay nhưng ông trăng xưa vẫn bao dung, độ lượng với người. Khổ thơ cuối để lại niềm xúc động, nghẹn ngào cho ánh trăng hiện đại.

                        Giọng thơ đượm buồn, chất tự sự dường như là nỗi nhớ của tác giả đối với vầng trăng, người bạn thân từ thủa ấu thơ đến thời kháng chiến chống Nhật. Ánh trăng của tác giả gợi cho người ta nhớ về thời người lính gắn bó với thiên nhiên trong chiến tranh.

                        Bài thơ này nhắc nhở con người phải trung thành, biết thương yêu kính trọng nhau, sống không quên quá khứ.

                        Phân tích bài thơ “Ánh trăng” – Văn mẫu 12

                        Trong thơ ca, trăng là nguồn cảm hứng vô tận của thi nhân. Tôi biết Moonlight là bạn của bạn trong tù; chúng tôi biết một mặt trăng bí ẩn ở Hanmotu. Trong “Dưới ánh trăng” của nhà thơ Nguyễn Việt cũng có trăng. Chính vầng trăng như một liều thuốc thử, nhắc nhở mỗi người cách sống, cách ứng xử.

                        Mở đầu bài thơ là hình ảnh đồng áng xa cách giữa người và trăng:

                        Thuở nhỏ tôi sống với ruộng đồng, với sông, sau với hồ, và khi tôi ở trong rừng, vầng trăng trở thành tri kỉ

                        Ca từ giản dị như lời thủ thỉ, kết hợp với từ láy “với” cho thấy tuổi thơ đầy giản dị, mộc mạc và hoài niệm về cây cỏ, thiên nhiên. Trong số những người bạn ấy không thể thiếu vầng trăng mát, nó luôn ở bên em, cùng em chia sẻ mọi vui buồn của tuổi thơ, vì thế “vầng trăng trở thành người bạn tri kỷ”.

                        The Moon còn hơn cả một người bạn, thấu hiểu và đồng cảm với những cảm xúc, những khó khăn, hoạn nạn mà bạn đang trải qua. Vầng trăng hiện ra trần trụi, đến gần, không chút mưu lợi: trần trụi với thiên nhiên/ ngây thơ như cây cỏ. Giữa trăng và người là hai hình ảnh của hai ngọn sóng, song song với nhau, nếu trăng xuất hiện thì người luôn ẩn mình. Để rồi khi kết thúc hiệp 2, người ta phải thốt lên:

                        Tưởng sẽ không bao giờ quên vầng trăng tình yêu

                        Bên nhau trăm năm một ý, cùng nhau vui buồn, khiến người ta khó quên. Không ngờ cuộc đời lại có quá nhiều gian truân, rắc rối, khiến chúng ta vô thức đánh mất đi những điều bình dị mà ý nghĩa. Chữ “si” đặt ở đầu câu là lời độc thoại bàng hoàng, thú nhận muộn màng. Hạnh phúc giản dị không tô điểm bị lu mờ bởi sự rực rỡ, xa hoa của những vật chất tầm thường, để rồi ta vô tình quên đi những điều thiêng liêng:

                        Từ khi về thành phố, tôi đã quen với ánh đèn cửa gương, ánh trăng soi ngõ, như kẻ lạ trên phố

                        Ở khổ thơ thứ ba, trăng được nhân cách hóa thành một con người cụ thể. Ngỡ trăng vẫn là tri kỷ, tình bạn bền chặt không khác gì người ngoại. Thời gian là một lực lượng tàn phá khủng khiếp có thể biến một mối quan hệ thiêng liêng và đẹp đẽ thành một mối quan hệ chưa từng có trước đây. Tình yêu thật khó vì thời thế, vì lòng người khó lường.

                        Trong vòng xoáy kim tiền, người ta mải miết tìm kiếm những xa hoa, dục vọng, để rồi khi: “Chợt đèn tắt/ Trong nhà tối om”, thì người ta mới có thời gian nhìn lại bản thân, nhìn lại bản thân. nguyễn duy đã biến cái sự cố mất điện rất đỗi bình thường thành nút thắt, đẩy bài thơ lên ​​cao trào, và chính vì giây phút ấy mà người ta có dịp suy nghĩ về hành động của mình. mình trong cuộc sống.

                        Mở nhanh cửa sổ trăng rằm

                        Toàn bộ phần này là một loạt các hành động khẩn cấp, liên tục. Khi con người mất đi ánh sáng nhân tạo, họ lập tức tìm kiếm nguồn ánh sáng khác – ánh sáng tự nhiên. Đột nhiên họ gặp lại những người bạn cũ của họ. Họ giật mình, sửng sốt không nói nên lời. Trăng lặng, vẫn tròn, thủy chung, quá nhiều cảm xúc dồn vào tác giả: “ngước mặt lên / có giọt lệ / ruộng là ao / sông là rừng”.

                        Trong giây phút tĩnh lặng, người đối diện với trăng, bao kỉ niệm của những năm tháng gắn bó lại ùa về trong tâm trí tác giả. Chính cánh đồng, sông hồ, rừng cây đã gắn bó thân thiết với các em trong tuổi thơ và trong những năm kháng chiến ngoan cường, gian khổ. Mặt trăng là quá khứ ân nghĩa thủy chung mà con người không có ý định lãng quên. Trải qua bao thăng trầm, bao thăng trầm, vầng trăng vẫn nguyên vẹn, vẫn trung thành và độ lượng với con người:

                        Mặt trăng cứ quay và quay, dù nó có vô hình đến đâu. Mặt trăng đủ yên tĩnh để làm chúng ta ngạc nhiên.

                        Mỗi khổ thơ đều sử dụng một loạt từ lóng: tiêu điều, ảo ảnh và mỗi khổ thơ mang một giá trị biểu cảm khác nhau. Từ Ye Yuan thể hiện tình yêu và lòng trung thành của mặt trăng trong suốt thời đại. Lời thóa mạ là sự im lặng giúp người ta tỉnh ngộ, là cái nhìn nghiêm khắc khiến người ta nhận ra sự bội bạc của mình.

                        Nhưng đồng thời, sự im lặng ấy cũng thể hiện tấm lòng bao dung, độ lượng của Trăng, hay nói rộng hơn là sự thủy chung, trung thành của người xưa. Nỗi kinh hoàng ở cuối bài thể hiện sự hối hận, ý thức được lỗi lầm của mình. Nguyễn Duy đã vận dụng một cách khéo léo, tinh tế hình ảnh vầng trăng cùng với quá trình nhận thức của nhân vật trữ tình để làm nổi bật tư tưởng, chủ đề của tác phẩm.

                        Với giọng điệu tự nhiên, tình cảm chân thành, bài thơ gợi cho bao thế hệ những hình ảnh tượng trưng. Nhắc nhở chúng ta về một đời thủy chung, về quá khứ, về những người đã hy sinh để chúng ta có được cuộc sống bình yên, hạnh phúc như ngày hôm nay. Bài thơ này ra đời đã lâu nhưng vẫn giữ nguyên giá trị nhân văn tốt đẹp.

                        Phân tích bài thơ “Ánh trăng” – Văn mẫu 13

                        Bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy ra đời năm 1978, năm đất nước bước vào xây dựng. Chiến tranh đã đi qua nhưng dư âm của nó vẫn còn vang vọng trong lòng biết bao thế hệ, như quy luật của cuộc sống sau chiến tranh, sự xô bồ xây dựng khiến người ta quên quá khứ, quên quá khứ. Lòng tốt của nhiều người. Moonlight ra đời từ cảm hứng văn học tự truyện, thú tội sau năm 1978.

                        Ánh trăng trong văn học luôn là đề tài gắn liền với sự lãng mạn. Cùng với Ruan Wei, Moonlight thể hiện một ý nghĩa mới, mang đậm dấu ấn của cảm xúc thời đại. “Ánh trăng” là hình ảnh của quá khứ, của con người, của người chiến sĩ và của lí tưởng chiến đấu. “Ánh trăng” là bài thơ ngũ ngôn, có sáu khổ, ba đoạn, tương ứng với ba giai đoạn, ba hoàn cảnh khác nhau. cuộc sống quân ngũ. Hai đoạn đầu nói về sự gắn bó của người lính với ánh trăng. Hai câu cuối là lãng quên, hai câu cuối là lời tâm sự, nhắc nhở bản thân không được quên quá khứ.

                        Hình ảnh gắn liền với tình cảm yêu đương xưa kia chính là vầng trăng tri kỉ: “Vầng trăng tình yêu”. Thuở ấy, người lính sống với trăng, bầu bạn với trăng. Thời gian trôi qua được tính theo thứ tự sau: Thời thơ ấu: Những kỷ niệm mộc mạc nhưng khó quên, Chiến tranh trong rừng. Hai đoạn này liên quan đến Trăng, là người bạn tâm giao và tình yêu.

                        Ý nghĩa ẩn giấu trong tên của mặt trăng cho thấy mối quan hệ máu thịt giữa Bing và Yue – tất cả các mối quan hệ mật thiết giữa con người với nhau. Chiến tranh đã kết thúc, và những người lính trở lại cuộc sống hỗn loạn hàng ngày của họ. Hỗn loạn che khuất mặt trăng.

                        Từ khi về thành phố, tôi quen với ánh đèn rực rỡ và ánh trăng qua ngõ như người dưng

                        Hình ảnh đối lập của mặt trăng, ánh chớp của gương—là hình ảnh của tiện nghi vật chất. Một sự hiện diện thoải mái che phủ quá khứ, làm lu mờ ký ức. Gắn bó với trăng nhưng tình yêu với trăng đã phai nhạt: “Trăng qua ngõ/ Như một người, chợt qua đường”.

                        Chỉ khi hình ảnh của tiện nghi vật chất biến mất và người tình cũ lững thững xuất hiện trong vòng tròn bất biến của vầng trăng, quá khứ mới chợt ùa về trong ký ức như một lời nhắc nhở. .người đã quên quá khứ. Trăng bây giờ như gương mặt xưa, một gương mặt trong trẻo, giản dị, nghiêm nghị, soi sáng tâm hồn con người:

                        Ngước lên thấy nước mắt như ruộng, hồ như sông, rừng rậm.

                        Vầng trăng mang khuôn mặt dĩ vãng: khuôn mặt giản dị nghiêm nghị soi sáng tâm hồn con người.

                        Mặt trăng cứ quay và quay, cho dù nó có vô hình đến đâu. Mặt trăng đủ yên tĩnh để làm chúng ta ngạc nhiên.

                        Mặt trăng dường như không bao giờ “vừa tròn”. Cả bài thơ sáu lần sử dụng hình ảnh ẩn dụ vầng trăng để nói về quá khứ: vầng trăng khẳng định nghĩa tình thủy chung trọn vẹn của người dân chia cơm sẻ áo với chiến sĩ.

                        Ánh trăng không thay đổi bao nhiêu, càng chiến binh, nỗi day dứt trong tâm hồn càng sâu. Quan niệm nghệ thuật về lời tỏ tình ở cuối bài thơ là lời nhắn nhủ với chính mình: đừng quên quá khứ, đừng vô ơn. Nguyễn Minh Châu cũng thể hiện cảm hứng tự sám hối, thú tội trong truyện ngắn Bức tranh khắc họa chân dung lời thú tội của nhà văn và khẳng định bản chất tốt đẹp, hướng thiện vẫn sống mãi trong tâm hồn người chiến sĩ.

                        Xem Thêm : KELVIN LÀ GÌ? NHIỆT ĐỘ MÀU KELVIN ĐƯỢC GIẢI THÍCH NHƯ

                        “Ánh trăng” của Nguyễn Duy cũng là một lời tâm sự. Bài thơ kết thúc bằng tâm sự của một người trong cuộc. Nhà thơ đã dùng “Ánh trăng” để miêu tả hình ảnh nhân dân, một dân tộc trung nghĩa, hào hiệp.

                        Phân tích bài thơ “Ánh trăng” – Văn mẫu 14

                        Ruan Wei thuộc thế hệ các nhà thơ lớn lên trong Chiến tranh chống Nhật Bản. Anh có những tác phẩm hay và để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc. Một trong những bài thơ tiêu biểu là “Ánh trăng” viết năm 1978. Đoạn thơ này nhắc nhở người đọc sống một cuộc đời thủy chung, thủy chung bằng một hình thức nghệ thuật đặc sắc, riêng biệt.

                        Trước hết, “Ánh trăng” gợi lên trong lòng người đọc một kỉ niệm sâu sắc, ấm áp, tình cảm về người lính.

                        “Thuở nhỏ tôi sống với đồng ruộng và sông ngòi, sau này với ao hồ, khi tôi ở trong rừng trăng thành bạn tri kỷ”.

                        Tuổi thơ êm đềm, nhẹ nhàng, bình dị với ruộng đồng, sông ngòi, ao hồ đã nuôi dưỡng tâm hồn người chiến sĩ. Từ “cùng” được lặp lại ba lần thể hiện tình cảm gắn bó, trường tồn, thiết tha và nhịp thơ. Vầng trăng đã trở thành người bạn tâm tình, tri kỉ, gắn bó mật thiết với tuổi thơ trong sáng đẹp đẽ. Cứ thế, trăng đi qua những nơi hiểm trở nhất với bước chân của người lính trưởng thành theo năm tháng Trong chiến tranh:

                        “Trần trụi hồn nhiên, hồn nhiên như cây cỏ, tưởng không bao giờ quên tháng tri ân”.

                        Vầng trăng mang vẻ đẹp giản dị, nguyên sơ như vẻ đẹp tự nhiên, khiến nhân vật trữ tình dường như không bao giờ quên được vầng trăng si tình. Vậy là trăng không còn là vật vô tri vô giác nữa mà đã trở thành người bạn, người đồng chí, có linh hồn, nhịp đập và hơi thở của chính mình. Lời nhắn nhủ thầm kín của tác giả với người đọc là hãy sống chung thủy.

                        “Từ khi về thành phố, tôi đã quen với ánh sáng trong gương, trăng đi qua ngõ, như người lạ trên phố.”

                        Cuộc sống thay đổi, con người cũng phải thay đổi chính mình, bắt kịp nhịp sống hiện đại, bắt kịp vũ điệu của thời đại, tiếc thay vầng trăng yêu nhau đã không còn, mà đã trở thành người dưng, người dưng. Chính cuộc sống văn minh hiện đại, cuộc sống dễ dãi đã khiến người ta quên đi những gian khổ hào hùng năm xưa, những gì tốt đẹp nhất, thiêng liêng nhất trong ký ức, và giờ đây mọi thứ chỉ còn là người lạ, người lạ, người lạ. Một tình huống bất ngờ đã xảy ra, và chính lúc đó, tất cả những câu hỏi mà tác giả muốn gửi gắm được đặt ra:

                        “Đèn mua nhà chợt tắt, trăng tròn chợt hiện ngoài cửa sổ.”

                        Từ “bỗng” ở đầu khổ thơ diễn tả cảnh mất điện đột ngột trong đêm. “Mau, mở, tung” là ba động từ tìm ánh sáng đặt cạnh nhau, diễn tả sự khó chịu, bức bối, hành động khẩn trương tìm nguồn sáng của con người. Bóng trăng tròn tình cờ hiện ra giữa không trung, đột ngột và tự nhiên chiếu vào căn phòng tối, chiếu lên khuôn mặt ngước nhìn trời nhìn trăng. “Đột nhiên” là một từ rất đắt để diễn tả một tình huống hết sức bất ngờ. Như một nút thắt, khổ thơ gợi lên tâm trạng suy tư của người đọc:

                        “Ngước lên là ruộng, hồ, sông, rừng”.

                        Sự xuất hiện đột ngột của Mặt trăng châm ngòi cho một cuộc đối đầu đầy cảm xúc. Nhìn lên là một cử chỉ tôn trọng và thân mật. Từ “mặt” xuất hiện hai lần trong khổ thơ nhấn mạnh sự giao tiếp giữa trăng và người bằng một cử chỉ tập trung, chăm chú. Một ánh nhìn trực diện và những cảm xúc thiết tha trào dâng trong lòng nhà thơ, đó là cảm xúc trong kí ức tuổi thơ thật gần gũi, thân thiết, êm đềm, trong trẻo mà dưới ánh điện gương soi hình như đã nhòe đi, nhạt nhoà từ lâu. . Hình ảnh vầng trăng gợi nhớ đến thiên nhiên, nơi con người đã đi lại, sinh sống và gắn bó với nhau bằng máu thịt. Cảm xúc “nước mắt” là cảm xúc nghẹn ngào, xúc động, xúc động, như giọt nước mắt trực tiếp của nhân vật trữ tình:

                        “Trăng quay rồi quay, trăng lặng đến đâu cũng làm ta ngỡ ngàng.”

                        Mạch cảm xúc suy tư của nhà thơ đã phát triển thành chiều sâu suy tư triết lí về trăng. Hình ảnh vầng trăng tròn tượng trưng cho sự tốt đẹp, vẹn toàn, đầy đủ, trọn vẹn, không phai mờ của quá khứ. “Ánh trăng câm lặng” lặng như tờ giấy, không một lời trách móc, mặc cho người ta dửng dưng. Vì vậy, nhà văn Nguyễn Vệ muốn gửi gắm đến độc giả một thông điệp sắc bén về cuộc sống một cách hình tượng: con người có thể quên đi quá khứ, thiên nhiên nồng nàn, và vầng trăng, quá khứ luôn tròn đầy và viên mãn, độ lượng và vị tha. Trong bài thơ có sự tương phản giữa trăng tròn và kẻ vô danh, trăng lặng và người đã thức. Kết hợp nhân hóa, ẩn dụ, điệp từ “âm dương” gợi chính xác vẻ tròn trịa của trăng, đồng thời gợi không khí trầm lắng, đủ lắng vào lòng người khiến người ta phải suy ngẫm, day dứt. Bất ngờ là cảm giác và tâm lý suy tư khi một người đang suy nghĩ chợt nhận ra lối sống buông thả và bồng bột của mình, là sự bàng hoàng ăn năn và tự trách mình. Thay đổi là cần thiết mà không phản bội quá khứ.

                        Thơ kết hợp tự sự và trữ tình. Hình ảnh thơ giản dị, ngắn gọn mà xúc động, lại còn mang nhiều ý nghĩa tượng trưng, ​​tổng hòa lại tạo nên một bài thơ hay, xúc động khiến người ta lưu luyến không nỡ về.

                        Phân tích bài thơ “Ánh trăng” – Văn mẫu 15

                        Ruan Wei thuộc thế hệ các nhà thơ quân đội trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ đau thương và vẻ vang. Bài thơ “Ánh trăng” được viết tại Thành phố Hồ Chí Minh vào năm 1978, ba năm sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, thống nhất đất nước.

                        Có người đã trải qua mưa gió trong cuộc sống thanh bình, chứng kiến ​​những hy sinh to lớn của đồng đội, đồng bào, gắn bó sâu nặng với thiên nhiên mà vội quên đi những vất vả, gian khổ và vẻ đẹp của những năm không xa Ký ức.

                        p>

                        Bài thơ này là sự “ngỡ ngàng” nhìn lại của Nguyễn Duy. Nó có tác dụng đánh thức nhiều người ngoài ý muốn.

                        Ánh trăng trước hết là tiếng nói của trái tim, là sự tự vấn nội tâm của Nguyễn Duy. Nhà thơ đứng giữa hôm nay, nghĩ về quá khứ, từ chính tâm trạng của mình, tiếng thơ như một lời nhắc nhở. Trăng ở đây không chỉ là hình ảnh cụ thể của đất trời mà còn là biểu tượng của quá khứ tươi đẹp, của mối quan hệ giữa tình cảm cá nhân với nghĩa rộng và bao quát, mối quan hệ giữa nội dung cụ thể với bản chất. Khái quát về thơ.

                        Trong bài thơ vừa có thái độ dửng dưng, quay lưng lại với những hy sinh, mất mát của chiến tranh, vừa là một câu chuyện tình nghĩa, tìm về cội nguồn, tưởng nhớ những người đã khuất. Tiến thêm một bước nữa, “Moonlight” cũng đang nhắc nhở mọi người hãy sống đúng với sự thật của chính mình.

                        Sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tự sự và trữ tình khiến bài thơ này như một truyện ngắn được kể theo trình tự thời gian. Giọng điệu tình cảm được thể hiện qua thể thơ ngũ ngôn. Hai đoạn đầu là cảm nhận của nhà thơ về việc chống lại ánh trăng trong rừng. Nỗi khổ thứ ba là tình yêu trước mặt trăng ở thành phố Taiping. Nhịp điệu phần này tự nhiên, nhịp nhàng. Ở khổ thơ thứ tư, giọng điệu của bài thơ thay đổi, thể hiện thái độ ngạc nhiên của tác giả trước sự xuất hiện đột ngột của vầng trăng trong đêm mất điện. Hai dòng cuối trầm lắng, tha thiết rất phù hợp với dư vị trầm tư, thiền vị. Cảm xúc trữ tình của nhà thơ cũng tuôn trào theo lời văn tự sự. Nhà thơ nói:

                        “Thuở nhỏ tôi sống với ruộng, với sông, với ao; trong trận chiến ở rừng, trăng thành bạn tri kỷ.”

                        Nhà thơ tưởng sẽ không bao giờ quên tháng ngày tạ ơn đó. Thế nhưng, từ khi trở lại thành phố, ăn mặc bảnh bao và quen với những tiện nghi của cuộc sống hiện đại, đã mấy năm rồi tôi không còn nhìn trăng tri ân như khách lạ trên phố. Điều bất thường ở phần thứ tư là gợi ý tác giả thể hiện cảm xúc.

                        “Đột nhiên đèn vụt tắt, căn phòng tối om, cửa sổ bị thổi tung và đột nhiên trăng tròn.”

                        Ánh trăng soi sáng căn phòng. Chính vầng trăng bất ngờ xuất hiện trong khung cảnh ấy đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người, thổi bùng lên hoài niệm về một thời máu lửa chưa xa.

                        Phân tích bài thơ “Ánh trăng” – Văn mẫu 16

                        Ruan Wei là một nhà thơ lớn lên trong Chiến tranh chống Nhật Bản. Qua những bài thơ như “Hơi ấm rơm”, “Cây tre Việt Nam”, các tác phẩm của ông đã đi sâu vào lòng người bằng sự nhẹ nhàng, nhân hậu và dung dị của ngôn ngữ. Bài thơ “Ánh trăng” dựa trên tập thơ cùng tên của Hồ Chí Minh sáng tác năm 1978. Qua hình ảnh trung tâm, người đọc có những hiểu biết chân thực và sâu sắc hơn về cuộc sống và quá khứ. tâm trí.

                        “Ánh trăng” là một hình ảnh xuyên suốt 4 khổ thơ, xâu chuỗi những câu thơ đầy hoài niệm, suy tư về hiện tại và tiền kiếp. Có thể nói, Ruan Wei đã tạo dựng thành công hình ảnh “vô tri vô giác” vô cùng tinh tế nhưng lại có sức thức tỉnh và lay động lòng người.

                        Bài thơ mở đầu bằng hình ảnh Ánh trăng quen thuộc, gần gũi, gắn liền với những kỉ niệm thân thương của tuổi thơ và những năm tháng chiến tranh ác liệt:

                        Thuở nhỏ tôi sống với đồng ruộng, với sông, rồi với hồ, khi ở trong rừng, vầng trăng trở thành tri kỷ.

                        Có thể nói, hình ảnh “Ánh trăng” đã trở thành biểu tượng xuyên suốt tuổi thơ của tác giả, gắn liền với những kỉ niệm khó quên. Ánh trăng trong veo, dịu dàng soi rọi từ cánh đồng bao la, từ dòng sông, từ bến tàu – nơi nuôi dưỡng tâm hồn mỗi chúng ta.

                        Trong suốt những năm tháng gian khổ của “Triển Lãm”, ánh trăng trong ký ức tuổi thơ đã trở thành “bí mật”, người bạn đồng hành, người tri kỷ tình cảm và thủy chung son sắt. Có thể nói, Ruan Wei đã biến Moonlight Man thành người bạn tâm giao của cựu chiến binh, rất thông minh và rất láu cá. Sự gắn bó thân thiết, tình cảm chân thành, trong sáng giữa người chiến sĩ và anh trăng thật đáng khâm phục.

                        Hai mốc thời gian “tuổi thơ” và “thời chiến” làm cho ánh trăng ở phần tiếp theo trở nên gần gũi, trìu mến:

                        Thiên nhiên trần trụi, ngây thơ như cây, không quên trăng

                        Dù ở đâu thì “Ánh trăng” vẫn vẹn nguyên, nhân hậu, độ lượng khiến tác giả cảm thấy “không bao giờ quên”, nhưng đó chỉ là một “ý niệm”. Tháng ngày ân tình luôn nhắc nhở tác giả không quên.

                        Xem Thêm: Giải bài 7.1, 7.2, 7.3, 7.4, 7.5, 7.6 trang 18, 19 Sách bài tập Vật lí 7

                        Nhưng từ “tưởng” là dấu hiệu của sự rạn nứt, phần sau xin quên

                        Từ khi về thành phố đã quen đèn điện trong gương, trăng qua ngõ như khách lạ qua phố

                        Đèn điện, cửa gương, cuộc sống thành thị nhộn nhịp với đủ mọi tiện nghi khiến tác giả quên đi người bạn tâm giao năm xưa. Hai dòng tiếp theo của khổ thơ giọng trầm xuống khiến người đọc nghẹn ngào. Đặc biệt, cách dùng từ “ngoại kiều” gợi lên một cảm giác ngậm ngùi tột độ. Đã từng là tri kỷ, từng là “người ấy” tưởng chừng không thể quên, vậy mà giờ đây tác giả lại tàn nhẫn, thờ ơ, dửng dưng với anh, một người qua đường, vậy thôi. Cách so sánh ấy làm cho câu thơ tứ tuyệt ăn sâu vào lòng người, đầy tiếc nuối, đau khổ, xót xa.

                        Sau đó, ở phần tiếp theo, tác giả tạo ra một tình huống đặc biệt khiến tác giả nhận ra rằng:

                        <3

                        Đoạn này bộ tứ thay đổi đột ngột, có lẽ chính tác giả cũng thay đổi nhiều quá nên bộ tứ đột nhiên thành ra thế này. Sau chiến tranh, tác giả trở về với cuộc sống đời thường, bận bịu với thực tại, có lẽ ông đã “quên” quá khứ và tâm sự năm xưa. Cuộc sống bây giờ đèn điện sáng trưng, ​​ánh trăng mờ ảo. Mãi đến khi “đèn tắt” tác giả mới giật mình nhận ra căn phòng tối đen như mực, mới nhận ra lương tâm mình đã thay đổi. Từ “bỗng” được tác giả sử dụng tài tình, có thể nói đây là sự “bất ổn” trong tâm hồn, một sự thay đổi đột ngột, nhanh chóng khiến mọi thứ trở nên bất ổn. Cửa sổ “bật ra”, và có một điều khiến tác giả “bỗng trăng tròn” cảm thấy xấu hổ. Ý thơ của bài thơ này rất lạ, mà chữ cũng rất lạ, không thể nào trăng “bỗng” tròn được, vì nó đã tròn từ ngàn xưa, chỉ có người vô tâm mới không hiểu được.

                        Thật ra, chỉ đến đoạn này, tác giả mới nhận ra sự thờ ơ, lãnh đạm của mình với quá khứ và “người bạn tri kỉ” mà mình từng gắn bó. Chỉ trong 4 đoạn mà khiến người đọc cảm thấy lương tâm mình nhói lên một cách khó hiểu.

                        Đối diện với ánh trăng, tác giả cảm thấy “có nước mắt chảy xuôi”, không biết là ánh trăng đang khóc, hay là lòng đang khóc, có thể là cả hai. Cuộc hội ngộ bất ngờ và đau xót của tác giả. Ánh trăng vẫn thế, vẫn tròn đầy và thủy chung, nhưng con người đã thay đổi.

                        Đến câu thơ cuối, tứ tuyệt sắc nét:

                        Trăng tròn, trăng tròn lồng vào nhau, dù người biết thế nào, trăng vẫn lặng, cũng đủ làm ta ngỡ ngàng

                        Một sự đối lập song song cũng đủ đánh thức lương tâm mỗi người và nhận ra nhiều điều. Việc sử dụng những từ như “lơ đãng”, “lấp lánh” đủ để người đọc cảm nhận được sự khắc nghiệt của sự “bàng hoàng” và bừng tỉnh trước ánh trăng. Dù đời đổi thay, người đổi thay, nhưng ánh trăng vẫn thế, bao dung và độ lượng. Khổ thơ cuối gieo vào lòng người đọc bao cảm xúc khó tả và đánh thức những ai dần lãng quên quá khứ.

                        Bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Vệ đã để lại bài học sâu sắc cho nhiều người đọc bởi thể thơ lạ, độc đáo, lối hành văn mới lạ, xúc động, ngôn từ “độc”, đặc biệt là tình cảm của tác giả.

                        Phân tích bài thơ “Ánh trăng” – Văn mẫu 17

                        Ruan Wei là nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Những tác phẩm của ông đi sâu vào lòng người bằng sự chân thành, nhân hậu và giản dị. Bài thơ “Ánh trăng” là một bài thơ rất hay của Nguyễn Vệ, nó gợi cho tác giả nhớ về những năm tháng gian khổ ngoài chiến trận và nỗi nhớ thiên nhiên của ông.

                        Thơ là một vòng cảm xúc từ quá khứ đến hiện tại. Mở đầu bài thơ là hình ảnh ánh trăng nhân hậu, gửi gắm những kỉ niệm tuổi thơ thân thương của thời chiến tranh:

                        Thuở nhỏ tôi sống với đồng ruộng, với sông, rồi với hồ, khi ở trong rừng, vầng trăng trở thành tri kỷ.

                        Bài thơ này như một lời tâm sự hoài niệm về một sự kiện đã qua khi tác giả gắn bó với vầng trăng trong chiến trận ác liệt. Một cuộc sống hòa hợp với thiên nhiên, “cùng sông, cùng ao” với đất trời, một cuộc sống thật yên bình nhưng cũng không kém phần sung túc. Chiến tranh ác liệt, trong rừng sâu tăm tối, hiu quạnh, vầng trăng đã trở thành người bạn tâm tình của tác giả.

                        “Khỏa thân trước thiên nhiên…tháng tri ân”

                        Vầng trăng rất giản dị, rất trong sáng, không trang điểm, không màu mè, vô tư hồn nhiên, trăng vẫn đẹp. Tôi đã nghĩ mình sẽ không bao giờ quên được vầng trăng tri kỷ, vầng trăng tình yêu, nhưng không phải vậy :

                        “Từ khi về thành phố quen với ánh đèn bên cửa gương, trăng qua ngõ thấy mình như người xa lạ”

                        Chiến tranh kết thúc, những người lính rời chiến trường trở về thành phố sống một cuộc sống hối hả và bận rộn. Cuộc sống phù du và hoa lệ của “Cổng gương điện” dường như khiến người ta dễ dàng quên đi quá khứ, dù đó là quá khứ rất quen thuộc. Cuộc sống hiện đại ấy dễ khiến chúng ta quên mất rằng chúng ta đã cùng nhau trải qua những năm tháng chinh chiến, và chúng ta sẽ mãi thực hiện lời hứa “Ánh trăng tri ân”. Trăng bây giờ chỉ là một kẻ “không tên”. Giọng thơ và hình ảnh như trĩu xuống, như ngạt thở, một cảm xúc khó tả khiến lòng người day dứt.

                        Nhưng đời thường có luân hồi, không có gì là vĩnh cửu. Nhà thơ tạo ra một tình huống đặc biệt khiến tác giả nhận ra:

                        “Bỗng đèn tắt trong nhà tối, trăng tròn chợt ùa ra ngoài cửa sổ”

                        Câu thơ mang đến cảm xúc bất chợt. Các động từ, tính từ mạnh diễn tả mức độ dồn dập trong dòng cảm xúc của nhà thơ “chợt”, “vội vàng”, “chợt”, “chợt” là sự thay đổi trạng thái cảm xúc của con người. Trăng vẫn thế, vẫn vẹn nguyên, chỉ là con người đã thay đổi, không nhận ra hay vô tình quên đi những kỉ niệm đẹp với ánh trăng.

                        Chính trong hoàn cảnh ấy, kỉ niệm xưa ùa về như thác lũ, nhà thơ chợt gặp lại người yêu cũ, mừng khôn xiết:

                        “Hãy nhìn vào khuôn mặt của bạn

                        …rừng như sông”

                        Đối diện với vầng trăng hiền, nỗi nhớ về cánh đồng, sông hồ, rừng cây khiến tác giả chạnh lòng, xót xa vì đã vô tình bỏ quên ánh trăng.

                        Khổ thơ cuối thật ý nghĩa và đáng suy nghĩ:

                        “Trăng cứ quay, trăng lặng đến đâu cũng đủ làm lòng ta rộn lên”

                        Vầng trăng vẫn thế, vẫn “tròn”, vẫn lặng im, không một lời trách móc người, nhưng người lại vô tình lãng quên trăng, để khi gặp lại trăng phải bàng hoàng. Sự tương phản giữa trăng và người đủ đánh thức lương tâm mỗi người. Câu thơ này là lời nhắc nhở nhẹ nhàng, thấm thía cho những ai đang dần lãng quên quá khứ.

                        “Ánh trăng” của Nguyễn Duy có giọng điệu tình cảm, nhẹ nhàng như tự nhắc mình về những năm tháng gian khổ của người lính gắn bó với thiên nhiên, đất nước. Bài thơ này nhắc nhở con người phải biết sống có tình nghĩa, không quên quá khứ.

                        Phân tích bài thơ “Ánh trăng” – Văn mẫu 18

                        Nguyễn Duy là một nhà thơ lớn lên trong thời kì kháng Nhật cứu nước. Thơ ông giàu cảm xúc trữ tình và giàu triết lí sâu sắc. “Ánh trăng” ra đời năm 1978, ba năm sau ngày đất nước hoàn toàn giải phóng. Như nhắc lại những năm tháng khó khăn, cuộc đời của những người lính gắn bó với quê hương, thiên nhiên, đất mẹ.

                        Bài thơ “Ánh trăng” như một câu chuyện được kể theo trình tự thời gian, cả bài thơ chỉ viết hoa chữ cái đầu mỗi khổ thơ, cả bài thơ chỉ có một điểm duy nhất tạo nên sự nối tiếp cảm xúc của các nhân vật. yêu và quý. Đầu tiên là hình ảnh vầng trăng trong kí ức của nhân vật trữ tình.

                        “Thuở nhỏ sống trên đồng ruộng, bên sông, rồi sau trận chiến trong rừng, vầng trăng trở thành tri kỷ”

                        ngược dòng thời gian là đưa nhân vật trữ tình trở về với kí ức tuổi thơ. Sự kết hợp từ “và” được liệt kê: đồng, sông, máng vừa nhấn mạnh mối quan hệ gắn bó giữa con người với thiên nhiên, vừa mở ra một không gian bao la, cao rộng. Mọi người có thể nhìn thấy mặt trăng từ bất cứ đâu. Nhân hóa giúp Trăng trở thành người, thành người bạn tâm giao. Theo thời gian, mọi người cũng bắt đầu trưởng thành và trở thành một người lính trong quân đội. Trong đêm tối băng rừng vượt suối, băng rừng chờ giặc phục kích, trăng luôn đồng hành cùng người lính bất kể thời gian, không gian.

                        “Trần trụi hồn nhiên, hồn nhiên như cây cỏ, tưởng không bao giờ quên tháng tri ân”

                        Con người lúc bấy giờ thật chất phác, giản dị và chân chất, gắn bó với thiên nhiên như cỏ cây, sông suối. Phép nhân hóa cho thấy trăng và người giờ đây không chỉ là tri kỷ mà đã trở thành đôi bạn thân thiết tưởng chừng như không thể nào quên, không thể tách rời.

                        Thời thế đổi thay, con người đổi thay, hình ảnh vầng trăng hiện tại (1978) trong tâm trí tác giả cũng phai nhạt theo dòng thời gian.

                        “Từ khi về thành phố quen với ánh đèn bên cửa gương, trăng qua ngõ thấy mình như người xa lạ”

                        Chiến tranh kết thúc và những người lính trở lại cuộc sống bình thường. Nhân vật trữ tình trong bài thơ này cũng trở về với cuộc sống thị dân, đắm mình trong những điều mới mẻ, những thiết bị hiện đại “Gương sáng” không còn nhớ về quá khứ, về người bạn thân của mình, thời đại nào. Vầng trăng vẫn hiện ra theo sự luân hồi của thời gian, nhưng nay đã hòa nhập với ánh điện, hiện lên mờ ảo trong tâm trí người lính. Cuộc sống hiện đại, tiện nghi kéo theo lòng người có chút đổi thay, vô tình quên đi quá khứ, người xưa.

                        “Bỗng đèn tắt trong nhà tối, trăng tròn chợt ùa ra ngoài cửa sổ”

                        Có một hiện tượng trong cuộc sống của người thành thị, không gian tối đen như mực, họ đi tìm ánh trăng tự nhiên của vũ trụ theo bản năng. Từ “bỗng, chợt” diễn tả sự ngỡ ngàng trong giây phút gặp lại cố nhân. Ánh trăng soi tỏ căn phòng u tối, soi tỏ mọi ngóc ngách trong tâm khảm con người, soi tỏ nỗi nhớ bị lãng quên của người trữ tình. Từ đây, họ nhận ra mình đã từng là người không còn tình nghĩa với trăng, với quá khứ, với nhân dân, với đất nước. Hiện tượng mất điện không quá xa lạ với người thành thị, nhưng có thể nó là cái cớ để tác giả thể hiện chủ đề, suy nghĩ, bước ngoặt của câu chuyện của nhân vật trữ tình.

                        <3

                        Khi người đối diện nói với trăng, nghệ thuật ẩn dụ được tác giả vận dụng thành công. Những ngọn đèn soi sáng tâm trí nhân vật trữ tình, giúp họ nhận ra lỗi lầm của mình. Tại đây, họ có thể bày tỏ những giọt nước mắt, những cảm xúc nghẹn ngào trào dâng trong lòng.

                        Khổ thơ cuối của bài thơ mang hình tượng của vầng trăng:

                        “Trăng vẫn luôn tròn, dù người khờ dại có thế nào, trăng khuyết dù người dốt nát như thế nào”

                        Hình ảnh vầng trăng vừa mang ý nghĩa hiện thực vừa mang ý nghĩa tượng trưng sâu sắc, nhân hóa ánh trăng như chứng nhân của tình yêu, đồng thời trang trọng nhắc nhở con người về thái độ và tâm tư uống nước nhớ nguồn. nguồn. Vầng trăng bao dung, hào hùng, không than trách “không kể kẻ vô tội”, và càng khiến người đời bàng hoàng khi nhìn lại mình là kẻ bạc tình bạc nghĩa. Ở đoạn này, ta thấy được hai hình ảnh đối lập song hành: sự đối lập giữa vầng trăng tròn vành vạnh và sự thiếu vắng trong lòng người vô tâm; sự đối lập giữa sự im lìm của vầng trăng và sự chuyển động giật mình của nhân vật trữ tình. Khổ thơ cuối của bài thơ mang ý nghĩa tư tưởng của vầng trăng, mang đầy tính triết lí và chủ đề của tác phẩm.

                        Những bài thơ về ánh trăng thành công, giọng điệu giàu cảm xúc, nhịp điệu trôi chảy tự nhiên sâu sắc, giàu hình ảnh và triết lý sâu sắc. Bằng cách này, tác giả muốn dạy cho mọi người, đặc biệt là thế hệ trẻ chúng ta, một bài học đạo đức: sống cho hiện tại, nghĩ về tương lai và nhớ về quá khứ.

                        Phân tích bài thơ “Ánh trăng” – Văn mẫu 19

                        Nguyễn Duy là một nhà thơ lớn lên trong thời kì kháng chiến chống Nhật, những vần thơ hay của Nguyễn Duy đậm chất mộc mạc, hồn nhiên trong sáng nhưng chứa chan những suy tư về cuộc đời khiến người đọc phải suy ngẫm, suy ngẫm và trải nghiệm. “Ánh trăng” là bài thơ tiêu biểu cho phong cách Nguyễn Duy, nó nhắc nhở con người, đặc biệt là những người lính, về quá khứ gắn bó với thiên nhiên đất nước.

                        Bài thơ “Ánh trăng” được sáng tác trong tập thơ cùng tên năm 1978. Sau Chiến tranh chống Nhật Bản, Ruan Wei đã viết một bài thơ rằng mọi người trở lại cuộc sống hiện đại và quên đi quá khứ đằng sau nó. Bài thơ ca ngợi thiên nhiên tươi đẹp và ánh trăng sáng đã đồng hành cùng người lính trong những năm tháng chiến đấu nơi chiến trường, đồng thời cũng cảnh tỉnh con người phải sống thủy chung, giữ gìn đạo đức.

                        Mở đầu bài thơ là hình ảnh ánh trăng thiên nhiên trong tuổi thơ mục đồng in sâu trong kí ức nhà thơ. Giọng thơ trầm lắng, như đang kể về một quá khứ tươi đẹp.

                        “Thuở nhỏ sống với ruộng đồng, sông ngòi, rồi với ao hồ, chiến tranh với rừng núi, vầng trăng trở thành tri kỷ.”

                        Tuổi thơ, trăng đã từng làm thơ. Hình ảnh vầng trăng xuất hiện cùng với “đồng, sông, ao” gieo vần làm cho lời thơ mềm mại, uyển chuyển đồng thời cho thấy tuổi thơ gắn bó đẹp đẽ của tác giả với thiên nhiên. Từ “giống nhau” càng khẳng định điểm này. Chiến tranh bùng nổ, cậu bé lớn lên theo năm tháng, tham gia kháng chiến, vầng trăng đã theo người lính trẻ, cùng anh vượt qua những bước gian nan ban đầu. Nhà thơ dùng từ “bát giác” để nhấn mạnh nỗi nhớ xưa với trăng. Cùng với tuổi thơ và những năm tháng chiến trường, Trăng trở thành người bạn tâm tình không thể thiếu đối với người lính.

                        Nhà thơ cũng bày tỏ tình cảm sâu sắc với người bạn tâm sự dưới trăng:

                        “Trần trụi hồn nhiên, hồn nhiên như cây cỏ, tưởng không bao giờ quên tháng tri ân.”

                        Nhà thơ miêu tả trăng như một người bạn thực sự. Bốn chữ “trần trụi và hồn nhiên” thể hiện tính cách của trăng như một người bạn chân chất, thẳng thắn như cây cỏ, hiền lành chất phác. Gắn bó với trăng như vậy, dường như nhà thơ không bao giờ quên ánh trăng và tình bạn tri kỷ đã lâu không gặp. Giống như từ “suy nghĩ” ở đầu câu có nghĩa là điều gì đó tồi tệ sắp xảy ra. Chính nhân vật trữ tình đã quên trở về với ánh trăng tri ân của cuộc sống hiện đại:

                        “Từ khi về thành phố, tôi đã quen với ánh đèn rực rỡ và ánh trăng như một người xa lạ.”

                        Sau chiến tranh, con người trở về với cuộc sống hiện đại, trở về với những tiện nghi tối tân như “đèn điện, cửa gương”, quên dần cuộc sống khó khăn của những năm tháng chiến tranh. Nhịp sống hối hả, gấp gáp của con người hiện đại khiến họ quên đi tháng tri ân. Thế là trăng đi qua ngõ như khách lạ qua đường. Nghệ thuật nhân hóa và so sánh đã biến trăng thành chúng sinh. Và đau đớn biết bao khi Moon là người bạn tâm giao, tình bạn ấy giờ đã là người dưng không còn mối liên hệ.

                        Nguyễn Duy xây dựng tình huống truyện trong bài thơ, tạo kịch tính và nút thắt cho truyện thơ của Trăng:

                        “Thình lình đèn vụt tắt. Một căn phòng tối om tràn ra khỏi cửa sổ, và đột nhiên trăng tròn.”

                        Từ láy bất ngờ đặt ở đầu câu nhấn mạnh đây là một tình huống đặc biệt không được chuẩn bị trước, gây bất ngờ. Trong không gian có đèn điện, người ta không thấy trăng, sau khi tắt đèn, tòa nhà tối đen như mực, người ta theo bản năng tìm ánh sáng tự nhiên, tức là mở cửa sổ. Các động từ như lao, rẽ và quăng được đặt cạnh nhau để chỉ hành động nhanh chóng và tự phát của con người. Từ “ngất ngưởng” diễn tả sự ngạc nhiên, sửng sốt của con người khi nhìn thấy ánh trăng. Và hình ảnh vầng trăng rất rõ ràng, trăng rằm vẫn đẹp nhưng lòng người đã nhạt nhòa.

                        <3

                        “Ngước lên thấy nước mắt như ruộng, biển như sông, rừng”.

                        Gặp lại bạn cũ, dĩ vãng như thác đổ, nhà thơ không khỏi mừng rơi nước mắt. Tác giả đã dùng từ “khuôn mặt” trong bài thơ Đây là vầng trăng, hay khuôn mặt của người bạn tri kỷ bao năm không liên lạc, người bạn gọi vẫn nhớ về tuổi thơ đẹp đẽ trong những năm tháng chiến tranh. Cuộc đấu tranh khốc liệt đi kèm với ánh trăng già. Bản thân nhà thơ dường như cũng ý thức được sự kém cỏi của mình

                        Cuối bài thơ là suy ngẫm sâu sắc của tác giả về trăng và người

                        <3

                        Trăng vẫn tròn, vẫn tròn. Từ trăng khuyết như một lời khẳng định về sự toàn vẹn của vầng trăng, một lời khẳng định về tình thân thiết không phai mờ với thời gian của vầng trăng, mặc dù con người đã quên mất ánh trăng và tình yêu của ngày nào. Ánh trăng giống như một người bạn nghiêm khắc nhưng đầy lòng vị tha. Dù người đã quên ánh trăng, thì trăng vẫn còn đó, còn nguyên vẹn kiếp trước, trung thành chờ đợi người. Sự im lặng của vầng trăng càng làm cho người ta thấy rõ lòng vị tha của mình hơn. Và cái ngỡ ngàng cuối bài thơ là sự thức tỉnh của lương tâm, tìm lại được người tri ân như phút ban đầu. Đây là sự ngạc nhiên đáng trân trọng mà mọi người cần có.

                        “Ánh trăng” dường như đã thoát ra khỏi những câu chuyện thơ ý nghĩa của Nguyễn Duy và đến được với độc giả, ai cũng có ánh trăng của riêng mình, vô cùng trung thành và tình cảm. Hình ảnh ánh trăng sẽ mãi đi cùng với cái tên nguyễn duy.

                        Phân tích bài thơ “Ánh trăng” – Văn mẫu 20

                        Bài thơ “Ánh trăng” được Nguyễn Duy sáng tác năm 1978, nằm trong tập thơ “Ánh trăng”. Tập này đã đoạt Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 1984. Qua hình tượng nghệ thuật “Ánh trăng” và cảm xúc của nhà thơ, bài thơ phản ánh sâu sắc thái độ của con người đối với con người, với những gian khổ và lòng biết ơn quá khứ.

                        Cuộc đời mỗi người dù đi đến đâu cũng không thể thiếu vầng trăng yêu thương. Chỉ là đôi khi người ta bỏ quên trăng, nhưng trăng luôn ở bên người, sẵn sàng sẻ chia tâm tình cùng người. Vì thế, với ai, trăng cũng sẵn sàng là người bạn tâm giao. nguyễn duy cũng vậy:

                        “Thuở nhỏ tôi sống trên đồng ruộng, sông nước, rồi kết thân với ao, với rừng, với trăng”

                        Thể thơ ngũ ngôn có nhịp điệu uyển chuyển, thể hiện sự vận động của thời gian và không gian. Hơn hết, hình tượng không gian (sông-sông-ao-rừng) diễn tả sự vận động của thời gian: quá trình trưởng thành của tác giả (nhỏ-lớn lên-đi-chiến đấu)…trong quá trình đó, thời gian là khoảng thời gian như thế nào. con người liên hệ với thiên nhiên, Một quan niệm sống cao đẹp chan hòa với vầng trăng và có sự gắn bó không thể tách rời. Từ “cùng” được lặp lại ba lần gợi tả cảm nhận về vẻ đẹp của thiên nhiên ở lứa tuổi trẻ hơn rất nhiều: ngắm trăng trên đường quê, bên sông, trên bãi bồi. Vì vậy, những kỉ niệm tuổi thơ vui vẻ được ở bên trăng, sống cùng trăng đã trở thành ấn tượng khó phai mờ trong tâm trí em.

                        Lớn lên và lên đường, băng qua sông núi, rừng sâu, vầng trăng là người bạn đồng hành, cùng vui, cùng thắng, cùng buồn. Chồn và nỗi nhớ nhà, nhớ nhà da diết. Vậy trăng là tri kỉ, là tình yêu.

                        Khổ thơ thứ hai là tiếng nói hoài niệm về cuộc sống quân ngũ những năm tháng gian khổ đã qua, gắn bó với nét dịu dàng bình dị của thôn quê:

                        “Trần trụi hồn nhiên, hồn nhiên như cây cỏ, tưởng không bao giờ quên tháng tri ân”

                        Vì tâm hồn người lính hồn nhiên mở lòng với thiên nhiên, không gì chia cắt được. Con người thời bấy giờ sống thật thà, vô tư, không gian dối, không toan tính, mà sống một cách tự nhiên “hồn nhiên như cây cỏ” và coi thiên nhiên như một nhân cách, coi bản chất như một con người. Vầng trăng là biểu tượng cao đẹp của những năm tháng ấy, những tưởng “tháng tri ân”, “tháng tri ân” sẽ không bao giờ quên. Một câu thơ lay động tâm hồn, như một sự thức tỉnh lương tri của những kẻ vô tâm: “Những tưởng không bao giờ quên”. Chữ “tưởng” như ngọn đèn sáng, báo rằng sẽ quên, có câu tác giả tự trách mình…

                        “Từ khi về phố quen ánh trong gương, trăng qua ngõ như trăng qua phố”

                        Ở thành phố đầy đủ tiện nghi vật chất, trong những ngôi nhà cao tầng, tôi đã quen với ánh cửa gương sáng, hoàn cảnh sống thay đổi, con người dễ thay đổi, đôi khi vô tâm, có người trở nên ” kẻ ăn tiền”. Cuộc sống hôm nay, ánh điện chói chang, làm lu mờ ánh trăng dịu dàng. Trăng được nhân hóa qua ngõ, nhưng qua đường như khách lạ. Tác giả thiết lập mối quan hệ giữa vầng trăng trìu mến xưa và trăng trong hiện tại và trăng “như khách qua đường” Hai hình ảnh tương phản. Sự tương phản này diễn tả sự thay đổi trong tình cảm của con người. Trước sự giàu sang vô số, con người có thể bội bạc, lợi dụng tình cũ để thay đổi tình cảm. Đây cũng là quy luật của đời sống tình cảm con người.Nhà thơ Họ cũng đã viết Đường:

                        “Khi bạn đến thành phố, bạn có thể nhìn thấy ngọn núi Dongjie, nhớ làng đèn và nhớ Lin Yueyue không?”

                        Yueyuan, người thân của Yue, Yue là tình yêu, là tri kỷ và sẽ không bao giờ rời xa. Chỉ có con người là thờ ơ với mặt trăng. Nguyễn Duy băn khoăn, tự trách mình đã bất cẩn, coi trăng là “khách lạ trên đường”.

                        Cấu trúc bài thơ có chút kịch tính khi diễn tiến đến câu thứ tư, bất ngờ và đột ngột:

                        “Bỗng đèn trong phòng tối tắt, tôi lao ra ngoài cửa sổ, bỗng trăng tròn”

                        Chuyện mất điện đột ngột vào ban đêm là điều hiếm thấy ở thành phố ta năm ấy (1978), tác giả vốn đã quen ánh đèn, không chịu được bóng tối trong nhà đã “đập tung cửa sổ” rồi “bỗng trăng tròn”. “vội vã”, “Những từ như “nảy”, “bỗng” diễn tả trạng thái cảm xúc mạnh mẽ, bất ngờ. Chẳng phải trăng tròn ở giữa không trung, giữa không trung, khi “đèn tắt” sao? Bao giờ cũng vậy, cánh đồng, dòng sông, Vẻ đẹp của hồ nước và rừng cây chưa bao giờ mất đi, chỉ là con người có ý thức hay không mà thôi.

                        Và vào khoảnh khắc “bất chợt” ngửa mặt nhìn trăng ấy, “tiếng rung” của tình xưa lại ùa về khiến người ta bật khóc:

                        <3

                        Từ “mặt” được sử dụng theo nghĩa gốc và nghĩa dịch của nó—mặt trăng, khuôn mặt của một người—mặt trăng và người ở phía đối diện nói chuyện với nhau. Ở tư thế “ngửa mặt” người đọc cảm nhận được sự im lặng, thành kính và cảm xúc nhất thời trào dâng khi được gặp lại vầng trăng: “nước mắt chảy dài trên khuôn mặt”. Những giọt nước mắt nhớ nhung, sự lãng quên lạnh lùng của một người bạn cũ; sự thức tỉnh của lương tâm sau những ngày chìm đắm trong cõi mộng; những giọt nước mắt hối hận về những việc làm đã qua. Một chút áy náy, một chút ân hận, một chút chạnh lòng hòa thành “nước mắt”, thổn thức sâu thẳm trong lòng người lính.

                        Và khoảnh khắc nhân vật trữ tình nhìn thẳng vào vầng trăng, biểu tượng đẹp đẽ của một thời đã xa, trong tâm hồn ông bao nhiêu kỉ niệm chợt ùa về. Những ký ức tuổi thơ rực rỡ, những ký ức chiến tranh đẫm máu, những ngày xưa tốt đẹp dần hiện ra trong dòng chảy yêu thương “như ruộng như hồ, như nước như rừng”. Cánh đồng, hồ nước, dòng sông, rừng cây, những hình ảnh gắn liền với không gian kí ức.

                        Cấu trúc đối lập của hai câu thơ, nhịp điệu nhanh và tỉ lệ, phép điệp ngữ, phép liệt kê có vẻ gợi tả rõ hơn kí ức về khoảng thời gian ấy hoà với thiên nhiên, với trời trăng to và sâu, với tình yêu và tình cảm. Chính ánh sáng giản dị, nhân hậu của ánh trăng đã soi sáng bao kỉ niệm đẹp, đánh thức bao cảm xúc tưởng như đang ngủ yên trong góc tối tâm hồn người lính. Chất thơ chân thành như vầng trăng hiền, ngôn ngữ cô đọng, trong sáng như “có gì xé ra” đã chạm đến cảm xúc của người đọc.

                        Đoạn cuối mang nhiều hàm ý, dẫn đến chiều sâu tư tưởng triết học:

                        “Trăng cứ quay, trăng lặng đến đâu cũng đủ làm lòng ta rộn lên”

                        Hình ảnh “vầng trăng luôn tròn vành vạnh” tượng trưng cho tình nghĩa thủy chung, thủy chung, vẹn tròn, bao dung, nhân hậu. Trăng không oán trách hay oán trách “người dân vô tội” bởi đó là Trăng của sự độ lượng, bao dung và truyền thống nhân nghĩa của dân tộc.

                        Hình ảnh “Ánh trăng thinh lặng” còn là hình ảnh của một lương tâm nghiêm chỉnh, nhắc nhở con người về lòng trung thành, gắn bó với quê hương, thiên nhiên, con người từ chính sự im lặng của mình. Chính sự tĩnh lặng của vầng trăng đã đánh thức con người và làm xao động tâm hồn những người lính năm xưa. Bị “sốc” bởi ánh trăng là sự thức tỉnh nhân cách và trở về với lương tâm trong sạch. Đó là một từ tiếc nuối, hối hận và đẹp đẽ. Vòng cảm xúc của bài thơ này kết thúc ở cái “bất ngờ” ở cuối bài thơ. Đây là lời thú nhận và tự trách mình, nhắc nhở tôi phải sống có ý nghĩa và không quên ân nghĩa năm xưa dù trong hoàn cảnh nào.

                        Với giọng điệu buồn tự nhiên và hình ảnh biểu cảm, “Moonlight” là lời nhắc nhở về lý do để sống trong tình yêu và lòng trung thành tự nhiên với đất nước của một người. Từ đó, chúng ta càng trân trọng quá khứ và có thái độ “uống nước nhớ nguồn”.

                        Việt Bắc đã nhắc đến vầng trăng ân tình thủy chung trong bài thơ “Kết bạn”. Sự chuyển đổi tình cảm của thực tế chính trị thành thơ là một dấu hiệu của thơ chính trị trữ tình cánh hữu. “Dời đô” (Việt Bắc là thủ đô Kháng chiến – Thổ Hồ được mệnh danh là “kinh đô của muôn gió”) đã trở thành câu chuyện của những người cách mạng yêu rừng, yêu chiến khu, yêu đồng bào, yêu nước. yêu quê hương của họ. vừa qua. , với chính họ. Cặp đôi xưng hô với nhau theo một cách rất dân dã: ta-me. Điều tôi quan tâm nhất ở bạn và tôi là tình yêu – lòng trung thành:

                        Tôi về thành phố xa, còn thấy núi không? Đông về còn nhớ xóm làng sáng trưng, ​​trăng giữa núi rừng? Anh đi, hỏi bao giờ Việt Nam tưng bừng hơn

                        p>

                        “Em Về Anh Nhớ Em” là một câu chuyện có thật! Nhưng “anh sẽ nhớ em khi anh đi”, lòng trung thành được đẩy lên một mức độ rất sâu sắc. Nếu rời Việt Nam, chúng ta sẽ xa những lúc khó khăn, những nơi khó khăn và có thể chúng ta sẽ quên rằng chúng ta đã giúp đỡ chúng ta. Nhưng tôi có nhớ được mình không, có giúp được gì cho mình không? Nhớ những tháng ngày cần cù, gian khổ, yêu thương, thủy chung giữa núi rừng? Những câu hỏi sâu sắc và thân thương này đã giúp phổ biến và quy ước hóa câu hỏi về cách mạng, một câu hỏi của ngày hôm nay. Người ra đi cũng đáp lại với tinh thần như vậy. Thế nhưng, đến với bài thơ “Dưới ánh trăng” của Nguyễn Vệ, chúng ta mới “ngỡ ngàng” hiểu rằng, người ra đi năm ấy đã vội quên lời dặn của người ở lại.

                        Hình ảnh vầng trăng và người lính là hai hình ảnh có mối liên hệ bản chất trong thơ ca. Có lẽ, không gian chiến đấu của người lính thường là nơi núi sâu, trong không gian yên tĩnh, chỉ có vầng trăng là điều rực rỡ và đáng nhớ nhất, như nguồn sống vô tận, nó lặng lẽ đi vào tâm hồn người lính. Nhà thơ thật thà có những lời đẹp trong bài thơ “Đồng chí”:

                        Đêm nay rừng hoang mù sương kề vai sát cánh quân thù, trăng sáng treo đầu súng.

                        Ba câu kết vừa mơ hồ vừa hiện thực, có thể nói là một phát hiện mới đầy táo bạo của nhà thơ. Đây là bức tranh đẹp về tình đồng chí đồng chí, là biểu tượng cao quý của đời sống quân ngũ. Hình ảnh “Đồng hoang sương muối” gợi lên sự hung dữ, rùng rợn của thiên nhiên và chiến tranh. Đối lập hoàn toàn với hiện thực phũ phàng là hình ảnh “Pháo trăng” trên bầu trời đêm vừa chân thực lại vừa lãng mạn:

                        “Súng” và “Trăng”—hai hình tượng tưởng như đối lập mà thống nhất—cứng rắn và dịu dàng—gần và xa—thực và mộng—chiến đấu và phẩm chất. Lyric – là người lính và nhà thơ.

                        Thực sự hiếm có một hình ảnh nào đẹp và ý nghĩa như “Đầu súng trăng treo” của người công lý. Đó là một khám phá, một sáng tạo tình cờ về vẻ đẹp cao cả bình dị của tâm hồn người chiến sĩ. Khoảng cách giữa trời và đất chưa bao giờ gần đến thế, và chỉ có một từ “treo”. Phải chăng nhà thơ muốn biểu đạt một ý nghĩa sâu xa nào khác ngoài ý nghĩa lãng mạn? Phải chăng đó là niềm khao khát về một ngày mai bình yên và hạnh phúc? Sau đêm nay, liệu bình minh ngày mai có xua tan đi giá lạnh của thời gian và không gian?

                        Ba dòng cuối của bài thơ có thể nói là một cái kết nhẹ nhàng, để lại ấn tượng sâu sắc trong tâm trí người lính cũng như người đọc. Nó để lại trong lòng người đọc nhiều ấn tượng và suy nghĩ độc đáo. Đây là ánh sáng của tự do và độc lập mà chúng ta mong đợi trong một tương lai không xa.

                        Hình ảnh biểu cảm với tông màu buồn tự nhiên. “Ánh trăng” của Nguyễn Ngụy như một lời tự nhắc nhở về cuộc sống của người lính trong những năm tháng gian khổ đã qua, gắn bó với thiên nhiên, gắn bó với đồng quê dân dã, hiền hòa. Đoạn thơ đầy ý nghĩa này nhắc nhở và củng cố cho người đọc thái độ sống đạo, uống nước nhớ nguồn, trung thành và thủy chung với quá khứ. Vì vậy, những từ ngữ được sử dụng trong bài thơ, tình yêu cuộc sống, tình yêu con người vẫn còn đọng lại trong lòng người đọc.

                        Phân tích bài thơ “Ánh trăng” – Văn mẫu 21

                        Đối với con người, mặt trăng là hình ảnh vô cùng quen thuộc. Chúng ta có thể nhìn thấy mặt trăng hầu như mỗi đêm. Nếu bạn là một đứa trẻ, bạn vẫn thích nó vì có một lễ hội trăng rằm. Chính vì lẽ đó mà sự hiện diện của trăng trong thơ không làm chúng ta ngạc nhiên. Trăng đã từng xuất hiện trong thơ bạn, thơ Hàn Mặc Tử… nhưng cách sử dụng ánh trăng trong mỗi bài thơ có khác nhau. Bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy cũng vậy.

                        Ánh trăng do Nguyễn Duy sáng tác tại Thành phố Hồ Chí Minh năm 1978. Xét về tính mới lạ, toàn bài thơ không có gì mới lạ. Thể thơ ngũ ngôn quen thuộc với các nhà thơ hiện đại. Hình ảnh ánh trăng trong thơ không cũ nhưng cũng thân quen. Tuy nhiên, bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Việt Nam vẫn có sức lay động người đọc bởi nó xoáy sâu vào tâm lý cội nguồn của con người. Đối với thi hào Nguyễn Du, trăng mang nhiều ý nghĩa. Vầng trăng đã ở bên anh từ thuở ấu thơ mà đôi khi anh lãng quên. Mở đầu bài thơ, tác giả miêu tả một vầng trăng đầy tâm sự:

                        Thuở nhỏ tôi sống với ruộng đồng, với sông, sau với hồ, và khi tôi ở trong rừng, vầng trăng trở thành tri kỉ

                        Cánh đồng, dòng sông, vầng trăng đều là những hình ảnh liên quan đến người dân quê. Họ trở thành người bạn, người tri kỷ của nhân loại. Ở một vùng quê yên ả như vậy, tuổi thơ của ai cũng đầy ắp những kỉ niệm đẹp đẽ. Đôi khi vào ban đêm, lũ trẻ đuổi nhau và thấy rằng mặt trăng dường như chạy theo chúng. Vì vậy, khi lớn lên, họ trở thành những chiến binh trên chiến trường, những chiến binh nằm trong rừng và nhìn lên bầu trời và mặt trăng. Họ nhớ tuổi thơ và quê hương của họ trên mặt trăng. Nhờ vầng trăng tròn ấy mà họ vơi đi nỗi nhớ quê hương, gia đình. Vầng trăng theo từng bước trở thành người bạn tâm tình.

                        Chính người bạn tâm giao ấy đã khiến tác giả có cảm giác như mình không bao giờ quên được vầng trăng:

                        Trần trụi và ngây thơ như một cái cây, không bao giờ quên Enyue

                        Những năm tháng đi lính thật khó khăn và đầy hồn nhiên. Sự hồn nhiên ấy khiến con người trở nên đơn giản, giản dị. Họ biết trân trọng những gì mình có trong cuộc đời này, kể cả trăng hoa bên ngoài. Tuy nhiên, cuộc đời nhà thơ đã sang một trang mới:

                        Từ khi về thành phố, tôi đã quen với ánh đèn cửa gương, ánh trăng soi ngõ, như người lạ qua phố

                        Thời gian là một thứ kinh khủng, nó cuốn con người ta vào vòng xoáy của cuộc đời, nỗi lo cơm, áo, thức ăn, tiền bạc. Hình như người và nguyễn duy đã quên người tri kỷ Trăng. Giờ đây, ánh điện đã thay thế ánh trăng. Sống hết mình khiến người ta quên đi những điều bình dị. Trăng sáng dù ngày đêm đi qua ngõ, đêm vẫn soi sáng cả một góc trời.

                        Tuy nhiên, tâm trạng nhà thơ lại đột ngột thay đổi:

                        Bỗng đèn vụt tắt trong bóng tối, trăng tròn ùa ra ngoài cửa sổ

                        Khi mất điện, ánh sáng từ bóng đèn biến mất. Mọi thứ trở nên tối đen. Lúc này, mọi người háo hức muốn nhìn thấy ánh sáng. Hình ảnh “hãy mở cửa sổ mau lên” như một lời nhắc nhở thân thiện. Từ “bỗng” cũng khiến người đọc cảm nhận được sự bất ngờ trong cảm xúc của tác giả. Mặt trăng luôn ở đó và rất tròn. Nhưng mọi người đã quên nó. Giờ biết chuyện, tôi vô cùng bất ngờ và bật khóc:

                        Ngước lên xem cái gì bị xé nát Ruộng là hồ, sông là rừng

                        Đối diện với ánh trăng, nhà thơ rưng rưng nước mắt, như nhìn thấy ao hồ, cánh đồng, dòng sông, rừng cây khi còn thơ ấu. Nhà thơ như tự trách mình đã quên người bạn thân.

                        Trăng cứ quay, dù ngây thơ đến đâu, trăng vẫn thế, đủ khiến ta khiếp sợ

                        Trăng tròn đẹp nhất là trăng tròn. Trăng đứng đó, nhìn người mà lặng thinh. Nếu chỉ trách mặt trăng, có lẽ người ta sẽ không ngạc nhiên. Ánh trăng sáng đến mức người ta có thể chiếu vào đó và đánh thức mình.

                        Ánh trăng ở đây không chỉ là ánh trăng, nó tượng trưng cho cội nguồn, cội nguồn. Đoạn thơ này nhắc nhở chúng ta phải biết trân trọng giá trị của cái đẹp là cội nguồn của mỗi con người.

Nguồn: https://anhvufood.vn
Danh mục: Giáo Dục

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *