CÔNG TY CỔ PHẦN SÔNG ĐÀ 9

CÔNG TY CỔ PHẦN SÔNG ĐÀ 9

Nội dung cơ bản của tư tưởng hồ chí minh

Phần một

Bạn Đang Xem: CÔNG TY CỔ PHẦN SÔNG ĐÀ 9

Thành phố Hồ Chí Minh

Đại hội Đảng (6-1991) nhận định: Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động, đồng thời chỉ rõ: Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự vận dụng sáng tạo quan điểm chủ nghĩa Mác-Lênin trong điều kiện cụ thể của nước ta.

Đại hội VI của Đảng (4-2001), trên cơ sở kết quả nghiên cứu khoa học và tổng kết thực tiễn, đã xác định tư tưởng Hồ Chí Minh bao gồm tư tưởng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng nhân dân; độc lập dân tộc; kết hợp của sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại; sức mạnh của nhân dân, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, nhân dân làm chủ đất nước, xây dựng một đất nước thực sự do nhân dân làm chủ, do nhân dân làm chủ. của dân, vì dân; xung quanh nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân; dựa vào phát triển kinh tế, văn hóa và không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân; về đạo đức cách mạng, trong sạch, liêm khiết, chí công vô tư, công bằng, công bằng; về chăm lo, vun trồng thế hệ cách mạng đời sau; công chức…

Trong giai đoạn hiện nay, để “tiếp tục làm cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân nhận thức sâu sắc hơn những nội dung cơ bản, giá trị chủ yếu của tư tưởng chính trị, đạo đức và tư tưởng Chí Minh; làm cho tư tưởng của quần chúng, đạo đức, phong cách thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc cho đời sống xã hội, xây dựng văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững, vì an ninh trật tự, vững chắc của Tổ quốc, vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh”, cần tập trung nghiên cứu, nắm vững nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh, chia thành 6 nhóm vấn đề: Về con đường cách mạng Việt Nam; về xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; về con người; đại đoàn kết dân tộc, xây dựng văn hóa, con người, phát huy dân chủ, xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân; công tác xây dựng Đảng.

1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng Việt Nam.

1.1 Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc, giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.

Bằng hoạt động thực tiễn và tư duy lý luận, Hồ Chí Minh đã giải quyết cơ bản các vấn đề dân tộc trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, giải phóng giai cấp, giải phóng nhân dân.

1.1.1 Vấn đề dân tộc thuộc địa:

Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ, thực chất của vấn đề dân tộc thuộc địa đầu thế kỷ XX là phải xác định đúng con đường phát triển của dân tộc. Độc lập dân tộc là nội dung cốt lõi của vấn đề dân tộc thuộc địa. Quyền lợi của dân tộc được giải phóng là trên hết. Với tinh thần đó, Người càng củng cố quyết tâm: “Dù hy sinh đến đâu, dầu phải đốt núi cũng kiên quyết phấn đấu cho được độc lập” và “Ta thà hy sinh tất cả chứ không chịu mất nước, kiên quyết không chịu” nô lệ”, “Không có gì quý hơn độc lập tự do”

1.1.2 Về mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong phong trào giải phóng dân tộc.

Có thể khẳng định rằng vấn đề chủng tộc và giai cấp có quan hệ mật thiết với nhau. Giải phóng dân tộc là vấn đề hàng đầu. Nếu không thực hiện độc lập dân tộc thì không giải quyết được vấn đề giai cấp, giải phóng dân tộc tạo tiền đề cho giải phóng giai cấp.

1.1.3 Cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng con người.

Mục tiêu của cách mạng giải phóng dân tộc trước hết là giành lại độc lập cho nước nhà. Các cuộc cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và phụ thuộc phải đi theo con đường cách mạng vô sản thì mới thắng lợi. Cách mạng giải phóng dân tộc trong thời kỳ mới phải do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và phụ thuộc phải chủ động, sáng tạo, đủ sức đánh thắng cách mạng vô sản ở nước mình. Sức mạnh của cách mạng giải phóng dân tộc là sức mạnh của toàn dân tộc, cách mạng là sự nghiệp của nhân dân bị áp bức, trong đó có sức mạnh của toàn dân tộc. Trong các lực lượng của cả dân tộc, Hồ Chí Minh nhấn mạnh vai trò lãnh đạo cách mạng của công nhân và nông dân, lực lượng nòng cốt của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Tư tưởng giải phóng dân tộc, giải phóng con người của Hồ Chí Minh được khẳng định trước toàn thế giới qua bản “Tuyên ngôn độc lập của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa” do Người soạn thảo. Ghi nhận “những lời bất hủ” của Tuyên ngôn Độc lập của nước Mỹ (1776) và “những chân lý không thể chối cãi” của Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp (1789), Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định “tất cả các dân tộc thế giới sinh ra bình đẳng, mọi dân tộc đều có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nâng các quyền tự nhiên của con người lên thành quyền dân tộc, thống nhất nhân quyền và quyền dân tộc, xác lập các luật lệ quốc tế mới về quyền con người, quyền dân tộc và sự bình đẳng giữa các dân tộc của tất cả các quốc gia Đặt nền móng cho trật tự.

1.2. Mối liên hệ giữa tư tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội của Hồ Chí Minh

Sự kết hợp độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội thể hiện tính thống nhất trong tư duy lý luận và hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh, là sự thể hiện sáng tạo tuyệt vời của lý luận Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh là sự phản ánh mục tiêu cuối cùng, lý tưởng, nguyện vọng và ước muốn của danh nhân văn hóa Hồ Chí Minh: Nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta còn có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành. .

Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội thể hiện tính triệt để cách mạng của tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng này đặt vấn đề giải phóng con người lên trên mục tiêu cao nhất của sự nghiệp cách mạng.

Độc lập dân tộc là mục tiêu trực tiếp, trước hết là nền tảng, tiền đề để tiến lên chủ nghĩa xã hội. Theo Hồ Chí Minh, con đường cách mạng Việt Nam chia làm hai giai đoạn: cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trong thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ, độc lập dân tộc là mục tiêu trực tiếp, cấp bách, cấp bách của cách mạng Việt Nam nhưng không phải là mục tiêu cuối cùng của cách mạng Việt Nam. Chỉ ra những điều kiện tiên quyết của một cuộc cách mạng dân tộc dân chủ:

– Về chính trị: Xác định và cấu trúc các yếu tố của hệ thống chính trị do giai cấp công nhân lãnh đạo.

– Về kinh tế: Bước đầu xác lập nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, từng bước cải thiện đời sống nhân dân.

– Về đời sống văn hóa, xã hội, tinh thần: Trong cuộc cách mạng dân tộc dân chủ, đông đảo quần chúng nhân dân – nông dân – trí thức và các tầng lớp xã hội khác đã giác ngộ và đoàn kết trong mặt trận thống nhất dân tộc; với chủ nghĩa Mác – Lênin và Được tư tưởng Hồ Chí Minh soi dẫn, những yếu tố văn hóa, giáo dục mới đã được hình thành.

Độc lập dân tộc tạo tiền đề và điều kiện để nhân dân lao động tự quyết định con đường xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Theo Tư tưởng Hồ Chí Minh, trong thời đại mới, chủ nghĩa xã hội là xu thế phát triển tất yếu của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Điều này làm cho con đường cứu nước, giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh về chất khác với con đường của nhiều danh nhân ở nước ta và thế giới đầu thế kỷ XX.

Cách mạng Việt Nam thuộc phạm trù cách mạng vô sản. Điều này xác định vai trò lãnh đạo cách mạng phải thuộc về giai cấp công nhân và đội tiên phong của giai cấp công nhân là Đảng Cộng sản Việt Nam. Lực lượng của cách mạng giải phóng dân tộc là toàn thể nhân dân Việt Nam yêu nước, nòng cốt là liên minh công nông và trí thức. Những nhân tố đó quyết định tính tất yếu của sự phát triển cách mạng giải phóng dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội. Có thể thấy, sự phát triển đi lên của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt Nam tiến lên chủ nghĩa xã hội bị các nhân tố bên trong của cách mạng chi phối, hạn chế.

Chủ nghĩa xã hội là con đường củng cố vững chắc độc lập dân tộc, giải phóng hoàn toàn dân tộc. Về mặt lý luận, độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội thể hiện mối quan hệ giữa mục tiêu trước mắt và mục tiêu cuối cùng; là mối quan hệ giữa hai giai đoạn của quá trình cách mạng. Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đặt cơ sở, tiền đề cho cách mạng xã hội chủ nghĩa, trong đó khẳng định và kiên quyết bảo vệ độc lập dân tộc.

Hồ Chí Minh cho rằng, độc lập dân tộc luôn gắn liền với cuộc sống ấm no, hạnh phúc của nhân dân, những người trực tiếp góp phần làm nên thắng lợi của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Chúng ta phải kiên quyết bảo đảm độc lập dân tộc, không để rơi vào ỷ lại, nghèo nàn, lạc hậu, chỉ có thể tiến lên chủ nghĩa xã hội mà thôi. Do những đặc trưng vốn có của nó, chủ nghĩa xã hội sẽ củng cố những thành quả của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, tạo điều kiện bảo đảm cho sự độc lập và phát triển của dân tộc. Hồ Chí Minh nhắc lại: Chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng căn bản các dân tộc bị áp bức khỏi ách nô lệ, chỉ có cách mạng xã hội chủ nghĩa mới bảo đảm được độc lập chân chính và thực sự.

2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

2.1 Tư tưởng xã hội chủ nghĩa Hồ Chí Minh

Nội dung cơ bản của tư tưởng xã hội chủ nghĩa Hồ Chí Minh bao gồm:

– Chủ nghĩa xã hội là quyền lực chính trị do nhân dân làm chủ, Nhà nước phải phát huy nhân dân làm chủ nước để khơi dậy tinh thần hăng hái, sức sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. bang hội.

– Chủ nghĩa xã hội với nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất chủ yếu, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, trước hết là của nhân dân lao động.

– Chủ nghĩa xã hội là một xã hội có văn hóa, đạo đức phát triển cao, mọi người là bạn, là đồng chí, là anh em; con người được giải phóng khỏi ách áp bức, bóc lột, có đời sống vật chất và tinh thần phong phú, có điều kiện phát huy đầy đủ đến tài năng của họ.

– Chủ nghĩa xã hội là một xã hội công bằng, hợp lý: làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm không hưởng;

– Chủ nghĩa xã hội là thành quả lao động tập thể của nhân dân, do Đảng lãnh đạo nhân dân xây dựng.

2.2. Suy nghĩ của Hồ Chí Minh về mục tiêu và động cơ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Về mục tiêu: Hồ Chí Minh nhắc lại, xây dựng chủ nghĩa xã hội bao gồm chính trị, kinh tế, văn hóa-xã hội và con người.

Về ưu đãi: Cái cụ thể và quyết định nhất là con người, là nhân dân lao động, mà nòng cốt là công nhân-nông dân-trí thức. Trong thực hiện phải kết hợp giữa cá nhân (sức mạnh của cá nhân) và xã hội (sức mạnh của cộng đồng); coi trọng sức mạnh kinh tế, phát triển kinh tế, sản xuất và quản lý, giải phóng mọi năng lực sản xuất. Phải quán triệt văn hóa, khoa học và giáo dục là sức mạnh tinh thần không thể thiếu của chủ nghĩa xã hội. Phải kết hợp nội lực với ngoại lực, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, nội lực có vai trò quyết định nhất, ngoại lực rất quan trọng.

2.3Tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Trước hết, Hồ Chí Minh khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội phải phù hợp với đặc điểm lịch sử cụ thể của mỗi nước mà xác định. Tác giả viết: “Mỗi nước mỗi khác, có nước thì tiến thẳng lên CNXH (cộng sản),…có nước thì phải qua dân chủ mới tiến lên CNXH ( chủ nghĩa cộng sản) . . . . . . ”

Hồ Chí Minh chỉ ra đặc điểm của quá độ Việt Nam lên chủ nghĩa xã hội, trong đó đặc điểm lớn nhất là Việt Nam trực tiếp đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu, không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Vì vậy, khi nói về độ dài của thời kỳ quá độ, Người chỉ rõ: “Xây dựng chủ nghĩa xã hội là một quá trình đấu tranh cách mạng phức tạp, gian khổ và lâu dài”.

Về những yếu tố bảo đảm thực hiện thắng lợi chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Hồ Chí Minh chỉ rõ, đảng phải giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của đảng: nâng cao vai trò quản lý của nhà nước; tích cực phát triển và vận động tích cực các tổ chức chính trị – xã hội; A. đội ngũ cán bộ chất lượng cao.

Phương châm xây dựng chủ nghĩa xã hội: Hồ Chí Minh cho rằng, xây dựng chủ nghĩa xã hội là quá trình phổ biến, thường xuyên trên thế giới. Tuy nhiên, việc xác định bước đi và biện pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội phải xuất phát từ điều kiện cụ thể của đất nước, đặc điểm dân tộc, nhu cầu và khả năng thực tế của nhân dân. Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội phải tiến hành từng bước, từ thấp đến cao, không thể chủ quan, nóng vội. Người chỉ rõ: “Xây dựng chủ nghĩa xã hội từ đầu là khó khăn và lâu dài”, “phải làm từng bước”, “không thể một sớm một chiều là xong”, “ai bảo dễ” là chủ quan sẽ thất bại. Tư tưởng chủ đạo của Hồ Chí Minh về bước đi của Việt Nam trong thời kỳ quá độ là phải đi nhiều bước, “bước ngắn, bước dài tuỳ tình hình”, nhưng “không được tham, tham… mà bước phải vững, bước đó là chắc chắn. Vâng, từng bước một.”

Xây dựng chủ nghĩa xã hội tức là cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới, cải tạo và xây dựng kết hợp với nhau, lấy xây dựng là quan trọng nhất. Kết hợp dựng nước và giữ nước trong một nước (chống Mỹ, cứu nước thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược khác nhau ở hai miền nam bắc). Xây dựng chủ nghĩa xã hội đòi hỏi phải có kế hoạch, biện pháp và nhất là phải có quyết tâm (mục tiêu 1, biện pháp 10, quyết tâm 20) thì mới hoàn thành tốt kế hoạch đã đề ra.

Hồ Chí Minh cho rằng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, sử dụng tài lực của nhân dân để làm lợi cho dân là biện pháp cơ bản, quyết định và lâu dài để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Vai trò lãnh đạo của đảng cầm quyền là tập hợp sức mạnh, hoạch định đường lối, chính sách, huy động và phát triển các nguồn lực của nhân dân, xây dựng đất nước, mang lại lợi ích cho nhân dân. Luôn nhắc nhở mọi người nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, đổi mới, chống giáo điều, bài bác kinh nghiệm nước ngoài, suy nghĩ, tìm tòi, sáng tạo trong cách làm phù hợp với tình hình thực tế của Việt Nam.

2.4. Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam.

Vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra nhiều quan điểm, tư tưởng chỉ đạo rõ ràng, có tính nguyên tắc về phát triển kinh tế Việt Nam.

Xem Thêm: Mở bài bếp lửa

2.4.1. Phát triển kinh tế là nhiệm vụ hàng đầu trong thời kỳ quá độquá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Hồ Chí Minh chỉ rõ trong điều kiện nước ta từ một nước thuộc địa nửa phong kiến ​​đi lên chủ nghĩa xã hội, trong điều kiện sức sản xuất kém phát triển, đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân còn thấp, Người chỉ rõ: “…nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của chúng ta là xây dựng nền tảng vật chất và công nghệ của chủ nghĩa xã hội… Công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, văn hóa và khoa học tiên tiến. Trong quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa phải chuyển đổi nền kinh tế cũ, xây dựng nền kinh tế mới, lấy xây dựng là then chốt nhiệm vụ lâu dài.”

2.4.2. Phải xây dựng cơ cấu kinh tế công nghiệp và nông nghiệp hợp lý

Người khẳng định: “Nền kinh tế xã hội chủ nghĩa có hai chân, công nghiệp và nông nghiệp… hai chân không bình đẳng thì không thể có những bước tiến dài”. Phải phát triển mạnh nông nghiệp để cung cấp đủ lương thực cho nhân dân, cung cấp đủ nguyên liệu… phải phát triển mạnh công nghiệp để cung cấp cho nhân dân những hàng hóa tiêu dùng cần thiết, trước hết là cho nông dân; cung cấp máy bơm nước, phân bón, thuốc trừ sâu… để thúc đẩy nông nghiệp phát triển, đồng thời từng bước cung cấp máy cày, máy bừa cho các hợp tác xã nông nghiệp. Vì vậy, công nghiệp và nông nghiệp phải giúp đỡ lẫn nhau và cùng phát triển, giống như hai bàn chân có vững thì tiến mới nhanh, mới đạt mục tiêu. Đó là thực hiện liên minh công nông, xây dựng chủ nghĩa xã hội, xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân.

2.4.3. Về khách quan, cần phải công nghiệp hóa:

Công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là mục tiêu chung của nhân dân ta và là con đường làm giàu. Trong bài Con đường phía trước (20-1-1960), tác giả viết: Máy móc được dùng trong công nghiệp và nông nghiệp. Máy móc sẽ tiếp thêm đôi tay cho con người, tăng sức lực con người lên hàng trăm, thậm chí hàng nghìn lần, giúp con người làm nên những điều phi thường. Muốn có nhiều máy móc thì phải mở rộng các ngành chế tạo máy, thép, than, dầu… Đây là con đường chúng ta phải đi: con đường công nghiệp hóa đất nước. “

2.2.4.Các hình thức sở hữu, thành phần kinh tế và định hướng xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam.

Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam có nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế khác nhau.

Người chỉ ra rằng trong thời kỳ quá độ, hình thức chủ yếu của nền kinh tế vẫn là sở hữu: “Sở hữu nhà nước, tức là sở hữu toàn dân, sở hữu hợp tác, tức là sở hữu tập thể của nhân dân lao động. bởi cá nhân người lao động. Tư liệu sản xuất thuộc sở hữu của các nhà tư bản.” Tương ứng với chế độ sở hữu là các thành phần kinh tế. Hồ Chí Minh xác định: “Trong chế độ Dân chủ Mới, có 5 loại hình kinh tế khác nhau… Trong 5 loại hình kinh tế này, loại A (kinh tế quốc doanh) là loại hình kinh tế phát triển nhanh nhất và dẫn đầu. Vì vậy, nền kinh tế nước ta sẽ tiến tới hướng xã hội chủ nghĩa, không hướng chủ nghĩa tư bản.”

Để xây dựng và phát triển nền kinh tế đa dạng nói trên, Thành phố Hồ Chí Minh đã đề ra các chủ trương chính sách kinh tế của đảng và chính phủ, trong đó có 4 điểm chính:

Một là hợp tác công tư. Nền kinh tế quốc dân là công cộng. Nó là nền tảng và sự lãnh đạo của nền kinh tế dân chủ mới. Vì vậy, chúng tôi phải làm việc chăm chỉ để phát triển nó và người dân của chúng tôi phải hỗ trợ nó. Những kẻ phá hoại, trộm cắp tài sản công cộng và khai man thuế phải bị trừng phạt. Kinh tế tư nhân là kinh tế tư bản cá thể quốc gia của nông dân và thợ thủ công. Nó cũng là một lực lượng cần thiết để xây dựng nền kinh tế đất nước. Vì vậy chính phủ cần phải giúp họ phát triển. Nhưng chúng phải tuân theo sự lãnh đạo của nền kinh tế quốc dân và phải phù hợp với lợi ích của đại đa số nhân dân.

Thứ hai, lợi ích của người sử dụng lao động. Các nước tư bản không phải là không có bóc lột. Nhưng chính phủ ngăn cấm họ bóc lột người dân một cách thái quá. Các chính phủ phải bảo vệ quyền của người lao động. Đồng thời, vì quyền lợi lâu dài, người lao động cũng để chủ được mức lãi hợp lý mà không đòi hỏi quá cao. Cả chủ và thợ đều được tự động hóa một cách tự động, làm tăng sản lượng và đem lại lợi ích cho cả hai bên.

Thứ ba, công nông giúp nhau. Công nhân đấu tranh để sản xuất nông cụ và các nhu yếu phẩm khác cũng được cung cấp cho nông dân. Nông dân làm việc để tăng sản lượng và cung cấp cho công nhân thực phẩm và các vật dụng khác. Qua đó củng cố khối liên minh công nông.

Thứ tư, tuần hoàn vào và ra. Chúng tôi cố gắng phát triển các sản phẩm từ rừng để bán cho bạn bè và mua những gì chúng tôi cần. Bạn mua những gì chúng tôi cung cấp và bán những gì chúng tôi chưa làm. Đó là chính sách thương mại, giúp đỡ lẫn nhau rất tốt cho nền kinh tế của chúng ta.

Xem Thêm : Tại sao Nhật Bản phải tiến hành cải cách?

2.4.5. Phát triển kinh tế phải đi đôi với thực hiện tiết kiệm, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu.

Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Tăng gia sản xuất và tiết kiệm là con đường để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và hạnh phúc của nhân dân. Tăng gia là tay phải của hạnh phúc, còn tiết kiệm là tay trái của hạnh phúc”. vào những ngôi nhà trống.” Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, sản xuất và cần kiệm là phương châm luôn đi đôi với nhau. Nó luôn phải được tôi luyện trong một nền kinh tế nghèo nàn lạc hậu, chịu nhiều bom đạn chiến tranh, hứng chịu nhiều thiên tai bất thường. Phát triển sản xuất để tăng tổng sản phẩm xã hội, tiết kiệm, chống lãng phí là hai mặt biện chứng của việc nâng cao mức sống của nhân dân trong giai đoạn phát triển của đất nước.

Đồng thời, những người làm kế hoạch phát triển kinh tế phải chống tham ô, lãng phí, quan liêu “giặc nội xâm” liên minh với ngoại xâm. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, ba căn bệnh lớn tham nhũng, lãng phí và quan liêu “là kẻ thù của nhân dân, của bộ đội và của chính quyền”. Loại kẻ thù này “rất nguy hiểm vì nó mang súng thay vì gươm, nhưng nó phá hoại công việc của chúng tôi trong tổ chức của chúng tôi”. Dù cố ý hay không, tham nhũng, lãng phí, quan liêu “cũng là bạn của thực dân, phong kiến”. “Nó phá hoại tinh thần trong sáng và ý chí giản dị của cán bộ ta. Nó phá hoại đạo đức cách mạng cần, kiệm, liêm, chính của chúng ta.” Nó “hủy hoại tinh thần, lãng phí sức lực, tiêu hao tài sản của chính quyền và nhân dân. Tội ác này cũng nghiêm trọng ngang với tội phản quốc, gián điệp của Việt Nam.”

2.5.Tư tưởng Hồ Chí Minh với công tác bảo vệ Tổ quốc

2.5.1. Về xây dựng lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang nhân dân.

Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, lực lượng chính trị của quần chúng và lực lượng vũ trang của nhân dân là hai lực lượng chủ yếu của khởi nghĩa và đấu tranh cách mạng, phối hợp chặt chẽ, bổ sung cho nhau tạo thành lực lượng chung kháng chiến.

Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến xây dựng lực lượng chính trị quần chúng. “Đồng tâm dải đồng ta đúc thành đồng khắp đất nước”. Sức mạnh chính trị của quần chúng là cơ sở của đấu tranh quân sự, đồng thời là lực lượng tiến công trực tiếp để đánh địch bằng nhiều hình thức và nội dung linh hoạt. Về lực lượng vũ trang, Người chủ trương xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân gồm ba thứ quân: bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích.

Đây cũng là một nội dung lớn, sáng tạo trong tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh.

2.5.2. Có ý thức cách mạng và chính trị về xây dựng quân đội.

Hồ Chí Minh cho rằng, việc nâng cao bản chất cách mạng, nhận thức chính trị, xây dựng trình độ của quân đội được đặc biệt coi trọng, được tổ chức thực hiện có nền nếp. “Quân sự mà không có chính trị thì như cây không có gốc, vừa vô dụng vừa có hại”, Người xác định quân đội ta có ba nhiệm vụ: quân đội chiến đấu, quân đội công tác và quân đội sản xuất. Quân đội và công an nhân dân chịu sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp của Đảng về mọi mặt.

Về lực lượng vũ trang, Hồ Chí Minh nhấn mạnh vai trò của nhân tố con người khi đưa ra luận điểm “dân đi trước, súng theo sau”. Đó là sự thống nhất giữa người giữ và đồ dùng, và người giữ vai trò quyết định trong đó. Trong quân đội, ông chủ trương xây dựng đội ngũ cán bộ về chính trị, quân sự, khoa học và công nghệ, hậu cần và các ngành quân sự khác. Ông đưa ra sáu yêu cầu cơ bản đối với người chỉ huy quân đội: “Tam dũng-nhân-tín-liên-trung”.

2.5.3.Về xây dựng thế trận lòng dân và thế trận quốc phòng toàn dân.

Để bảo vệ gia đình và đất nước trong cuộc kháng chiến chống Nhật, Hồ Chí Minh không bao giờ quên xây dựng sự ủng hộ của nhân dân. Đối với Hồ Chí Minh, đó là sức mạnh vật chất, sức mạnh con người và sức mạnh tinh thần, nhưng lòng người là sức mạnh đặc biệt mạnh mẽ.

Về quốc phòng, Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh.

  1. Tư tưởng nhân dân và đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh.
  2. 3.1. về hạng người.

    Đối với Hồ Chí Minh, nhân dân là phạm trù cao quý nhất, là phạm trù chính trị chủ yếu trong lý luận cách mạng của Người. “Trong thiên hạ không gì quý hơn dân, trong thiên hạ không có gì quý hơn nhân dân đoàn kết” Đây là một ví dụ kinh điển về lòng tin vào sức mạnh của nhân dân. Ai bảo dân mạnh thì không có súng.

    Có lần nói với cán bộ: “Có lãnh đạo giỏi thì việc khó đến đâu, quần chúng cũng làm được. Đây là sự tổng kết thực tiễn cách mạng rất sâu sắc: học ở dân, không bao giờ ngừng”. chăm chỉ, thông minh và có tay nghề cao. Trong sản xuất và đời sống, họ có nhiều kinh nghiệm quý báu”, nên cán bộ ta “phải tham gia tổng kết những kinh nghiệm quý báu đó”.

    3.2. Không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.

    Ngày 10-1-1946, tại phiên họp đầu tiên của Ủy ban Kiến thiết quốc gia, Hồ Chí Minh nói: “Chúng ta đã hy sinh cho độc lập. Chúng ta đã chiến đấu… chúng ta đã chiến đấu cho tự do độc lập mà dân đã chết đói chết cóng thì tự do, độc lập cũng chẳng ích gì, dân có cơm ăn áo mặc mới biết giá trị của tự do, độc lập.”

    Là công bộc, công bộc của nhân dân, Đảng, chính quyền và mỗi cán bộ phải quan tâm đến đời sống của nhân dân, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Ai nói rằng mục tiêu của đất nước là:

    “1. Làm cho người ta ăn.

    1. Hãy để mọi người mặc nó.
    2. Cung cấp cho mọi người một nơi để sinh sống.
    3. Giáo dục mọi người.
    4. 3.3. về đoàn kết dân tộc.

      Từ thực tiễn cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã tổng kết chân lý về vai trò của đại đoàn kết, đó là: đoàn kết là sức mạnh; “đoàn kết là sức mạnh, đoàn kết là thắng”; “đoàn kết là thắng lợi”; là sức mạnh, là con đường chiến thắng”…

      Hồ Chí Minh đã nhiều lần nói: “Đoàn kết của chúng ta không những sâu rộng mà còn bền lâu… Chúng ta ai cũng sẽ có tài, có đức, có sức, một lòng phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân”. .”

      Trong quá trình xây dựng nền tảng đại đoàn kết toàn dân tộc, chúng ta phải kiên định lập trường của giai cấp công nhân để giải quyết hài hòa quan hệ giai cấp – dân tộc. Muốn hội tụ sức mạnh thì sức mạnh nào cũng không thể thiếu, miễn là trung thành với Tổ quốc, không vi phạm dư luận, không phản bội lại lợi ích của nhân dân.

      Nền tảng xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc phải kế thừa truyền thống yêu nước – nhân nghĩa – đoàn kết của dân tộc.

      Muốn đoàn kết rộng rãi thì phải tin vào quần chúng nhân dân, trong đó đại đa số là công nhân và nông dân. Ngày 1-1-1955, Người chỉ rõ trong bài phát biểu tại Hội nghị toàn quốc cơ mật bộ Việt Cộng: “Đại đoàn kết trước hết là đoàn kết tuyệt đại đa số nhân dân ta, nhưng trước hết là đoàn kết tuyệt đại đa số nhân dân ta. là công nhân, nông dân và các tầng lớp lao động khác. Đây là nền tảng của khối đại đoàn kết. Nó như cái móng của ngôi nhà, cái gốc của cây. Nhưng đã có nền vững, nền tốt thì các giai cấp khác phải đoàn kết.”

      Phải khoan dung, độ lượng với mọi người, trân trọng cái “thiện”, dù là cái nhỏ nhất của mỗi người, để thu hút, quy tụ, tập hợp sức mạnh từ mọi phía. Ông viết: “Trong hàng ngàn người có những người như vậy, nhưng cái này cái kia do tổ tiên truyền lại. Vì vậy, chúng ta phải rộng lượng. Chúng ta phải thừa nhận rằng dù là tang gia hay cháu chắt, mọi người đều có nhiều hơn hoặc ít tình cảm yêu nước hơn. Đối với những người lạc lối, chúng ta phải dùng tình yêu của mình để thay đổi họ. Chỉ có như vậy chúng ta mới đoàn kết. Nếu chúng ta đoàn kết, tương lai sẽ tươi đẹp.” hòa bình, thống nhất, độc lập và dân chủ, trước đây những người đó chống đối chúng ta, nay chúng ta chân thành đứng về phía họ.”

      1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng văn hóa con người.
      2. 4.1.Quan điểm văn hóa của tư tưởng Hồ Chí Minh

        Khái niệm văn hóa phong phú về nội dung, rộng về phạm vi nên các định nghĩa về văn hóa cũng rất đa dạng. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, khái niệm văn hóa được chia thành nghĩa rộng, nghĩa hẹp và nghĩa cực hẹp.

        Theo nghĩa rộng: Hồ Chí Minh chỉ ra rằng văn hóa là tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong cách thức sử dụng chúng nhằm thỏa mãn những lý do tồn tại, đồng thời là những mục tiêu của con người. mục đích sống của con người.

        Người viết: “Vì mục đích sinh tồn và cuộc sống, loài người đã sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những nhu yếu phẩm cơ bản của cuộc sống và những công cụ hàng ngày khác. Tất cả những sáng tạo, phát minh đó đều chính là văn hóa.Văn hóa là sự tổng hòa và biểu hiện các lối sống đa dạng do con người sáng tạo ra nhằm đáp ứng nhu cầu sống và tồn tại.”

        Xem Thêm: Soạn bài Tôi yêu em | Ngắn nhất Soạn văn 11

        Định nghĩa của Hồ Chí Minh về văn hóa đã vượt qua những quan niệm phiến diện về văn hóa xưa và nay.

        Nghĩa hẹp: Tác giả: “Trong việc dựng nước có bốn vấn đề cần quan tâm và phải coi trọng như nhau, đó là: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Mà văn hóa là kiến ​​trúc thượng tầng”

        Theo nghĩa hẹp: văn hóa chỉ đơn giản là trình độ học vấn của con người, điều này thể hiện ở việc Hồ Chí Minh yêu cầu mọi người phải đi học để học “văn hóa”, xóa nạn mù chữ,…

        • 2- Quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng nền văn hóa mới.
        • Hồ Chí Minh cho rằng nền văn hóa dân tộc phải được xây dựng trên năm điểm sau:

          “1. Tâm lý kiến ​​trúc: Đọc độc lập và tự lực.

          1. Lấy đạo đức làm người: hy sinh thân mình vì người, ích nước lợi nhà.
          2. Xây dựng xã hội: Tất cả các nguyên nhân liên quan đến hạnh phúc của mọi người trong xã hội.
          3. Xây dựng chính trị: Dân quyền.
          4. Tăng trưởng kinh tế.
          5. Xây dựng nền văn hóa dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh phải được xác lập trên các mặt kinh tế, chính trị, xã hội, đạo đức, tâm lý con người.

            • 3- Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người.
              • 3.1- Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của con người.

                Hồ Chí Minh nhắc lại con người là vốn quý nhất, là nhân tố quyết định sự thành bại của sự nghiệp cách mạng. Theo quan điểm của ông, “Việc gì cũng do con người, từ nhỏ đến lớn, từ gần đến xa đều như nhau”.

                Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng. Nhân dân là mục tiêu của cách mạng, mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước dù lâu dài hay trước mắt đều vì lợi ích chính đáng của nhân dân; lợi ích của toàn dân tộc, lợi ích của nhân dân. các tầng lớp, các giai cấp, các tầng lớp, các cá nhân.

                Không phải ai cũng có thể là người lái xe, nhưng phải là người sáng suốt và có tổ chức. Họ phải có trí tuệ và bản lĩnh, có văn hóa và đạo đức, được hun đúc trên nền tảng lịch sử và truyền thống văn hóa hàng nghìn năm của dân tộc Việt Nam… Chính trị, văn hóa và tinh thần là động lực cơ bản của động lực con người. Con người là động lực và chỉ có được khi họ hoạt động có tổ chức, có lãnh đạo. Đây là lý do tại sao cần có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.

                4.3.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về chiến lược “ông lớn”.

                Hồ Chí Minh nhắc lại: “tạo dựng con người” là yêu cầu khách quan, vừa cấp bách, vừa lâu dài của cách mạng. Dù là chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của đất nước theo nghĩa rộng hay chiến lược giáo dục và đào tạo theo nghĩa hẹp thì đều phải hướng tới con người…

                Trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội “trước hết phải có con người xã hội chủ nghĩa”. Cần hiểu rằng ngay từ đầu, nhiệm vụ của con người là xây dựng một hình mẫu người mới xã hội chủ nghĩa với những phẩm chất cơ bản, làm gương và thu hút xã hội. Đây là một quá trình lâu dài, phải không ngừng đổi mới và hoàn thiện, là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, gia đình và mọi người.

                Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người mới xã hội chủ nghĩa bao gồm hai mặt có quan hệ chặt chẽ với nhau.

                Một là, kế thừa những giá trị tốt đẹp truyền thống của dân tộc (Việt Nam và Phương Đông).

                Hai là, hình thành những phẩm chất mới, như: có tư tưởng xã hội chủ nghĩa; có đạo đức xã hội chủ nghĩa; có trí tuệ và dũng khí để làm chủ (bản thân, gia đình, xã hội, tự nhiên…); có tác phong xã hội chủ nghĩa; nhân ái. Chiến lược “dân sinh” là trọng tâm của chiến lược phát triển kinh tế – xã hội và là một bộ phận quan trọng của chiến lược phát triển kinh tế – xã hội.

                Để thực hiện chiến lược “người lớn” cần thực hiện nhiều biện pháp nhưng giáo dục đào tạo là biện pháp quan trọng nhất. Bởi vì một nền giáo dục tốt sẽ tạo ra một tương lai tốt đẹp hơn cho những người trẻ tuổi. Ngược lại, giáo dục kém có thể ảnh hưởng xấu đến những người trẻ tuổi. Nội dung và phương pháp giáo dục phải toàn diện, bao gồm đạo đức, trí tuệ, thể chất, sắc đẹp; đạo đức, lý tưởng, tình cảm cách mạng phải được đặt lên hàng đầu. “Làm người lớn” là việc “trăm năm”, và chúng ta cũng đừng vội “ngậm một phát”, “Việc học thì vô vàn, còn phải học”.

                1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát huy dân chủ, xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân.
                2. 5.1. Hồ Chí Minh phát huy tư tưởng dân chủ.

                  5.1.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về dân chủ:

                  Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, dân chủ có nghĩa là “dân là chủ của nước”, phản bác quan niệm “chủ thể” thể hiện bản chất của cơ cấu quyền lực xã hội. “Nước ta dân chủ, tức là nước do dân làm chủ”, “Chế độ ta ​​dân chủ, tức là dân làm chủ nước”, “Nước ta dân chủ, địa vị cao nhất là dân , vì dân là chủ của nước”. Trong Chính cương cương lĩnh năm 1953, Hồ Chí Minh nêu rõ: “Ở nước ta, chính quyền là của dân và do dân làm chủ… Nhân dân làm chủ chính quyền đó. Nhân dân bầu ra những người đại diện để thay mặt mình làm việc đó. là dân chủ.” Xã hội nào đảm bảo được điều đó thì đó là xã hội dân chủ thực sự.

                  Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở cán bộ, đảng viên không bao giờ được quên “dân là chủ của nước”, “mọi quyền lực đều ở trong tay nhân dân”, nhân dân là người chủ tối cao của chế độ mới. . “Chính phủ dân chủ là chính phủ do nhân dân làm chủ”. Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, dân là chủ của nước “Nước ta là nước dân chủ, ai cũng có quyền nói”. “Nhiệm vụ của một chính phủ dân chủ là phục vụ nhân dân.”

                  Về mối quan hệ giữa dân với đảng, Hồ Chí Minh cho rằng: dân là chủ, dân là chủ, Đảng, chính quyền, cán bộ, đảng viên là đầy tớ, đầy tớ của dân. . Dân chủ trong xã hội Việt Nam được thể hiện trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội… Dân chủ trên lĩnh vực chính trị là quan trọng và nổi bật nhất, được thể hiện ở trung tâm của các hoạt động của quốc gia,

                  Hồ Chí Minh cho rằng dân chủ thể hiện ở việc bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Dân chủ không chỉ là chế độ xã hội của một quốc gia, nó còn có nghĩa là quan hệ quốc tế và hòa bình giữa các quốc gia. Tức là dân chủ bình đẳng trong mọi tổ chức quốc tế và là tiêu chí xử lý các quan hệ quốc tế.

                  5.1.2. Quan điểm Hồ Chí Minh về thực hành dân chủ.

                  1. a) Thiết lập và hoàn thiện nền dân chủ rộng rãi.
                  2. Từ năm 1941, trong cương lĩnh của Mặt trận Thống nhất Việt Nam Độc lập (Việt Minh), Hồ Chí Minh đã “hiến kế” một chế độ dân chủ cộng hòa cho nước ta. Sau khi cách mạng thành công do nhân dân tiến hành, là cương lĩnh thực hiện mục tiêu dân chủ, quy định rõ quyền và trách nhiệm của nhân dân trước vận mệnh nước nhà, gắn độc lập, tự do của Tổ quốc với lợi ích của mỗi người dân.

                    Sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng và ban hành bản hiến pháp mới. Hiến pháp 1946 xác lập cơ sở pháp lý đầu tiên cho việc nhân dân thực hiện quyền lực. Điều này được ghi rõ trong Chương II Hiến pháp 1946 gồm 18 điều quy định về nghĩa vụ và quyền của công dân. Điều 6 quy định: “Các cơ quan nhà nước phải dựa vào nhân dân, lắng nghe ý kiến ​​của nhân dân và chịu sự thống trị của nhân dân. Mọi cán bộ, công chức nhà nước phải trung thành với chế độ dân chủ nhân dân, tuân theo Hiến pháp và pháp luật, hết lòng phục vụ nhân dân”. .”

                    1. b) Xây dựng đảng, nhà nước, mặt trận và các tổ chức chính trị – xã hội vững mạnh, bảo đảm dân chủ xã hội.
                    2. Trong xây dựng nền dân chủ ở Việt Nam, Hồ Chí Minh chú trọng xây dựng Đảng thành đảng cầm quyền, lãnh đạo đất nước, lãnh đạo toàn xã hội. Xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân. Vì mục tiêu chung phát triển đất nước, thành lập mặt trận liên minh chính trị gồm các tổ chức chính trị – xã hội trên cơ sở tự nguyện; thành lập các tổ chức chính trị – xã hội rộng rãi khác của nhân dân.

                      Hồ Chí Minh luôn cho rằng, dân chủ trong toàn xã hội chỉ có thể được bảo đảm bằng việc bảo đảm và phát huy dân chủ trong Đảng. Vai trò lãnh đạo của đảng xuất phát từ nhiệm vụ của giai cấp công nhân, nhà nước và nhân dân. Đảng trở thành hạt nhân chính trị của toàn xã hội, là điều kiện tiên quyết bảo đảm tính chất dân chủ của xã hội. Dân chủ trong Đảng trở thành nhân tố quyết định mức độ dân chủ hóa toàn xã hội.

                      5.2 Quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân.

                      5.2.1 Về pháp quyền.

                      Xem Thêm : Tổng hợp các kí hiệu Rubik và quy ước khi chơi

                      Tư tưởng về một nước pháp quyền của Hồ Chí Minh có các nội dung: nước của dân, nước của dân, nước của dân.

                      Nhà nước nhân dân là mọi quyền lực trong nhà nước, mọi quyền lực trong xã hội đều thuộc về nhân dân. Nhân dân lao động làm chủ đất nước, tất yếu sẽ dẫn đến nhân dân có quyền làm chủ đất nước. Cử tri bầu người đại diện và ủy quyền cho người đại diện thảo luận và quyết định các vấn đề về kinh tế đất nước và dân sinh.

                      Nhà nước của dân là nhà nước do nhân dân lập ra và do nhân dân điều hành. Hồ Chí Minh khẳng định: “Việc nước là việc chung, ai cũng có phần gánh vác”.

                      Nhà nước tư hữu là nhà nước hướng tới lợi ích chính đáng của nhân dân. Tất cả vì lợi ích của người dân, không có gì khác. Một đất nước vì dân, từ chủ tịch nước đến công chức bình thường đều phải là đầy tớ, công bộc của dân. Tất cả công chức, từ nhân viên đến chủ tịch nước đều do nhân dân giao phó và phải phục vụ nhân dân.

                      5.2.2. Về bản chất giai cấp công nhân nước ta.

                      Một quốc gia luôn có một giai cấp nhất định trong đó.

                      Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, nhà nước Việt Nam mới là nhà nước mang bản chất giai cấp công nhân, thể hiện ở các quan điểm sau:

                      • Một đất nước do Đảng Cộng sản lãnh đạo.
                      • – Nhà nước bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển đất nước.

                        – Nguyên tắc tổ chức và hoạt động cơ bản của nó là nguyên tắc tập trung dân chủ.

                        5.2.3. Nó có tác dụng pháp lý mạnh mẽ đối với việc xây dựng đất nước.

                        Thực hiện hoạt động quản lý nhà nước theo quy định của Hiến pháp và pháp luật, trong đó chú trọng việc đưa pháp luật vào thực tiễn. Theo Hồ Chí Minh, nền dân chủ Việt Nam không coi pháp luật là gì. Vì pháp luật là “bà đỡ” của dân chủ. Dân chủ chân chính luôn đi đôi với pháp quyền. Mọi quyền dân chủ của nhân dân phải được thể chế hóa bằng hiến pháp và pháp luật; ngược lại, hệ thống pháp luật phải bảo đảm các quyền tự do, dân chủ của nhân dân được tôn trọng trên thực tế.

                        Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng việc xây dựng hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa bảo đảm cho nhân dân thực hiện quyền lực. Người khẳng định vai trò của pháp luật là: “trăm người phải có tinh thần thượng tôn pháp luật”. Là người có công lớn trong việc xây dựng hiến pháp và pháp luật của nước ta. Ai chịu trách nhiệm về hệ thống pháp luật. Với tư cách là Chủ tịch, Hồ Chí Minh đã hai lần đứng đầu Ủy ban Dự thảo Hiến pháp (Hiến pháp 1946 và 1959), ký ban hành 16 luật, 613 sắc lệnh và nhiều văn bản dưới luật khác.

                        Hồ Chí Minh thường chỉ rõ mặt trái, nhắc nhở mọi người phòng ngừa, khắc phục những tệ nạn trong bộ máy nhà nước: đặc quyền, đặc lợi; tham ô, lãng phí, quan liêu; ích kỷ, chia rẽ, hách dịch…

                        Người yêu cầu, vừa đẩy mạnh giáo dục đạo đức cách mạng, vừa tăng cường thực thi pháp luật, nêu cao tính gương mẫu, đi đầu của cán bộ, đảng viên, cán bộ chủ chốt các cấp.

                        Xem Thêm: Ôn tập và kiểm tra phần tiếng Việt (tiếp theo) – Ngữ văn 8

                        Để đảm bảo việc tuyển dụng công chức nhà nước được công bằng, dân chủ, Sắc lệnh số 76/sl ngày 20/5/1950 ban hành “Điều lệ công chức nhà nước của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa”.

                        “Pháp trị” của Hồ Chí Minh là sự kết hợp giữa “pháp trị” và “chính quyền-dân-chính quyền”, trong đó “pháp trị” rất nghiêm minh và công bằng, “đức trị” cũng vậy. -chính quyền”. Rất nhân văn, bao dung, thấu tình đạt lý. Trong sắc lệnh quốc gia của ông ban hành ngày 26 tháng 1 năm 1946, có mười điều khen thưởng (Đức) và mười điều phạt (luật). Trong 10 tấm bằng khen, tấm bằng thứ ba là “thưởng vì nước chết”, tấm bằng thứ năm là “tặng công liêm chính”, tấm bằng thứ sáu là “có ích cho nước”. Uy tín của nhà nước và nhân dân sẽ được đền đáp. “Trong 10 hình phạt, Điều 1 “Tội kết với giặc, xâm lược quốc gia, tội hình phạt”, Điều 6 “Trử binh đả thương dân”, Điều 8 “Xử tội trộm cắp công sản”.

                        Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất, năng lực giỏi. Yêu cầu của nhân dân đối với cán bộ, công chức, bao gồm:

                        • Tuyệt đối trung thành với cách mạng.
                        • Nhiệt tình, thông thạo, chuyên sâu và chuyên nghiệp.
                        • Phải có mối quan hệ thân thiết với người đó.
                        • Cán bộ, công chức phải dám chịu trách nhiệm, dám làm quyết liệt, dám chịu trách nhiệm, nhất là trong khó khăn.
                        • Phải thường xuyên tự phê bình và phê bình, thường xuyên chú ý và hành động trong trạng thái trưởng thành và trong sạch.

                          1. Tư tưởng xây dựng Đảng của Hồ Chí Minh.
                          2. 6.1. Tư tưởng Đảng Hồ Chí Minh

                            6.1.1. Về Sự Ra Đời Của Đảng Cộng Sản Việt Nam

                            Chủ nghĩa Mác – Lênin đã kết hợp phong trào công nhân với phong trào yêu nước, dẫn đến sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam vào đầu những năm 1930. Đây không chỉ là nét đặc thù của Việt Nam mà còn là sáng tạo của Hồ Chí Minh trong quá trình dựng nước. Chuẩn bị và thành lập Đảng cộng sản ở một nước thuộc địa nửa phong kiến. Vì vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn gắn bó với dân tộc, là “đứa con” của dân tộc, được toàn dân gọi là Đảng ta.

                            Quan điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh về việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam xuất phát từ thực tiễn Việt Nam.

                            6.1.2. Về vai trò lãnh đạo và bản chất của đảng.

                            Về vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam, Hồ Chí Minh khẳng định: “Cách mạng trước hết phải có chính đảng cách mạng. giai cấp vô sản ở khắp mọi nơi. Đảng có nắm chắc cách mạng thì cách mạng mới thành công, ai chèo lái con tàu mới vững vàng”. Sự ra đời, tồn tại và phát triển của Đảng Cộng sản Việt Nam tuân theo quy luật phát triển của xã hội. Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

                            Về bản chất của Đảng Cộng sản Việt Nam, Hồ Chí Minh chỉ rõ: Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng của giai cấp công nhân, đội tiên phong của giai cấp công nhân, mang bản chất của giai cấp công nhân. Bản chất giai cấp công nhân của đảng thể hiện ở chỗ đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lênin làm nền tảng tư tưởng và thực hiện vai trò, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Giai cấp công nhân tuy có số lượng ít so với dân số nhưng có đầy đủ phẩm chất và năng lực lãnh đạo đất nước thực hiện các mục tiêu của cách mạng.

                            Mặt khác, Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo toàn dân tộc Việt Nam phấn đấu giành độc lập dân tộc, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, giàu mạnh, được toàn thể nhân dân lao động đồng tình, ủng hộ. và nhân dân cả nước. Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam.

                            Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân giành chính quyền, trở thành đảng cầm quyền, nhưng quyền là do dân, dân mới thực sự là chủ. Đảng cầm quyền không chỉ là người lãnh đạo của nhân dân mà còn là người công bộc trung thành của nhân dân. Hồ Chí Minh, người sáng lập đảng ta, cũng là người đầu tiên soạn thảo cương lĩnh của đảng. Sách lược vắn tắt của đảng, cương lĩnh vắn tắt của đảng, điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam. Người khẳng định, một đảng cách mạng chân chính phải là đảng tiên phong về lý luận, khoa học, đồng thời phải tiêu biểu cho đạo đức cách mạng trong sáng, công bằng chính nghĩa, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc. /p>

                            6.2.Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng, chỉnh đốn đảng.

                            Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Xây dựng Đảng là quy luật tồn tại và phát triển của Đảng.

                            6.2.1. Tính tất yếu khách quan của công tác xây dựng, chỉnh đốn đảng.

                            Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng luôn đồng hành với sự phát triển không ngừng của sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo. Trước sự phát triển của những điều kiện khách quan, bản thân đảng phải tự sửa mình, tự đổi mới để vươn lên, làm tròn trách nhiệm trước giai cấp và dân tộc. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương thành lập Đảng trước và củng cố Đảng trước.

                            Điều đó chỉ ra rằng đảng tồn tại trong xã hội và là một bộ phận cấu thành của cơ cấu xã hội. Mỗi cán bộ, đảng viên, mỗi chức vụ trong tổ chức đảng và tổ chức đảng các cấp đều chịu tác động của môi trường và các quan hệ xã hội, có mặt tốt và mặt xấu, mặt tích cực và tiến bộ, mặt tiêu cực và mặt lạc hậu. Vì vậy, tổ chức đảng và mỗi cán bộ, đảng viên phải tiến hành rèn luyện thường xuyên. Đảng phải luôn chú ý đến phong cách chỉnh đốn của đảng.

                            Trên bình diện phát triển bản thân, xây dựng đảng, củng cố đảng, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, trở thành nhu cầu tự rèn luyện, tự rèn luyện nhân cách của mỗi cán bộ, đảng viên.

                            Đảng đã trở thành đảng cầm quyền thì công tác xây dựng, chỉnh đốn đảng càng phải được thực hiện thường xuyên hơn. Người đã chỉ rõ: quyền lực có tính chất hai mặt. Một mặt, nếu quyền lực được sử dụng hợp lý thì nó có sức mạnh to lớn để cải biến xã hội cũ và xây dựng xã hội mới. Mặt khác, nếu những người nắm quyền thoái hóa, biến chất, biến quyền lực của toàn dân thành quyền lực của cá nhân thì quyền lực có sức tàn phá rất lớn…

                            6.2.2. Nội dung Công tác Xây dựng Đảng Tư tưởng Hồ Chí Minh.

                            1. a) Xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng.
                            2. Phải dựa vào lý luận khoa học và lý luận cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin để xây dựng Đảng vững mạnh về tư tưởng và lý luận. Hồ Chí Minh chỉ rõ: Việc học tập, nghiên cứu và truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin phải luôn phù hợp với mọi đối tượng. Việc vận dụng những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin phải luôn phù hợp với điều kiện cụ thể của nước ta trong từng thời kỳ. Trong quá trình hoạt động, Đảng ta phải quan tâm học tập, kế thừa kinh nghiệm tốt của các đảng cộng sản khác, đồng thời tổng kết kinh nghiệm của mình, bổ sung cho chủ nghĩa Mác – Lênin. Đảng ta phải tăng cường đấu tranh giữ gìn sự trong sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin. Đồng thời, phải không ngừng tổng kết thực tiễn, bổ sung, phát triển lý luận, giải quyết đúng đắn những vấn đề nảy sinh trong hoạt động lãnh đạo của đảng. Việc xây dựng và tổ chức thực hiện nhuần nhuyễn các nghị quyết của Đảng sẽ ngày càng làm sáng tỏ những vấn đề mới trong thực tiễn, bổ sung và hoàn thiện đường lối của Đảng.

                              Xây dựng chính trị của đảng bao gồm: xây dựng đường lối chính trị, bảo vệ chính trị, xây dựng và thực hiện nghị quyết, xây dựng và phát triển tư tưởng chính trị, củng cố lập trường chính trị. Theo Hồ Chí Minh, đường lối chính trị là khâu quyết định sự tồn tại và phát triển của đảng. Người cảnh báo đường lối chính trị sai lầm sẽ để lại hậu quả nghiêm trọng cho vận mệnh của Tổ quốc và sinh mệnh chính trị của hàng triệu đảng viên và nhân dân lao động.

                              <3

                              1. b) Xây dựng Đảng về mặt tổ chức.
                              2. Về hệ thống tổ chức của Đảng, Hồ Chí Minh nhắc lại sức mạnh của Đảng là từ tổ chức. Hệ thống tổ chức của đảng phải có kỷ luật nghiêm minh từ trung ương đến cơ sở. Sức mạnh tổ chức có quan hệ mật thiết với nhau, mỗi cấp tổ chức có chức năng, nhiệm vụ riêng.

                                Trong hệ thống tổ chức đảng, Thành phố Hồ Chí Minh rất coi trọng vai trò của tổ chức cơ sở. Tổ chức cơ sở là tổ chức nòng cốt quyết định chất lượng lãnh đạo của đảng, là môi trường rèn luyện, rèn luyện đảng viên, đồng thời cũng là nơi giám sát đảng viên. Các chi bộ Đảng có vai trò quan trọng trong việc liên hệ với quần chúng.

                                Về công tác cán bộ, ông luôn tâm huyết xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, đảng viên vừa có năng lực, vừa có bản lĩnh chính trị. Hồ Chí Minh ý thức rất rõ về vị trí, vai trò của cán bộ đối với sự nghiệp cách mạng. Người nói: “Cán bộ là người giải thích rõ ràng, quán triệt và thực hiện cho quần chúng những nguyên tắc, chính sách của Đảng và Chính phủ, đồng thời báo cáo tình hình quần chúng với Đảng để Chính phủ biết. có thể hiểu rõ và hoạch định chính sách đúng đắn.Vì vậy, cán bộ là cái gốc của mọi công việc.Vì vậy, huấn luyện cán bộ là công việc của chính đảng.

                                “Nhắc nhở cán bộ đừng làm kiểu “giã gạo”, tức là bắt đầu mà không suy tính rõ ràng, không nâng đỡ không giúp đỡ, sai lầm đẩy xuống, chờ đợi. để làm tốt, và sau đó bắt đầu lại Nâng chúng lên.”

                                Theo Người, “Đảng phải trồng cán bộ như người làm vườn trồng cây quý. Phải trọng hiền tài, trọng cán bộ, trọng những người có ích cho công việc chung”. Tuy nhiên, Người cũng đặt câu hỏi: “Việc thăng quan tiến chức tuỳ thuộc vào việc người đó có gần gũi với quần chúng không, có được quần chúng tín nhiệm và kính trọng hay không. Phải xem người đó xứng đáng với điều gì. Người tài mà sử dụng không đúng tài năng thì họ sẽ không Bạn sẽ có được công việc. Sự thăng tiến bất cẩn chắc chắn sẽ dẫn đến các vị trí lãnh đạo với những du khách ba lô chỉ biết nói mà không làm. Điều đó rất tai hại.”

                                Đặc biệt, Hồ Chí Minh phê phán mạnh mẽ việc đề bạt, bổ nhiệm cán bộ cấp T.Ư, địa phương “một người làm quan”. Tác giả viết: “Một số đồng chí còn giữ thói ‘một người làm quan’, đặt người thân, bạn bè vào vị trí này, làm hay không không quan trọng, không đạt thì chịu. bởi trung đoàn, chỉ dành cho người thân và bạn bè, “tư nhân” – để kéo bè, kéo cánh, người thân và bạn bè, ngay cả khi họ không có bất kỳ tài năng nào, họ sẽ bị kéo đến vị trí này. Người có tài, có đức tự bằng lòng mà bị loại trừ. Quên rằng công việc là việc công, đâu phải việc riêng của nhà ai.” Vì vậy, Người căn dặn: “Khi đề bạt cán bộ thì phải làm cho công, cho tài nhiều hơn, động viên các đồng chí khác làm nhiều hơn. Như thế này, công việc nhất định chạy. Nếu vì yêu ghét, vì bà con, vì nể nang thì không ai nghe theo, mà còn gây lục đục trong nội bộ. Đó là tội ác với đảng, tội ác với đồng bào…”.

                                1. c) Cai trị đảng bằng đức
                                2. Đảng là đạo đức, là văn minh, là đảng trong sạch, là đảng vững mạnh. Trong 12 điều về xây dựng đảng thật sự cách mạng. Người nhấn mạnh đảng là tổ chức cách mạng, không phải tổ chức “làm giàu”.

                                  Nếu không, đảng sẽ thoái hóa, biến dạng, bị nhân dân xa lánh, xa lánh, mất khả năng tự bảo vệ mình. Quyền lực này bắt nguồn từ nhân dân, do nhân dân xây dựng và phát triển.

                                  Cho rằng, tu dưỡng đạo đức, tu dưỡng con người là cơ hội để mỗi cán bộ, đảng viên rèn luyện, giáo dục, tu dưỡng bản thân ngày càng tốt hơn, hoàn thành tốt nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao phó, nhất là giữ vững phẩm chất đạo đức cách mạng. Cán bộ, đảng viên không phải là thần thánh. Họ là con người, ai cũng có hai mặt tốt xấu tốt xấu, thường xuyên đấu đá nhau. Trong điều kiện môi trường tốt, cán bộ, đảng viên ra sức tu dưỡng, ra sức lao động, ra sức rèn luyện thì mặt tốt sẽ xuất hiện, mặt xấu sẽ bị đào thải, mặt xấu sẽ bị đào thải và ngược lại.

                                  Hồ Chí Minh đưa ra tiêu chuẩn của người cán bộ tốt là vừa có năng lực, vừa phải có bản lĩnh chính trị. Trong đó, đạo đức là nền tảng, tác giả viết: “Cũng như sông, có nguồn thì có nước, có nguồn thì khô cạn, cây phải có gốc, cây không có gốc thì khô héo. . Người cách mạng phải có đạo đức. Không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được dân tộc.”

                                  6.2.3. Về nguyên tắc tổ chức sinh hoạt đảng.

                                  1. a) Nguyên tắc tập trung dân chủ.
                                  2. Tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức cơ bản của công tác xây dựng đảng. Nguyên tắc này thể hiện sự thống nhất biện chứng hữu cơ giữa “tập trung” và “dân chủ”. Về mối quan hệ giữa “tập trung” và “dân chủ”, Hồ Chí Minh cho rằng: Tập trung dựa trên nền tảng của dân chủ, mà dân chủ là cơ sở của tập trung dưới sự chỉ đạo của tập trung. . Không có sự gắn kết và thống nhất thì sẽ có độc tài và tự do vô tổ chức, vô kỷ luật. Tuy nhiên, cả “tập trung hóa” và “dân chủ” đều có nội dung cụ thể.

                                    “Tập trung” là thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, đảng viên tuyệt đối phục tùng nghị quyết của đảng. Kết quả là đảng ta “tuy đông mà đánh chỉ có một người”.

                                    Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, dân chủ là tài sản quý nhất của nhân dân, là thành quả của cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng. Dân chủ là về ngôn luận và tự do tư tưởng. Tự do là gì? Trong mọi vấn đề, mọi người được tự do phát biểu ý kiến ​​và đóng góp vào việc tìm kiếm sự thật. Đây là quyền và nghĩa vụ của mọi người. Khi con người phát biểu ý kiến ​​và tìm ra chân lý thì tự do tư tưởng trở thành tự do phục tùng chân lý. Hồ Chí Minh nhấn mạnh phải thực hiện và phát triển dân chủ trong Đảng, vì không có dân chủ trong Đảng thì “nội Đảng lục đục”. Hơn nữa, dân chủ trong đảng có thể nói là dân chủ xã hội, sẽ định hướng cho việc xây dựng nền dân chủ thực sự.

                                    1. b) nguyên tắc lãnh đạo tập thể và chịu trách nhiệm cá nhân.
                                    2. Tập thể lãnh đạo, cá nhân chịu trách nhiệm là nguyên tắc lãnh đạo hay hệ thống lãnh đạo của đảng. Nguyên tắc này cũng có hai mặt liên quan mật thiết với nhau, đó là mặt gần gũi với nguyên tắc tập trung dân chủ, vì tập thể lãnh đạo là dân chủ, cá nhân lãnh đạo là tập trung. Tập thể lãnh đạo, cá nhân chịu trách nhiệm là dân chủ tập trung. Người viết: “Tại sao phải lãnh đạo nhóm? Bởi vì một người dù thông minh, tài năng và kinh nghiệm đến đâu cũng chỉ nhìn và xem xét một hoặc nhiều khía cạnh của vấn đề chứ không thể xem xét tất cả các khía cạnh của vấn đề. Rất nhiều cần có người. Nhiều người có nhiều kinh nghiệm. Có người thấy rõ một đằng, có người thấy một nẻo. Kết hợp kinh nghiệm và suy nghĩ của nhiều người, vấn đề đã rõ ràng về mọi mặt. Nhưng nếu bạn có thể Nhìn thấy nó rõ ràng thì vấn đề mới được giải quyết thấu đáo, không để xảy ra sai sót.”

                                      Cá nhân lãnh đạo dựa trên sự thảo luận đầy đủ của nhóm, sau đó phân công kế hoạch rõ ràng cho một người hoặc một nhóm lãnh đạo thực hiện theo kế hoạch, làm rõ trách nhiệm và phát huy vai trò của từng người. Các tác giả viết: “Sau nhiều lần thảo luận, kế hoạch đã rõ ràng và nên giao cho một người hoặc một nhóm nhỏ phụ trách kế hoạch, có như vậy mới có nghề, mới chạy được việc. Nếu không có cá nhân chịu trách nhiệm thì sẽ xảy ra việc xấu, người này ủy cho người khác, người khác ủy cho người khác, dẫn đến không ai thực hiện, nếu như vậy thì sẽ không làm được gì.” cần phải cùng với. Chống bệnh chuyên quyền, hay nói cách khác là ỷ lại, dựa dẫm vào tập thể, không dám quyết đoán, không dám chịu trách nhiệm. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Lãnh đạo mà không tập thể thì dẫn đến bao biện, chuyên quyền, chủ quan, dẫn đến thất bại. hỗn loạn, vô chính phủ. Đây cũng là một thất bại. Đội ngũ lãnh đạo và người phụ trách phải luôn song hành.”

                                      1. c) Nguyên tắc phê bình và tự phê bình.
                                      2. Tự kiểm điểm và tự phê bình là nguyên tắc sinh hoạt của đảng, là quy luật phát triển của đảng. Nguyên tắc này có nghĩa là đảng cũng từ xã hội mà ra, nên bệnh xã hội lây lan trong đảng. Cá nhân đảng viên, cán bộ cũng là con người, có cái tốt và cái xấu, thiện và ác. Con người không phải là Chúa, ai cũng có khuyết điểm. Vì vậy, kiểm điểm và tự phê bình cũng giống như việc rửa mặt hàng ngày, để cho phần tốt của mọi người nở như hoa mùa xuân, phần xấu thì héo úa. Cán bộ, đảng viên có khuyết điểm cũng như người bệnh. Vì vậy, uống thuốc của bạn. Tự phê bình là thuốc đắng, nhưng chữa được. Ngược lại, nếu bạn không tự phê bình, bạn giống như một người bệnh không uống thuốc, để tình trạng ngày càng nặng thêm. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Đảng nào che giấu khuyết điểm là đảng hư hỏng. Đảng phải dám nhận khuyết điểm của mình, chỉ rõ khuyết điểm là gì, từ đâu ra, xem xét rõ hoàn cảnh gây ra khuyết điểm đó, rồi sửa chữa. phải sửa sai. Như một đảng tiến bộ, táo bạo, vững vàng và chân chính”.

                                        Mục đích của tự phê bình và phê bình là làm cho đảng vững mạnh, làm cho cán bộ, đảng viên tiến bộ, chữa các bệnh của đảng. Đây cũng là một trong những cách tốt nhất để thực hiện dân chủ sâu rộng trong nội bộ đảng, giữ vững và củng cố uy tín của đảng.

                                        Tuy nhiên, một điểm rất quan trọng là cách tự phê bình và phê bình. Hồ Chí Minh thường xuyên căn dặn thường xuyên, nghiêm túc, tự phê bình và phê bình trên tinh thần đồng đội, tương thân tương ái. Trong phê bình và tự phê bình phải trung thực, thẳng thắn, không nể nang, không giấu diếm, thêm bớt khuyết điểm. Phê bình và tự phê bình là một khoa học đồng thời là một nghệ thuật. Điều quan trọng là phê bình và tự phê bình không chỉ thường xuyên mà còn phải khéo léo. Cán bộ, lãnh đạo chính phải nêu gương phê bình và tự phê bình. Kiên quyết chống những biểu hiện không đúng trong phê bình và tự phê bình, như: thiếu trung thực, giấu giếm khuyết điểm, ngại phê bình, không dám phê bình, nể nang, né tránh, “dĩ hòa vi quý”, và ngược lại, lợi dụng cơ hội để phê bình. Nói xấu, bôi xấu, công kích, đả kích người khác.

                                        1. d) Kỷ luật nghiêm minh, tự giác.
                                        2. Sức mạnh của tổ chức đảng và sức mạnh của mỗi đảng viên là từ ý thức tổ chức, kỷ luật tự giác nghiêm minh. Quản lý đảng chặt chẽ đòi hỏi mọi tổ chức đảng và mọi đảng viên đều bình đẳng trước điều lệ đảng, pháp luật của Nhà nước và mọi quyết định của đảng.

                                          Đồng thời, Đảng ta là tổ chức nhân dân có ý thức phấn đấu vì lý tưởng cộng sản, tự giác rèn luyện là yêu cầu bắt buộc đối với mọi tổ chức đảng và đảng viên. Tính công tâm, kỷ luật tự giác của người đảng viên trong công tác và trong cuộc sống là phải gương mẫu. Uy tín của đảng xuất phát từ sự nêu gương của mỗi đảng viên tự ý thức chấp hành kỷ luật của đảng, của nhà nước và của tổ chức nhân dân.

                                          đ) Nguyên tắc đoàn kết trong Đảng.

                                          Đoàn kết phải dựa trên lý luận Mác – Lênin của đảng; cương lĩnh, điều lệ đảng; đường lối, quan điểm của đảng;

                                          Muốn đoàn kết thống nhất trước hết phải thực hành dân chủ rộng rãi trong nội bộ đảng, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình, thường xuyên tu dưỡng đạo đức cách mạng, chống các biểu hiện tiêu cực như chủ nghĩa cá nhân; “Các đồng chí từ trung ương đến cơ sở phải bảo vệ sự đoàn kết, nhất trí của đảng như bảo vệ chính học trò của mình. Chỉ có đoàn kết mới làm nền tảng vững chắc cho thống nhất tư duy, thống nhất hành động như một con người”.

Nguồn: https://anhvufood.vn
Danh mục: Giáo Dục

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *