Top 8 mẫu cảm nhận bài thơ Việt Bắc hay chọn lọc

Cảm nhận về việt bắc

Cảm nhận về việt bắc

Video Cảm nhận về việt bắc

Trải nghiệm bài thơ “Việt Bắc” – có thể nói “Việt Bắc” đặc biệt là của tác giả Dư Bạn, thậm chí là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất trong toàn bộ nền văn học thời Chiến tranh Cách mạng. Tác phẩm là một bản giao hưởng đầy tình trạng dân tộc và tình trạng quân đội trong cuộc kháng chiến chống Nhật Bản. Trong bài viết này, hoatieu xin chia sẻ cùng bạn đọc một số bài văn mẫu Cảm nhận bài thơ Việt Bắc, Cảm nhận Việt Bắc 8 dòng đầu, Cảm nhận Việt Bắc câu 3, Cảm nhận Việt Bắc câu 4, Cảm nhận Việt Bắc Bài thơ: Anh có nhớ em về riêng anh kinh doanh…hoặc tùy chọn. Vui lòng tham khảo trước.

Bạn Đang Xem: Top 8 mẫu cảm nhận bài thơ Việt Bắc hay chọn lọc

  • Top 6 mẫu phân tích Việt Nam tốt nhất
  • Dư Hữu là nhà thơ xứ Huế, ông có nhiều tập thơ tiêu biểu như: “Từ thuở ấy” (1937-1946), “Việt Bắc” (1946-1954), “Gió về” 1955-1961 ), tuyển tập thơ “Ra trận”, tuyển tập “Máu và Hoa”… Thơ Việt Bắc được dạy và học trong môn Ngữ văn lớp 12. Hoatieu muốn chia sẻ bài viết này đến bạn đọc có tổng hợp những bài thơ mẫu Việt Bắc và cảm nhận 8 câu đầu bài thơ Việt Bắc hay, chi tiết và hữu ích cho các em học sinh tham khảo.

    Bạn được mời tham gia nhóm của mình Bạn đã tham gia lớp học chưa? Cập nhật kiến ​​thức mới hữu ích cùng hoatieu.

    cảm nhận Việt Bắc

    1. Nêu cảm nghĩ về Việt Nam

    Lập dàn ý chi tiết cảm nhận về thơ Việt Nam là tư liệu hữu hiệu giúp các bạn vận dụng những phẩm chất của bản thân để viết nên bài thơ Việt Nam của riêng mình.

    a) Mở bài đăng

    – Giới thiệu chung về tác giả, tác phẩm:

    + Tố Hữu được coi là cây đại thụ của làng thơ Việt Nam hiện đại, thơ ông luôn phản ánh cuộc đấu tranh gian khổ và nhiều thắng lợi của dân tộc.

    +Bài thơ “Việt Bắc” là bản anh hùng ca về cách mạng, về kháng chiến, về tinh thần yêu nước và niềm tự hào về sức mạnh của nhân dân, của dân tộc Việt Nam.

    b) Nội dung bài: Phát biểu cảm nghĩ của em về nội dung bài thơ bằng tiếng Việt

    * Vài nét về bài thơ

    – Hoàn cảnh sáng tác: Bài thơ này ra đời trong một sự kiện lịch sử: tháng 10 năm 1954, sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, các chiến sĩ kháng Nhật rời căn cứ địa Việt Bắc trở về miền xuôi.

    p>

    – Giá trị nội dung: Đoạn thơ ôn lại một thời kỳ kháng chiến gian khổ mà hào hùng, thể hiện tình cảm sâu nặng của những người kháng chiến đối với đồng bào Việt Bắc và quê hương cách mạng.

    – Ý nghĩa nhan đề:

    + Việt Bắc là địa danh – cái nôi của cách mạng Việt Nam trước khởi nghĩa, là đại bản doanh kháng chiến chống Pháp.

    + Việt Bắc là nơi để lại biết bao kỉ niệm giữa cán bộ và nhân dân cách mạng.

    Cảm nhận về thơ

    Bài 1: Tâm trạng người ở lại (phản ứng đầu tiên)

    – Tám câu đầu là cảm xúc nhớ nhung khi chia tay:

    + Bốn câu trên, sử dụng thông tin cấu trúc “tôi có nhớ tôi có nhớ” là câu nghi vấn, gợi lại trong lòng biết ơn những kỉ niệm “mười lăm năm thiết tha và yêu thương” về thiên nhiên Việt Nam. . .

    + Ngôn ngữ trái tim của cặp đôi đang yêu xưng hô “mình với mình” khiến việc chia tay trở nên thân mật và giản dị. Cách xưng hô cũng gợi nhớ đến câu đối đáp trong ca dao tình yêu, để những câu cách mạng không nhàm chán mà trở nên tình tứ, sâu lắng.

    + Bốn câu cuối là nỗi nhớ của người đã khuất và người đã khuất, được thể hiện qua các từ như “buồn”, “buồn”, “khẩn trương”; không khí buổi tiệc chia tay thật thân mật, gần gũi: “áo chàm” , “tay trong tay” .

    =>Đặc biệt là những tình cảm sâu thẳm trong tâm hồn, những buồn vui, trăn trở của người đi và người ở lại.

    – Mười hai câu tiếp theo, sử dụng ẩn dụ “nhớ”, là một thông điệp dưới dạng câu hỏi:

    + Nhớ thiên nhiên, núi rừng Việt Nam trong kháng chiến chống Nhật: mưa, lũ, mây, đất, chồi non.

    <3

    + Ghi nhớ các thời kỳ hoạt động cách mạng: Chống Nhật, Việt Minh, tân trao, hồng thai,…

    Từ + đại từ “tôi” thể hiện sự thân thiết, mật thiết giữa người sống và người chết. Nó như một cách bày tỏ tình cảm của bạn, một lời thủ thỉ chân thành.

    =>Hoài niệm là sự thể hiện tình cảm gắn bó với các chiến sĩ cách mạng thông qua hình ảnh các sự kiện nổi bật, quan trọng.

    Luận đề 2: Tâm trạng người chết (Phần 2)

    – Bốn câu tiếp theo khẳng định định nghĩa chung thuỷ, nghĩa tình “ta với ta, ta với ta”: thể hiện sự gắn bó, thấu hiểu lẫn nhau giữa người đi và người ở.

    – Những câu bộc lộ nỗi nhớ thiên nhiên Việt Bắc: “Trăng mọc đầu núi, nắng soi lưng núi”, “Xứ khói sương”, “Rừng tre”. bên bờ tre”,…Du lịch thiên nhiên Việt Nam. Bốn mùa xuân, hạ, thu, đông.

    – Nhớ người Việt Nam:

    + Những con người đã trải qua gian khổ vẫn ấp ủ tấm lòng của một người con, cùng chia sẻ “ngọt bùi đắng cay” của cuộc kháng chiến: “Sẻ củ sắn”, “bát cơm sẻ nửa tổ ấm”. “.

    <3

    + Nhớ những hình ảnh giản dị, đẹp đẽ của người lao động: “mẹ”, “chị”.

    – Nhớ mãi hình ảnh quân dân miền Bắc đoàn kết đánh giặc: “Chúng ta cùng đánh mặt trận phía Tây”, “Cả nhà hát một lòng”; Tiểu sử đồng thanh”, “Đồng bào cùng đuốc đỏ”, …

    – Nhớ kết quả trận đánh, niềm vui thắng trận: “Trăm miền thắng trận…Núi Hồng”

    =>Nhịp thơ trong sáng như bước chân hành quân, hình ảnh hùng tráng… tất cả tạo thành một bức tranh sử thi tráng lệ cuộn cuộn ca ngợi sức mạnh của các anh hùng, của nhân dân.

    Tiểu luận 3: Niềm tự hào và niềm tin vào cách mạng Việt Nam.

    <3

    – Đoạn thơ thể hiện niềm tin vào sức mạnh và sự lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng, niềm tự hào về chiến công Việt Bắc.

    – Khẳng định vai trò, vị thế của Việt Nam trong Kháng chiến, thề trung thành:

    + Việt Bắc trước hết là quê hương cách mạng, đầu não và cái nôi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.

    Việt Nam

    + Lời thề trung thành.

    * Nét nghệ thuật

    – Sử dụng các thể dân tộc: thơ lục bát, đối đáp

    – Sử dụng linh hoạt đại từ (i – ta)

    – Từ ngữ giản dị, giàu sức gợi…

    c) Kết luận

    – Hãy cho tôi biết cảm nhận của bạn về bài thơ Việt Nam này.

    2. Sơ đồ tư duy cảm thụ bài thơ Việt Bắc

    Sơ đồ tư duy cảm nhận bài thơ Việt Bắc

    3. Cảm nhận bài thơ Việt Bắc: Em có nghĩ về mình

    Từ thiện và trung thành – Đây là một trong nhiều phẩm chất của một nhà cách mạng. Vẻ đẹp ấy được thể hiện trong nhiều tác phẩm văn học thời kỳ chống Pháp và chống Mỹ. Chúng tôi cũng đã thấy vẻ đẹp này ở miền Bắc Việt Nam tại Tố Hữu. Nhấn mạnh, đặc biệt là trong thơ:

    “Khi tôi trở về tôi có nhớ tôi không…Tôi sẽ nhớ ai câu hát chung tình”

    Người dân Việt Nam nhớ nhung những chiến sĩ kháng Nhật đã trở về với Tổ quốc cách mạng “đầy máu thịt” trong 15 năm qua. Bao nhiêu chữ “nhớ” vang lên trong bài thơ, bao nhiêu nỗi nhớ của người ra đi và người ở lại. Nhớ chiến khu, nhớ “mái đình Hồng Đài, cây đa thời đại mới”, nhớ đêm “đoàn quân đi trùng điệp”, nhớ “cờ đỏ Đông Môn”, và cả “nhớ gì là nhớ người yêu”… Giữa bao nhiêu nỗi nhớ, một nỗi nhớ vừa ấm áp vừa buồn hiện ra:

    <3Mười câu trên là câu thứ năm của bài thơ Việt Bắc, tạo thành một tổng thể riêng. Đây là bức tranh toàn cảnh tiêu biểu của Việt Nam trong suốt cả năm. Bức tranh ấy rực rỡ, tươi tắn nhưng cũng buồn man mác bởi được chắt lọc qua nỗi nhớ của người xuôi ngược. Khi em nói lời chia tay, anh bày tỏ nỗi nhớ tha thiết:

    Khi tôi trở lại với chính mình, tôi nhớ tôi

    Hai lần “em về” xuất hiện ở đầu câu – cùng một lúc chia tay, nhưng câu cuối là để hỏi ai, còn câu sau là để bày tỏ nỗi lòng. Ở đây giọng thơ của người bạn thật ngọt ngào và đáng yêu. Sự khác biệt giữa người kháng chiến và người Việt Nam, giữa miền cao và miền xuôi trở thành lời chia tay của người ta-tôi. Gắn liền với cảnh sắc và hoài niệm về những năm tháng gian khổ của người con đất Bắc dần hiện lên trong tâm trí người lữ khách. Phong cảnh, con người Việt Nam, cái gì cũng đẹp và khó quên. Điều đầu tiên nhớ đến đó là hoa của cùng một người. Hoa và người hòa quyện trong nỗi nhớ. Bỏ lỡ hoa khôi là bỏ lỡ vẻ đẹp thiên nhiên Việt Nam, nhưng vẻ đẹp Việt Nam không thể tách rời vẻ đẹp con người Việt Nam, họ đã từng sinh ra và gắn bó với nhân dân, với cách mạng, với vẻ đẹp của quê hương. Hội họa Việt Nam trước hết là vẻ đẹp của sự hài hòa giữa con người và thiên nhiên.

    Bức tranh được miêu tả bằng câu thơ trầm lắng, nhẹ nhàng. Nó có màu sắc tươi sáng, rực rỡ, ánh đèn lấp lánh và âm thanh ấm áp, vui vẻ. Cảnh và người hòa quyện: Bốn cặp lục bát tả bốn mùa, câu đầu ghi cảnh, câu sau ghi người. Mỗi cảnh, mỗi người nhắc đến đều có điều để nhớ. Mọi thứ được mở ra trước mắt chúng ta qua nét vẽ tài tình của tác giả, một bức tranh cuộn tuyệt vời và thơ mộng về đất nước Việt Nam.

    Mùa nào cũng được nhà thơ nhớ đến với những nét tiêu biểu nhất, với cách diễn đạt dè dặt, gợi cảm, nhớ về mùa đông Việt Nam là nhớ về “rừng xanh, hoa chuối đỏ tươi”. Trong màu xanh bao la xuất hiện những gam màu ấm (đỏ), những bức ảnh mùa đông ở Việt Nam không còn lạnh giá, hoang vu. Mùa xuân, cây lại chuyển sắc, tràn ngập sắc trắng tinh khôi và thơ mộng: “Mùa xuân nở hoa, hoa nở trắng rừng”. Cảnh này hơi giống cảnh chú về Tàu :

    Ôi mùa xuân 41 sáng nay Biển Lâm hoa nở mộng lại về… lặng thinh. Chú chim nhỏ hót trên bờ, vui và ngẩn ngơ…

    (Theo dấu chân chú, làm người tốt)

    Bốn cặp lục giác sau được dùng để diễn tả sự xuất hiện của mùa hè và mùa thu. Nếu màu chủ đạo của hoạt cảnh là màu xanh lam, điểm vào là những bông hoa đỏ tươi, cảnh mùa xuân là hoa mai trắng, thì cảnh mùa hè là màu vàng tuyệt đẹp của khu rừng hổ phách: loài ve gọi là rừng hổ phách. Đây là một trong những bài thơ hay nhất trong nền thơ ca Việt Nam. Thể thơ lục bát thể hiện sự thay đổi của cảnh sắc thiên nhiên. Bài thơ ấy vang lên cùng tiếng ve kêu trong rừng hổ phách trong nắng hè. Cuối cùng cảnh thu cũng hiện ra, màu dịu của ánh trăng, màu của ước mơ cuộc sống êm đềm trong khổ đau. Cảnh nào cũng đẹp, mùa nào cũng đáng yêu, mùa nào cũng là một cuộn tranh nên thơ.

    Bản đồ bốn mùa còn phản ánh tấm lòng yêu cái đẹp của con người Việt Bắc. Phong cảnh là cái nền của con người, và con người sống theo cảnh vật, hòa quyện và phản chiếu lẫn nhau. Tưởng chừng như những cảnh này phải có những con người này, và nhà thơ đã viết nên những con người đáng yêu của bình dị Việt Nam vào bức tranh: hình ảnh một người lên núi, bên mình cầm một lưỡi kiếm sáng lấp lánh trong nắng, và một tay “Chạm vào mọi người” chiếc mũ đan “Shajiang” của Gong và “Chị hái măng một mình” giữa tiếng nhạc du dương và rừng vàng. Ngay cả bản tình ca cũng khiến Qiulin im lặng, và ánh trăng lặng lẽ tỏa sáng rực rỡ.

    Nếu không hiểu Việt Bắc, không yêu Việt Bắc, không nhớ Việt Bắc sâu sắc thì không thể vẽ nên bức tranh quê hương cách mạng đẹp đẽ, ấm áp như thế. Nhưng để có được hình ảnh như vậy, còn phải có góc nhìn đúng đắn, quan điểm tiến bộ của một nhà thơ cách mạng. Khác xa xưa nơi núi rừng, đồng bào lầm than là “thần, ma, nước độc”, dân gian ác độc,…) Yêu quê hương cách mạng, yêu quê hương cách mạng. Bức tranh nên thơ và đẹp như tranh vẽ này bắt nguồn từ sự gắn bó thủy chung, từ nỗi nhớ da diết của nhà thơ về những danh lam, thắng cảnh của miền Bắc Việt Nam.

    Nỗi nhớ da diết ấy là giọng điệu xuyên suốt cả bài thơ, nhịp thơ sáu tám câu lục bát nhẹ nhàng trầm bổng khiến giọng điệu có vẻ u sầu, tha thiết. Cấu tứ của thơ Việt Bắc là cấu tứ tương hỗ, có anh có em, có người đi ở nhưng thực chất chỉ là sự sao chép của chủ đề trữ tình.

    Câu thơ trên là câu trả lời, là lời giải thích cho những người đã đi, nhưng thực ra không phải. Nghĩ đến cảnh nhớ thương người thân và nhớ đến những chi tiết sống động ấy là ký ức chung của những con người nương tựa, đau khổ vào tình bạn suốt “mười lăm năm mặn nồng” đó.

    Những dòng cuối của bài thơ là bài ca nghĩa tình, thủy chung của các chiến sĩ cách mạng miền xuôi đối với đồng bào Việt Bắc. Bài hát ấy vang mãi trong lòng những người đã khuất, là lời nhắc nhở không nguôi về những tháng ngày son sắt nghĩa tình. Bài hát ấy là nhịp cầu giữa trái tim và trái tim, quá khứ, hiện tại và tương lai.

    4. Tôi cảm thấy mình như một người bạn học giỏi ngâm thơ ở Việt Nam

    Đô Du là một trong những nhà văn tiêu biểu trưởng thành trong kháng chiến chống Pháp của dân tộc. Bài thơ “Việt Bắc” là một trong những kiệt tác tiêu biểu của cả thời kỳ chống Pháp, tái hiện thời đại cả dân tộc đoàn kết chống đế quốc xâm lược.

    “Khi trở về em có nhớ anh không?”

    Mười lăm năm ấy mặn nồng

    Bạn có nhớ tôi không?

    Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn. “

    Đó là những câu thơ mở đầu bài thơ “Việt Bắc”, là những tình cảm, những chân tình mà nhà thơ tố hữu gửi gắm, như lời tâm tình giữa người ở lại và người cất cánh trên đường Con đường người ở lại hỏi người ra đi Khi về có còn nhớ người ở lại Thời gian lưu luyến như nhắc người ra đi Người ở không quên, người ở lại nhớ kẻ ra đi bên trái.

    “Em đi anh nhớ ngày xưa

    Mưa ngập, chói cây?

    Tôi nhớ chiến khu

    Hạt gạo chấm muối, ân nặng nghĩa tình

    Vào rừng thấy nhớ một người

    <3

    Tôi nhớ nhà

    Chiếc mũ trát son phấn

    Ta về ta vẫn nhớ núi

    Còn nhớ khi chúng ta còn chiến đấu chống Nhật trong Việt Minh không?

    Anh đi em nhớ anh

    Xem Thêm: Đoạn trích Chí khí anh hùng Trích từ câu 2213 đến câu 2230 trong tác phẩm Truyện Kiều

    tân tiêu, hồng thái, mái đình đa? “

    Đây là bài thơ tiếp nối lời của những người ở lại nói với những người đã khuất từ ​​trái tim, về những ngày Kháng chiến, về những cảm xúc của Kháng chiến, về chiến khu, về những con người, về tình cảm con người trong Kháng chiến.

    “Tôi và tôi, tôi và tôi

    Lòng ta luôn mặn nồng

    Anh đi rồi em nhớ anh lắm

    Bao nhiêu nước, bao nhiêu tình,..

    Không gì quan trọng hơn nhớ người yêu

    Trăng lên đỉnh núi, nắng chiếu sau lưng

    Nhớ từng phiên bản khói sương

    Đêm khuya đôi tình nhân về.

    Nhớ từng rừng trúc

    Thiên Hà đầy, Lệ Hi đầy

    Chúng ta đi rồi, chúng ta nhớ những ngày đó

    Ta còn đây cay đắng ngọt bùi”

    Đoạn tiếp theo là lời của người đi nói với đồng bào Những cảm xúc không thể nào quên trở thành ký ức về cuộc Kháng chiến và sẽ mãi in đậm trong tâm hồn dân tộc Đó sẽ là những kỷ niệm không thể nào quên mờ trong lịch sử dân tộc. Nó cũng là phần đính kèm của phần tiếp theo:

    “Thương nhau thì chia củ sắn cho nhau”

    Nửa bát cơm, đắp chăn

    Nắng nóng là giấc mơ của mẹ

    Đưa con ra đồng bẻ từng bắp

    Nhớ bảng lớp thứ i

    Những ngọn đuốc muộn thắp sáng giờ tiệc tùng

    Ghi ngày của proxy

    Xem Thêm : Giải bài tập sgk Địa Lí lớp 9 hay, ngắn nhất

    Cuộc đời gian khổ vẫn hát bên đèo núi.

    Nhớ tiếng mõm trong rừng chiều

    Cối cối đêm đêm nện đều đều,…”

    Là sự nối tiếp câu ca giữa những con người, đi mưu sinh, về miền xuôi nhưng luôn nhớ về cái nôi cách mạng-Chiến khu Việt Nam, đồng bào đoàn kết, đoàn kết, đồng lòng. Chung lòng, chung sức đấu tranh chống các thế lực thù địch phản bội, cướp nước. Ở đó, binh lính và thường dân đoàn kết với nhau, và các cá nhân hòa nhập vào cái chung của quốc gia. Những tháng ngày cùng nhau chiến đấu trong cuộc đời, cùng ăn, cùng ngủ, cùng làm, cùng học.

    “Giặc đến, nhớ lấy

    Rừng, núi, ta tiến về phía Tây

    Pháo đài bằng sắt dày trải dài trên núi

    Rừng rậm giấu quân, rừng rậm vây giặc

    Sương mù bốn bề ấn tượng

    Chúng ta một lòng làm chủ cả vùng chiến sự”

    Con người và thiên nhiên cùng chung sức, con người sát cánh chiến đấu đánh thắng giặc Pháp, chúng có vũ khí trang bị hiện đại, ta thì ngược lại, vũ khí trang bị hiện đại không nhiều nhưng chúng ta nắm rõ địa hình và địa hình, chúng ta có thể sử dụng kết hợp các lợi thế và kẻ thù chiến đấu.

    “Mặt tối của kẻ thù ở đâu

    Ngước nhìn Việt Nam: Chú He Guangsoi

    Nỗi đau

    <3

    Mười lăm năm ấy ai quên

    Tạo ra một ngôi nhà cách mạng cho nền cộng hòa

    Khi anh quay lại, anh nhớ em

    Mái nhà công cộng cây đa mới

    Đây là bài thơ thể hiện ý chí, quyết tâm của cả dân tộc. Trước cuộc chiến chống thực dân Pháp xâm lược, nhân dân ta ngày đêm đứng lên kiên quyết, kiên quyết đấu tranh chống lại thế lực đó. Đây là bài thơ tri ân, là hồi ức xúc động, trìu mến của nhà thơ về những biến cố đã qua của dân tộc, đất nước.

    Bài thơ “Việt Bắc” ra đời vào thời điểm diễn ra những biến cố lịch sử, tháng 10 năm 1954, nhân dân ta dần thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, căn cứ địa cách mạng từ chiến khu Việt Bắc trở về. Ở thể loại văn xuôi, nhà thơ Du Bạn viết những vần thơ gợi lại những năm tháng gian khổ mà hào hùng trong cuộc kháng chiến của dân tộc. Xuất phát từ hiện thực, nhà thơ nhớ về quá khứ hào hùng của dân tộc khi anh dũng đánh giặc. Đó là tình cảm cao cả, nghĩa tình, gắn bó sâu nặng với Việt Bắc – quê hương cách mạng, quê hương và dân tộc.

    5. Cảm nhận tiếng Việt Bắc câu 3

    Có thể nói Thơ Bắc Việt là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất khẳng định địa vị của các yếu tố trong thơ ca cách mạng Việt Nam. “Việt Bắc” không chỉ là bản anh hùng ca miêu tả cuộc kháng chiến vĩ đại, gian khổ mà hào hùng của cả dân tộc, mà còn là bản tình ca ca ngợi tình hữu nghị sâu nặng giữa cán bộ, quân dân và nhân dân hai nơi. với một tên miền khác. người miền xuôi. Cảm giác sâu sắc này được thể hiện rất cụ thể và sinh động trong phần ba.

    Cả bài thơ là lời của người ở lại, từng dòng thơ là tình cảm của người ở lại và của người ra đi, là tình cảm của nhân dân Việt Nam và của cán bộ cách mạng. Bốn dòng đầu của bài thơ, người ở lại tái hiện lại ký ức năm xưa, ký ức về một thời đã mất:

    “Khi ta đi, ngươi có nhớ những ngày mưa dầm, suối nước, mây mù? Khi ta trở về, ngươi có còn nhớ cuộc chiến với Tiên Phàm, mối thâm thù không?

    p>

    Những người ở lại kể về những tháng ngày gian khổ chống chọi với thiên nhiên khắc nghiệt của núi rừng Việt Nam. “Mưa về nguồn” là hiện tượng thiên nhiên đặc trưng ở miền núi, thượng nguồn mưa lớn, đổ xuống đột ngột thường gây ra lũ ống, lũ ống, lũ ống. Hiện tượng thiên nhiên khắc nghiệt này chỉ tồn tại trên những ngọn núi cao, và nó như một tai họa luôn đe dọa cuộc sống con người. Ngoài ra, ở đây có “mây”, đồng bào miền núi lại sống ở trên cao nên mây mù, sương mù dày đặc tạo nên một không gian lạnh lẽo cản trở nhiều hoạt động và cản trở tầm nhìn của con người. Cả hai hiện tượng trên đều là trở ngại lớn đối với người miền núi cũng như người miền xuôi. Để vượt qua và thích nghi, cán bộ được đồng bào trong rạp đùm bọc, chia sẻ. Hãy là một kỷ niệm đẹp cho họ. Những người ở lại cũng bồi hồi nhớ lại những năm tháng chiến tranh bi thương, sự đối lập giữa hoàn cảnh và ý chí: “cơm ăn, manh áo” và “lòng căm thù sâu sắc”. Trong môi trường khắc nghiệt, trong điều kiện đấu tranh thiếu thốn, gian khổ, vật chất thiếu thốn, nhưng các chiến sĩ vẫn một lòng, đồng lòng, đoàn kết. Kẻ thù đó là giặc ngoại xâm, nhiệm vụ cách mạng cao cả mà đảng giao phó, không chỉ là kẻ thù của người cán bộ cách mạng, mà còn là sự chung sức, đồng lòng của đồng bào các dân tộc cao nguyên. Quyền lực sinh ra thù địch. Người ở lại bày tỏ nỗi nhớ nhung, tình cảm sâu sắc đối với người đã khuất sau khi nhắc lại những kỷ niệm mà người ở lại sẽ trân trọng và nhớ mãi:

    Em về, núi rừng nhớ mai rụng, mai già, nhớ lau sậy nhạt màu son

    Ở hai câu đầu, ta thấy nỗi nhớ người ở lại được diễn tả bằng hình ảnh ẩn dụ “Lin Siren”, có nghĩa là không chỉ có người mà cây cối, núi thẳm, rừng thẳm đều là một. .Trí nhớ con người. Măng nhồi, măng rừng là món ăn quen thuộc của người miền núi, nhưng theo hoài niệm, măng đã rụng, măng đã già. Bài thơ “Ba cành mai rụng, cành mai già” thể hiện nỗi nhớ nhung, trống vắng, mất mát lan tỏa khắp núi rừng và ảnh hưởng đến đời sống sinh hoạt của con người. Hơn nữa, sự xót xa còn được thể hiện qua sự đối lập của “đôi mắt xám” và “sâu thẳm bên trong”, sự đối lập của điều kiện vật chất và điều kiện tình cảm, lòng người. Mái tranh, vật dụng đơn sơ, dột nát, hiu quạnh nhưng tấm lòng không đơn sơ, “giàu” là tiếng lóng để chỉ sự sâu đậm, nồng nàn của tình yêu. Những hình ảnh tương phản đó càng nhấn mạnh rằng người Việt Bắc tuy nghèo về vật chất nhưng giản dị về tình cảm nhưng không bần cùng. Qua câu chuyện của những người ở lại, ta thấy được nỗi nhớ nhung, tình cảm của đồng bào chiến khu đối với những người cán bộ cách mạng trở về là tình cảm lớn thể hiện trong những vần thơ về lòng yêu nước. Cuối cùng, ở bốn câu cuối là lời cảnh cáo, nhắc nhở người đã khuất:

    Khi về ta còn nhớ núi, hồi chống Nhật, khi còn Việt Minh, và khi đi ta có nhớ tân trao, hồng thái, mái nhà của ta không? của cây đa? “

    Người ở lại căn dặn người cách mạng phải luôn nhớ về cội nguồn, “Nhớ núi” là nhớ mảnh đất gắn liền với một thời anh hùng gian khổ, và “Nhớ thời chống Nhật, chống Việt”. là nhớ. .Buổi đầu cách mạng đầy gian khổ hy sinh. Có hòa bình mất mấy tháng, có độc lập, hòa bình khó khăn gì, người cán bộ phải luôn ghi nhớ điều này, nhớ về cội nguồn thành quả của cách mạng. Đại từ “anh” được dùng ba lần trong bài thơ để chỉ người ra đi, có ý nghĩa nhắc nhở người cán bộ phải nhìn lại mình và biết giữ vững bản chất cách mạng của mình. Địa danh là tên gọi bất hủ, truyền thống mới, vùng đất Hồng Đài liên quan đến những sự kiện quan trọng, nơi sinh thành, khả năng nuôi dưỡng các tổ chức, cán bộ cách mạng. Nay cuộc đời đổi thay, thân phận đổi thay, nhưng thực tiễn cách mạng không bao giờ thay đổi, luôn thấm nhuần lòng biết ơn hướng về cội nguồn qua những lời căn dặn, nhắc nhở của người ở lại và người đi. . vận mạng. Sau khi đọc phần thứ ba, tôi cảm nhận được sức mạnh của chủ nghĩa dân tộc. Thể thơ lục bát đều giúp diễn tả nỗi nhớ, sự liên kết vần-vần giúp thể hiện nỗi nhớ da diết, không dễ diễn đạt những cảm xúc nồng nàn. tách rời. Tác giả sử dụng đại từ “tôi” để chỉ cả hai nhân vật, và “tôi” đôi khi là từ ở lại và đôi khi là tiếng gọi ra đi, một cách dùng nhấn mạnh mối liên hệ chặt chẽ. Giữa người ở lại và người ra đi. Tuy nhiên, tác giả cũng liên kết nhiều biện pháp tu từ, truyện ngụ ngôn “Ta đi”, “Ta về” nhấn mạnh sự thật của sự chia xa, còn “nhớ”, “nhớ” nhấn mạnh mức độ khắc khoải, lo lắng. Nỗi day dứt của nỗi nhớ. Từ láy giúp khơi gợi cảm xúc, ẩn dụ, từ ngữ tương phản giúp nhấn mạnh những kỉ niệm, hồi ức được người ở lại gìn giữ, nâng niu và cuối cùng là từ chỉ vị trí giúp người đọc thấm nhuần cội nguồn. Cội nguồn cách mạng.

    Chính nội dung cách mạng, hình thức và giọng điệu dân tộc của thể thơ đã làm cho khổ thơ thứ ba của Tố Hữu, nhất là bài thơ Việt Bắc, có sức ảnh hưởng và sâu sắc. tâm tư, tình cảm của người đọc. Ghi nhớ mười lăm năm tình hữu nghị dân tộc, hướng tới một tương lai tốt đẹp hơn và khơi dậy tiếng nói của lòng trung thành.

    6. Cảm nhận 8 câu đầu bài ca dao Việt Bắc

    Khi Bạch nói về thơ, ông nói: “Thơ, tình là gốc, lời là tối, âm là hoa, nghĩa là quả.” Đây là thời đại toàn diện tạo nên sức sống của thơ ca Trung Hiền . Ngôn ngữ thơ cũng vậy. Nhà thơ đã dành cho bài thơ “Việt Bắc” thể hiện tình cảm sâu sắc của mình đối với công ơn thời chiến, đồng thời cũng làm rung động lòng người. Tám câu đầu: “Ta nghĩ về mình, ta có còn nhớ ta không… nắm tay nhau nói điều nên nói hôm nay…” là kết tinh của chủ đề ấy.

    Tám câu thơ đầu hay những dòng suy nghĩ lúc chia tay tô đậm nghĩa tình cách mạng giữa đồng bào miền núi với cán bộ, chiến sĩ.

    Thể thơ lục bát làm cho câu thơ mềm mại, âm điệu trầm bổng, giàu nhịp điệu, nhịp điệu đều đặn gợi lên muôn ngàn cảm xúc trong tâm hồn từ bao đời nay. Có kết cấu đối đáp trong truyện ngôn tình, xưng hô quen thuộc “ta, hắn”, hẹn hò nam nữ, Mei Tao mở ra không khí đậm đà tình cảm gia đình, giọng văn đầy tình cảm, ngọt ngào. Thơ ca và chính trị không hề khô khan.

    Đối với những người ở lại, người nhạy cảm với sự thay đổi nên nói trước:

    “–Quay về có nhớ ta không? Mười lăm năm rồi có còn nhớ đến ta không? Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn.”

    Câu hỏi tu từ trôi đi dần, hình thức tăng tiến “Em có nhớ anh không, em có nhớ không” khơi dậy cảm xúc từ xa, khắc khoải lắng nghe tiếng vọng. Để chúng ta cảm nhận được tấm chân tình của những người ở lại và tình thương của đồng bào dành cho những người đã ra đi. “Mười lăm năm” của thời kỳ lịch sử cũng là thời đại đầy ắp nghĩa tình và ân nghĩa. Không gian “cây, núi, sông, nguồn” gợi nhớ đến cảnh sông núi ngàn đời Việt Nam. Từ “nhớ” thể hiện tình cảm lớp lớp da diết, không còn đường quay lại. Diễn đạt lỗi với ý dân gian, như lời nhắn nhủ của cha ông ta về lối sống ẩm thấp nguyên thủy, nhắc nhở lòng trung nghĩa.

    Lời nói của người trước đáp lại tiếng nói của người sau:

    “- tiếng ai bên sông quặn thắt bụng, bước lững thững áo chàm, tay nắm tay, nói gì nói hôm nay…”

    Cặp câu lục bát, sử dụng từ “bâng khuâng, bứt rứt” đã diễn tả hết nỗi niềm trong lòng người mất. Tâm trạng có thể thấy nhưng không thể chạm được “Đi không yên” ngụ ý bước đi chậm rãi như bước chân của một kẻ chinh phục, không chịu buông tay, người anh hùng của ngày nào trong “Người Chinh Phục Ướt”:

    “Đi một bước, dừng lại hai bước”

    Nhưng đây là quan hệ vợ chồng, còn “Việt Bắc” là chỉ tình đồng chí, tình bằng hữu. Hình ảnh tà áo lam lúc chia tay, người từng đến rồi đi trong ca dao xưa, tà áo che người cho bớt cô đơn, tà áo của kiều nữ Thượng Hải trong tiệc chia tay. Nhưng bạn tôi mượn màu chàm của người dân miền ngược, giản dị, bền màu, không dễ phai, nói rằng màu trong lòng người sẽ không bao giờ thay đổi. Tâm tư, tình cảm của người trong nghề do người trong nghề cảm nhận, dường như “ta, ta” hiểu nhau dù không cần nói thành lời. Bởi vậy, hành động “nắm tay mới biết chữ” được ví như khoảng lặng của âm nhạc, khoảng trống của nhiếp ảnh, khoảng trống tàn nhẫn của văn chương. Thời gian như ngừng trôi, những cuộc đối thoại giữa cư dân và du khách, trải nghiệm về tình bạn giữa đồng bào và cán bộ cách mạng, mang lại những tình cảm cách mạng sâu sắc.

    Tám câu đầu của “Nhạc Bắc” không chỉ thấm đượm giá trị dân gian phong phú mà còn được nhà thơ sáng tạo những ý tưởng mới, hình ảnh mới, cách diễn đạt tình cảm, sự việc đương thời phản ánh quy luật thời đại. Độ thừa, cách tân nghệ thuật.

    7.Cảm nhận bài thơ Việt Bắc – Ví dụ 1

    Tử Hữu là đại biểu xuất sắc của nền thơ ca cách mạng Việt Nam, đồng thời cũng là nhà thơ độc đáo trong sáng tác. Tác giả có giọng trữ tình thiết tha, tác phẩm của ông luôn gắn liền với những giai đoạn quan trọng của lịch sử dân tộc. Vì vậy, bài thơ này vừa mang tính dân tộc, vừa mang tính hiện đại.

    Thơ Việt Bắc là đỉnh cao của thơ Du Hữu và là thành tựu xuất sắc của thơ chống Pháp. Bài thơ này ra đời trong dịp diễn ra một sự kiện lịch sử: tháng 10 năm 1954, các chiến sĩ kháng Nhật rời căn cứ miền núi về miền xuôi. Lấy đây làm điểm khởi đầu, cả bài thơ ngược dòng về quá khứ, nhớ lại những năm tháng cách mạng hào hùng, những năm tháng kháng chiến gian khổ, thể hiện nỗi nhớ quê hương Việt Nam, Bác Hồ, Tổ quốc. Nhân dân đều là nguồn sức mạnh tinh thần quan trọng để dân tộc ta kiên trung đi theo con đường cách mạng. Nội dung này được thể hiện dưới dạng in đậm. Bài thơ này rất tiêu biểu cho thể thơ lục bát.

    Môi trường sáng tác đã tạo nên một tâm trạng đặc biệt, dạt dào cảm xúc: Nói gì hôm nay… Mười lăm năm xa cách, bao kỷ niệm đẹp, bao thăng trầm năm xưa, nay cùng nhau ôn lại những kỷ niệm đẹp, khẳng định niềm tin định nghĩa về lòng trung thành, Hướng tới một tương lai tươi sáng. Chuyện tình cách mạng được thể hiện một cách tinh tế là quan niệm nghệ thuật về tình nghĩa vợ chồng thương yêu nhau.

    Diễn biến tình cảm trong tình yêu được tổ chức theo dòng ca dao, dân ca quen thuộc, người hỏi, người đáp, tâm tình, người đối đáp, tiếng vọng. Một câu hỏi và một câu trả lời không chỉ gợi mở bao kỷ niệm về thời kỳ cách mạng hào hùng và gian khổ của cuộc Kháng chiến, mà còn gợi mở bao hoài niệm. Thực ra, bên ngoài là lời đối đáp, còn bên trong là lời độc thoại, bộc lộ tâm tư, tình cảm của chính nhà thơ và lời độc thoại của những kẻ phản nghịch.

    Thông qua dòng hồi tưởng có chủ đề trữ tình, cảnh và vẻ đẹp của con người Việt Nam được bộc lộ. Nỗi hoài niệm thiết tha của người cán bộ sắp trở về Trung Quốc đã khắc họa sâu sắc thiên nhiên núi rừng Việt Nam với vẻ đẹp vừa hiện thực vừa thơ mộng, gợi lên một phong cách riêng, độc đáo khác hẳn các làng quê khác trên cả nước. Chỉ những ai đã từng sống ở Việt Nam, coi Việt Nam là quê hương thân yêu mới thấy nhớ da diết, da diết với nắng chiều, ánh trăng chiều, xóm làng mờ sương sớm, bếp lò, ngọn núi trong đêm khuya mới là nỗi nhớ. Và những dòng sông với những cái tên quen thuộc—tất cả đều lấp lánh ký ức về thời gian và không gian:

    Không gì quan trọng hơn nhớ người yêu

    ngòi thia, sông Đáy, suối le đầy ắp.

    Nhưng trong nỗi nhớ về miền Bắc Việt Nam, có lẽ điều đẹp đẽ nhất chính là sự hòa quyện mật thiết giữa con người và cảnh vật, là ấn tượng khó phai mờ về tấm lòng yêu nước cần cù, thủy chung của con người Việt Nam:

    Anh về rồi em có nhớ anh không

    Bài hát về tình yêu trung thành

    Có thể thấy cảnh sắc thiên nhiên Việt Bắc thay đổi theo thời tiết, theo mùa thể hiện vẻ đẹp đa dạng, phong phú và sinh động.

    Khung cảnh nào cũng đi kèm với hình ảnh những người dân dã làm ruộng, người đan nón, người hái măng… Họ dùng những thứ tưởng chừng như tầm thường để tạo nên sức mạnh to lớn trong cuộc kháng chiến. Sự công bằng của nhân dân và sự quan tâm, cảm thông, chia sẻ với cán bộ, chiến sĩ, cùng chia sẻ niềm vui nỗi buồn, chia sẻ mọi công việc gian khổ… tất cả hiện lên trong tâm trí nhà thơ. Việt Bắc – đó là hình ảnh mái tranh “sậy xám, giàu tấm lòng son”, “hình ảnh người mẹ trưa nắng – dắt con ra đồng bứt từng bắp ngô” là ngày lĩnh vực . Màu cam cộng với nỗi đau:

    Thương nhau, chia củ sắn

    Xem Thêm: Ngày 10/10 năm nay là ngày gì?

    Nửa bát cơm, đắp chăn…

    Có thể nói chất trữ tình âm vang xuyên suốt bài thơ đã tạo nên một bản tình ca ngọt ngào về tình bạn, tình yêu nước, thiên nhiên, quê hương và cuộc sống.

    p>

    Toàn bài thơ theo chủ đề trữ tình của kỉ niệm, dẫn người đọc vào khung cảnh chiến tranh Việt Nam, núi rừng bạt ngàn, sinh hoạt tấp nập, hình ảnh hào hùng, giọng điệu truyền cảm, vội vàng, rạo rực. Cách mạng và kháng chiến đã xua tan sự mịt mù, hiu quạnh của núi rừng, đồng thời khơi dậy sức sống mãnh liệt của thiên nhiên và con người Việt Bắc. Đoạn thơ này mang đầy âm hưởng sử thi, vừa mang dáng dấp của sử thi hiện đại, bởi ném ra hồ vừa phác họa được khung cảnh hùng vĩ của Việt Nam, vừa cho thấy khí thế quật cường của cả dân tộc đứng giữa đồng hoang. Các nước Đấu tranh cho Độc lập và Tự do:

    Con đường Việt Bắc của chúng ta

    Đèn pha sáng như ngày mai.

    Đất nước ấy đã vượt qua bao gian khổ, gian khổ, hy sinh để làm nên những kỳ tích, kỳ tích gắn liền với những địa danh như: phủ thông, giang đèo, sông lô, thông, thái bình, tây bắc, điện biên v.v.. nhưng tu hu Nó không chỉ mô tả khí thế hào hùng của cuộc kháng chiến chống Nhật Bản, nhưng cũng giải thích sâu sắc nguồn gốc sức mạnh chiến thắng của cuộc chiến tranh chống Nhật Bản. Đó là sức mạnh của lòng căm thù: “Hạt gạo đầy muối là hận”, sức mạnh của lòng trung thành: “Ta đi ta đi đắng cay ngọt bùi”, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, sức mạnh của sự gần gũi. . Sự hòa nhập giữa con người và thiên nhiên—cùng nhau tạo nên hình ảnh của một quốc gia:

    Hãy nhớ khi kẻ thù đến

    Chúng ta có cả một vùng chiến sự.

    Người bạn này đặc biệt nhấn mạnh bằng một bài thơ trang trọng và chân thành rằng Việt Nam là quê hương của cách mạng, là căn cứ địa vững chắc, thành lũy của cuộc Kháng chiến, là nơi quy tụ tình cảm, tư tưởng, niềm tin và niềm tin của nhân dân. Niềm hy vọng của tất cả những người yêu nước Việt Nam. Trong những ngày đen tối trước cách mạng, hình ảnh Việt Bắc dần hiện ra từ xa (mưa suối, mây trời), xác định đây là một chiến khu kiên cường, nơi đã ra đời bao cuộc đấu tranh, một nơi không bao giờ mất. Nơi sinh trong lịch sử dân tộc:

    Ta về ta vẫn nhớ núi

    tân tiêu, hồng thái, mái nhà công, cây đa

    Trong những năm kháng chiến chống Nhật gian khổ, Việt Bắc là nơi đèn đuốc sáng trưng, ​​bàn việc quốc sự. Để khẳng định niềm tin yêu đất nước Việt Nam, Tố Hữu dùng những vần thơ rất mộc mạc, giản dị mà thiết tha:

    Nỗi đau

    Tổ quốc cách mạng dựng nên nền cộng hòa.

    Nghệ thuật biểu đạt của đoạn thơ mang đậm tính dân tộc. Điểm đáng chú ý đầu tiên là yếu tố này khai thác được rất nhiều ưu điểm của hình lục giác truyền thống. Cấu tứ của bài thơ này là một bài ca dao, với hai nhân vật trữ tình là ta và ta, kẻ ra đi và người ở lại, hát đối đáp. Trong bài ca vĩnh biệt lịch sử này, những người ở lại mở lời trước, nhớ về một thời đã xa, những năm tháng đấu tranh gian khổ trước cách mạng, còn những người ra đi thì tiếp tục hồi tưởng về chín năm kháng chiến chống Nhật. . .

    Nhà thơ rất chú trọng đến việc sử dụng các phép ẩn dụ trong ca dao, không những có tác dụng nhấn mạnh quan niệm nghệ thuật mà còn tạo nên nhịp điệu sinh động, cân đối, hài hòa, làm cho lời ca dễ thuộc, dễ nhớ, dễ thấm. Đi sâu vào tâm trí:

    Vào rừng thấy nhớ một người

    <3

    Dàn binh đánh thu đông

    Mở đường cho giao thông ở các vùng nông thôn

    Về ngôn ngữ thơ, Thủ tướng chú ý sử dụng chất dân gian giản dị, sinh động để tái hiện một thời kỳ cách mạng kháng chiến chống Nhật đầy gian khổ nhưng chan chứa nghĩa tình. Đó là thứ ngôn ngữ giàu hình ảnh cụ thể:

    Ngàn đêm sương mù;

    Mặt trời đang chiếu sáng vào buổi trưa;…

    Ngoài ra còn có một ngôn ngữ rất âm nhạc:

    Ban đêm dùng cối chày giã đều;

    Đêm ầm ầm như động đất;…

    Đặc biệt là Thơ lục bát sử dụng rất nhuần nhuyễn phép lặp trong ngôn ngữ dân gian:

    Anh về rồi, anh nhớ em

    Em về, nhớ chiến khu;

    Nhớ bảng lớp thứ i;

    Ghi ngày ủy nhiệm;

    Nhớ tiếng rọ mõm trong rừng chiều,…

    Tất cả tạo nên những ca khúc trữ tình chân chất, mượt mà, ngọt ngào như lời ru, đưa ta vào thế giới của kỉ niệm và tình yêu thủy chung.

    Bài thơ này là bài ca tri ân, là kỉ niệm cảm động, thắm thiết của một người bạn suốt mười lăm năm đất nước (từ Khởi nghĩa Bắc Sơn 1940 đến hoà bình lập lại 1954). Một tương lai tươi sáng, một lời nhắc ước chung thủy. Tuohu thể hiện tình cảm dân tộc và giao phó tình cảm của đồng bào, phát huy vai trò của loại hình nghệ thuật dân tộc, trong đó nổi bật là thể thơ lục bát, ngôn ngữ thơ và tình cảm dân gian. Việt Bắc có thể coi là một bản tình ca, nhưng cũng là một bản anh hùng ca về cách mạng, kháng chiến và con người kháng chiến, cội nguồn sâu xa của nó là lòng yêu nước, tự hào về sức mạnh, là truyền thống của nhân dân ta. của người dân. Ân nghĩa, thủy chung của dân tộc Việt Nam.

    8. Cảm nhận bài thơ Việt Bắc – Ví dụ 2

    Giới thiệu

    Nhắc đến Việt Bắc là nhắc đến cái nôi của cách mạng, là nhắc đến đồng bằng Trung Bộ nghèo khó, nặng tình – nơi có biết bao kỷ niệm của một thời cách mạng gian khổ mà hào hùng. Thì làm sao lòng ta không xao xuyến khi phải xa nhau.

    Cứ thế, những sợi nhớ, những sợi tình quyện vào nhau như tiếng gọi “anh-em” của những đôi tình nhân đang yêu. Như nhà thơ trữ tình đã từng viết: “Khi ta ở trên đất chỉ là nơi ở/ Khi ta đi đất trở thành tâm hồn”. Đúng! Việt Bắc biến tâm hồn đằm thắm trong thơ, lời ca như khúc nhạc ngân nga, cảnh người đầy kỉ niệm không bao giờ quên.

    “Anh về rồi em có nhớ anh không

    ……………….

    Nhớ câu ca ân tình”

    Nội dung bài đăng

    Đầu Du là một nhà thơ trữ tình chính trị có tình cảm cách mạng vừa dịu dàng vừa sâu sắc. Đỉnh cao của thơ Việt Bắc nói riêng là thơ Hữu và thơ chống Pháp nói chung. Bài thơ này được viết vào tháng 10 năm 1954, khi Trung ương Đảng, Chính phủ, Bác Hồ và các cán bộ kháng Nhật cứu nước đã nghỉ hưu.

    “Thành phố ngàn gió” trở lại với “Thành phố hoa vàng và nắng hạ thành phố”.

    Cả bài thơ tràn đầy hoài niệm về những năm tháng ở Chiến khu gian khổ nhưng cũng đầy hân hoan và hào hùng. Nhưng có lẽ ấn tượng nhất trong bài ca dao Việt Bắc có lẽ là câu thơ nói về bức tranh tứ bình, với bốn mùa xuân hạ thu đông. Mở đầu bài thơ có hai câu giới thiệu ý chính của cả bài thơ:

    “Anh về rồi em có nhớ anh không

    Tôi nhớ hoa của bạn khi tôi trở lại

    Câu hỏi tu từ “có nhớ ta không” được sử dụng ở khổ thơ thứ nhất, khổ thơ thứ hai tự hỏi và tự trả lời. mà cả khổ thơ mang âm hưởng xa xăm của một, Nhiệt tình nghiêm túc.

    Xem Thêm : Hướng dẫn, thủ thuật về Thủ thuật văn phòng

    Cùng với Du You, những người cán bộ đã khuất không chỉ nhớ về những năm tháng khốn khó “cơm ăn nửa chăn”, mà còn trân trọng vẻ đẹp yêu kiều của hoa và người. Đây, hoa và tượng. Đại diện cho vẻ đẹp thiên nhiên Việt Nam.

    Người đàn ông Việt Nam, mặc áo chàm nghèo nhưng giàu. Hoa và người hòa quyện vào nhau trong một vẻ đẹp hài hòa, đằm thắm tạo nên nét riêng biệt, độc đáo của vùng đất.

    Điều này đã tạo nên cấu trúc độc đáo của bài thơ này, trong bốn cặp lục bát còn lại, sáu câu nói về hoa và cảnh, tám câu nói về người, mỗi câu đều có cảnh và người. Sắc thái độc đáo và các tính năng rất hấp dẫn.

    Nhắc đến mùa đông, chúng ta thường nghĩ đến cái lạnh thấu xương, sự u ám của một ngày mưa phùn và nỗi buồn của một tiết trời u uất. Nhưng ra Việt Bắc vào thơ Hữu mới là lạ. Ấm áp bất ngờ vào mùa đông:

    “Rừng xanh đầy hoa chuối đỏ tươi

    <3

    Điểm nhấn trên nền rừng xanh bạt ngàn là những bông hoa chuối đỏ tươi nở rộ dưới nắng.

    Màu “đỏ tươi” – màu đỏ rực của hoa mã đề, nở giữa núi rừng, biển xanh, làm cho thiên nhiên Việt Nam bừng sáng và ấm áp, như ẩn chứa một sức sống, xua đi cái giá lạnh cố hữu và rừng hoang hiu quạnh . Dòng này làm ta liên tưởng đến màu đỏ của hoa lựu trong bài thơ của nguyễn trai:

    “Thạch lựu còn đỏ”

    Sắc hồng lâu phai mùi thơm.

    =>Từ sự liên tưởng này, ta thấy mùa đông trong thơ Đỗ Hữu cũng toát lên cái ấm áp của mùa hè hơn là cái lạnh hoang vu, bởi màu đỏ của hoa chuối, từ đó nổi lên màu xanh của núi rừng.

    + Cùng với chiều tàn của hoa chuối, người dân chiến khu lên núi khai hoang, sản xuất ra nhiều lúa khoai cung cấp cho “đèo cao nắng chói chang” và ánh gươm giáo ” cho cuộc kháng chiến.

    Trước thiên nhiên rộng lớn, con người dường như càng trở nên tráng lệ.

    Ở đây, nhà thơ không miêu tả khuôn mặt mà ghi lại những biểu hiện rực rỡ nhất của tình yêu. Đó là nắng chiếu vào phiến rừng ngang hông anh.

    + Ở đây, câu thơ vừa mang ngôn ngữ thơ, vừa mang ngôn ngữ nhiếp ảnh. Con người là tâm điểm của ánh sáng. Người đó cũng xuất hiện với tư thế đẹp nhất – “Qualcomm”. Nhân dân đang chiếm đỉnh, chiếm núi rừng, tự do “núi là của ta/Trời xanh đây là của ta”.

    =>Đây là một thế thống trị kiêu hãnh và bền vững: giữa núi rừng và mặt trời, giữa bầu trời bao la và rừng xanh bất tận. Người đó đã trở thành linh hồn của Bắc Kinh Đông Hoa.

    Mùa đông đã qua và mùa xuân đã đến. Nhắc đến mùa xuân, chúng ta nghĩ ngay đến cỏ cây, hoa lá và trăm loài bừng dậy sức sống mới sau một mùa đông dài. Mùa xuân ở Việt Nam cũng vậy:

    “Mùa xuân trắng rừng”

    Nhớ người đan nón chuốt từng sợi chỉ. “

    + Hoa mai khắp núi dịu dàng, trong veo, trắng tinh khôi bao trùm khung cảnh mùa xuân:

    “Mùa xuân hoa trắng núi rừng”. “Lâm Bạch” viết ngược, dùng từ “bạch” làm động từ nhấn mạnh màu sắc, màu trắng dường như bao phủ toàn bộ màu xanh của lá cây, chiếu sáng cả một khu rừng. Hoa hạnh trắng mơ màng, khao khát, dịu dàng. Động từ “nở” làm lan tỏa sức sống của mùa xuân và căng tràn sức sống.

    Mùa xuân trở nên tươi mới hơn với sự xuất hiện của các nhân vật trong chiến dịch “Cắt sợi”.

    Vẻ đẹp tự nhiên trong công việc hàng ngày. Từ “Thuận” và hình ảnh thơ chỉ bàn tay của người dân lao động: cần cù, tỉ mỉ, tài hoa, nhanh nhẹn, cẩn thận cũng là đức tính cần cù của người dân Việt Bắc.

    Mùa hè đang đến gần với tiếng ve kêu, bức tranh Việt Nam sống động hơn bao giờ hết:

    “Ve hót rừng đổ vàng”

    Nhớ em gái hái măng một mình.

    Khi tiếng ve hót cũng là lúc rừng hổ phách vàng rực. Động từ “đổ” là một động từ mạnh, diễn tả cảnh hoa đồng loạt ngả vàng vào đầu hè.

    Màu hổ phách đổ vàng xuống dòng suối, như biến nắng hè và tiếng ve kêu thành vàng. Đó là một bức tranh sơn mài hoài cổ, ánh sáng và bóng tối, màu sắc, sự hối hả và nhộn nhịp đều tỏa sáng. phong cảnh.

    Chỉ trong một câu thơ trên, ta có thể thấy cả thời gian đang luân chuyển sống động: tiếng ve kêu báo hiệu mùa hè đến, cây hổ phách chuyển sang màu vàng rực rỡ.

    =>Đây là một biểu hiện độc đáo của chủ nghĩa dân tộc.

    Xem Thêm: Bài 3: Con lắc đơn

    Trong mảnh thiên nhiên trù phú vàng son ấy, có hình ảnh một cô gái áo chàm cần mẫn hái măng rừng về tiếp tế cho các chiến sĩ kháng Nhật: “Nhớ cô em hái măng một mình”.

    + Một mình đi hái măng không giống như khung cảnh phía sau của người họa sĩ trong thơ cổ, cô đơn lẻ loi mà ngược lại rất trữ tình, thi vị, nhân hậu, thân ái. Hình ảnh thơ còn gợi lên vẻ đẹp không đau đớn của người con gái. Đằng sau điều này là rất nhiều sự cảm thông và kính trọng của tác giả.

    Vào mùa thu, núi rừng chiến khu như được tắm mình trong ánh trăng xanh lấp lánh:

    “Trăng soi rừng thu

    Nhớ câu ca ân tình”

    Không gian bao la tràn ngập ánh trăng, đó là ánh trăng của tự do, ánh trăng của hòa bình, soi sáng cho từng ngọn núi, từng xóm làng, là niềm vui của mỗi làng quê Việt Nam. Hồi còn ở chiến khu, em đã biết trăng thu trong thơ anh:

    “Trăng vào cửa hỏi thơ

    Quân đội đang bận, vui lòng đợi

    Chuông reo đột ngột

    Tin thắng trận liên khu đã đến. “

    Ở đây không có tiếng chuông chiến thắng, nhưng có tiếng hát.

    Đây là tiếng hát thuần khiết của các dân tộc thiểu số, là khúc hát thủy chung.

    Đây cũng là mười lăm năm tình người Việt Bắc hát trong núi thẳm rừng già.

    Vâng! Bức tranh mùa thu Việt Nam hoàn thiện bức tranh núi rừng tươi đẹp và kết thúc bài thơ bằng bài “Lòng chung tình” khơi gợi tình yêu quê hương đất nước. nước.

    Kết luận

    Những bài thơ trên của Du Hú làm nổi bật cảnh vật, nhân vật bốn mùa ở Chiến khu Việt Nam bằng nét bút mộc mạc, giản dị vừa cổ kính vừa hiện đại.

    Cảnh và người bổ sung cho nhau, bổ sung cho nhau, làm cho bức tranh thêm gần gũi, sinh động và giàu cảm xúc. Mọi thứ biến thành nỗi nhớ và sự quyến luyến cháy bỏng trong lòng người cán bộ trở về.

    9. Cảm nhận thơ Bắc Bộ – Ví dụ 3

    Cảm nhận của em về Bắc Tống——Nhà thơ Tố Hữu được coi là ngọn cờ tiên phong của phong trào thơ ca cách mạng ở nước ta với các tác phẩm “Lời ấy”, “Khi tôi đi tu”, “Hú vía”, “Việt Bắc” Chờ những tác phẩm bền bỉ

    Tác phẩm của tác giả về đề tài yêu nước và cách mạng đậm chất chính trị nhưng không bao giờ buồn tẻ. Nhưng ngược lại, trong các tác phẩm của ông, có nhiều nghệ thuật độc đáo khiến ai cũng cảm nhận được vẻ đẹp của nó.

    Bài thơ “Việt Bắc” được tác giả viết khi nước ta đánh đuổi thực dân Pháp, mười lăm năm sống ở Việt Bắc, các chiến sĩ cách mạng rời núi thẳm rừng già trở về thủ đô Hà Nội. Cuộc chia tay cay đắng giữa cõi chết khiến người đọc vô cùng xúc động, nghẹn ngào trước tình cảm thiêng liêng như máu thịt đối với đồng bào, đồng đội. Đặc biệt trong tác phẩm “Việt Bắc”, tác giả Dư Bạn đã khắc họa một cách sinh động và hấp dẫn bức tranh tứ bình bốn mùa xuân hạ thu đông của núi rừng Việt Nam.

    Xuyên suốt cuốn sách là tình cảm chân thành và cảm động của tác giả đối với đồng bào cả nước, trong đó ông đóng vai trò tham gia Kháng chiến. Nơi chất chứa bao kỉ niệm đau thương, vui buồn của những ngày khốn khó.

    Bài thơ “Việt Bắc” thể hiện hình ảnh bình dị gần gũi giữa người chiến sĩ cách mạng và đồng bào Tây Bắc. Đồng bào các dân tộc hiền lành, chất phác nhưng yêu nước, trung thành đi theo cách mạng, đa màu sắc.

    Đoạn đầu, tác giả thể hiện sự ngăn cách giữa “mình” và “ta” một cách nặng nề và đầy ý nghĩa, thể hiện sự phụ thuộc lẫn nhau của họ hàng, bà con trong một gia đình, thể hiện sự gắn bó với nhau. Như máu như ruột. .

    Anh về có nhớ em không

    Tôi nhớ hoa của bạn khi tôi trở lại

    Tác giả sử dụng ngôn ngữ vô cùng tinh tế để thể hiện mối quan hệ đoàn kết, thân ái giữa quân và dân đầy tài tình.

    Câu thơ nói lên nỗi lòng trĩu nặng của kẻ ra đi và kẻ ở lại. Mười lăm năm bên nhau không phải là một thời gian ngắn. Đây là một đời khó quên. Bộ đội cách mạng cùng nhân dân Tây Bắc vượt qua khó khăn hoạn nạn, cùng nhau chia ngọt sẻ bùi, đã từng “bát cơm manh áo”

    Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

    Qualcomm dưới ánh mặt trời với một con dao thắt lưng

    Đọc những câu thơ này, bạn đọc sẽ ngỡ ngàng trước vẻ đẹp của núi rừng Việt Nam khi đông về. Khi đông về, người ta thường cảm thấy lạnh và buồn. Nhưng trong thơ Du Du, mùa đông Việt Nam không buồn mà ấm áp, khi hoa mã đề nở mang đến một không khí vui tươi.

    Những bông hoa chuối đỏ làm cho khu rừng rực rỡ hơn, và ánh nắng làm cho khu rừng rực rỡ hơn vào mùa đông. Tác giả sử dụng nghệ thuật chấm câu để sưởi ấm người đọc khi mùa đông nóng lên.

    Một tia nắng hiếm hoi làm cho không khí mùa đông rực rỡ hơn, một tia nắng làm cho bức tranh mùa đông thêm ấm áp và thơ mộng. Màu đỏ của hoa chuối hòa với màu nắng tạo nên một màu đầy hy vọng, tràn đầy sức sống của thiên nhiên và tràn đầy hy vọng.

    Mùa xuân hoa nở trắng rừng

    Người nhớ đan nón chuốt từng sợi

    Ở những câu thơ sau thể hiện một bức tranh phong cảnh mùa xuân của núi rừng Tây Bắc mềm mại, uyển chuyển tạo nên một sức sống vô cùng mãnh liệt, phác họa nên một bức tranh mùa xuân vô cùng đặc sắc. Hoa mai là loài hoa đồng hành cùng núi rừng Tây Bắc, cứ mỗi dịp Tết đến xuân về, hàng nghìn hecta hoa mơ lại nở rộ tạo nên một khoảng trắng bạt ngàn, một bức tranh mùa xuân Tây Bắc.

    Mỗi hình ảnh gắn liền với một chân dung rất độc đáo của một cô gái dịu dàng đang làm công việc cực kỳ chi tiết. Những con người say nghề, yêu công việc, miệt mài lao động đã tạo nên một bức tranh xuân đất và người rất đặc sắc.

    Gọi rừng đổ vàng

    Nhớ em hái măng một mình

    Tiếng ve kêu râm ran làm khu rừng giữa trưa thêm sinh động. Màu vàng đặc trưng của rừng Hổ Phách đặc biệt ấn tượng vào mùa hè và là một bức tranh rất đẹp về vùng cao. Tiếng ve kêu dường như phá vỡ sự tĩnh lặng, yên bình nơi núi rừng, khiến không khí mùa hè trở nên sôi động hơn bao giờ hết.

    Tác giả sử dụng động từ “đổ” để nhấn mạnh khung cảnh chuyển màu của mùa hè thật ấn tượng và lôi cuốn. Cuộn tranh về mùa hè bỗng bừng lên sức sống mới.

    Trong bức tranh thiên nhiên mùa hè này, người đọc cảm nhận được những bóng hình trong đó. Cô gái hái măng một mình không gợi sự cô đơn mà vẫn thể hiện một sức sống sôi nổi.

    Rừng thu trăng sáng bình yên

    Bài hát về tình yêu trung thành

    Ở những câu thơ này, cảnh sắc mùa thu của núi rừng Tây Bắc, ánh trăng dịu dàng và mát lành, vẽ nên một bức tranh thiên nhiên tựa chốn bồng lai tiên cảnh nơi trần gian. Ánh trăng trong tranh mùa thu là ánh trăng thể hiện tình tri kỉ, thể hiện tình bạn thân thiết giữa con người với thiên nhiên trong gian khó.

    Hình ảnh ánh trăng ở núi rừng Bắc Bộ mang đến cho con người vẻ đẹp vô cùng lộng lẫy của mùa thu. Tác giả Wangyue nhớ người, nhớ tình cảm quân dân cách mạng.

    Bài thơ “Việt Bắc” của Dư Bạn đã cho thấy một bức tranh thiên nhiên Việt Bắc vô cùng độc đáo và tinh tế, tràn đầy sức sống. Nó thể hiện tình cảm quân dân vô cùng nhớ nhung vượt qua gian khổ, gian khổ. Tác giả thể hiện một cách tinh tế nỗi nhớ da diết của người lính đối với mảnh đất này thân thiết như quê hương thứ hai của mình.

    10. Cảm nhận bức tranh tứ thơ Việt Bắc

    Đầu húy là nhà thơ tiêu biểu của nền văn học Việt Nam hiện đại. Ông là nhà thơ có tư tưởng cộng sản, nhà thơ lớn, thơ ông gắn liền với cách mạng. Chủ cũng quan tâm đến mọi người. Đến nỗi trong tác phẩm của ông luôn gần gũi với mọi người. Ông đã để lại cho đời một sự nghiệp văn học phong phú và có giá trị, một phong cách chính luận trữ tình sâu sắc, đậm đà bản sắc dân tộc. Điển hình là Bưu điện Việt Bắc. Có thể nói, kết tinh của tác phẩm này được đọng lại trong mười câu thơ thể hiện nỗi nhớ của người về nước, là bức tranh tứ bình hòa nhập với cảnh sắc thiên nhiên Việt Nam, con người Việt Nam.

    “Anh về rồi em có nhớ anh không

    Tôi nhớ hoa của bạn khi tôi trở lại

    Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

    <3

    Mùa xuân hoa nở trắng rừng

    Người nhớ đan nón chuốt từng sợi

    Gọi rừng đổ vàng

    Nhớ em hái măng một mình

    Rừng thu trăng sáng bình yên

    Nhớ câu ca ân tình”

    “Việt Bắc” ra đời tháng 10 năm 1954. Kháng chiến chống Pháp thắng lợi, các cơ quan trung ương đảng và chính phủ từ Việt Bắc trở về Hà Nội. Tou Hu cũng là một trong những cán bộ đã sống với Yue Bei trong nhiều năm, và bây giờ anh ta rời khỏi khu vực chiến tranh để trở về. Bài thơ dường như đã được viết trong buổi chia tay lưu luyến ấy.

    Có lẽ điều đẹp đẽ nhất của hoài niệm Việt Nam chính là ấn tượng khó phai mờ về những con người sống chan hòa với núi rừng tươi đẹp.

    “Anh về rồi em có nhớ anh không

    Tôi nhớ hoa của bạn khi tôi trở lại

    Bài thơ mở đầu bằng một câu hỏi tu từ. Nhưng cuộc hỏi thăm chỉ là cái cớ để bày tỏ tình cảm, tô đậm thêm niềm nhớ nhung của người dân thủ đô. Hai câu đầu là câu hỏi và câu trả lời của tôi với những cán bộ kháng Nhật đã trở lại tiền tuyến. Em hỏi anh có nhớ em không? Người cách mạng về miền Bắc, xin đồng bào Việt Bắc bày tỏ tình cảm, Dù ở xa nhưng lòng ta vẫn hướng về miền Bắc. Các từ “ta”, “nhớ” được lặp đi lặp lại thể hiện lòng trung thành. Nỗi nhớ “hoa và người” của thiên nhiên, núi non và con người Việt Bắc. “Hoa” là kết tinh của hương vị, còn “người” là kết tinh của đời sống xã hội. Rốt cuộc, “con người là bông hoa của trái đất”. Hoa và người bổ trợ cho nhau, thắp sáng cả không gian núi rừng.

    Các câu tiếp theo thể hiện cụ thể và chân thực vẻ đẹp của bốn mùa trong rạp hát. Cảnh và nhân vật hòa quyện vào nhau. Cứ câu thơ tả cảnh lại có câu thơ tả người. Mỗi mùa mang một vẻ đẹp riêng, tạo thành một bức tranh tứ bình đầy ánh sáng, màu sắc và âm thanh, vui tươi và ấm áp. “Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

    Qualcomm dưới ánh mặt trời với một con dao thắt lưng

    Bức tranh bắt đầu với cảnh mùa đông. Ta luôn thắc mắc tại sao tác giả không miêu tả bốn mùa trước đông theo quy luật tự nhiên xuân hạ thu đông. Có lẽ vì tác giả viết bài thơ này vào tháng 10 năm 1954, lúc đó đang là mùa đông, và cảnh mùa đông ở Việt Nam đã gợi cảm hứng cho ông viết nên tâm trạng của những mùa đông trước.

    Nghĩ đến mùa đông phương Bắc, tác giả không khỏi nhớ đến cái lạnh, cái lạnh và sự u ám. Nhớ ngày đông đầy nắng đó. Thảm thực vật bạt ngàn của núi rừng Bắc Bộ. Nó như làm nổi bật màu đỏ tươi của hoa chuối. Hình ảnh “Hoa chuối đỏ tươi” – hình ảnh đặc trưng của rừng mùa đông Việt Nam, nó như ngọn đuốc, ngọn lửa rực rỡ thắp sáng bức tranh mùa đông, xua đi bóng tối, giá lạnh của núi rừng. nơi đây. Cả không gian ấm áp. Điểm xuyết vẻ đẹp đông bắc đặc trưng. Đằng sau bức tranh mùa đông là hình ảnh người nông dân trèo đèo cao làm ruộng. Hình ảnh nhân viên khỏe mạnh sẽ ngày càng tỏa sáng. Ông đã sử dụng nghệ thuật đảo ngữ, thay vì dùng “nắng” như một danh từ, ông dùng động từ “nắng” nhằm mục đích làm cho hình ảnh người lao động thêm đẹp đẽ, rực rỡ.

    Mùa đông lạnh giá qua đi, chúng ta bắt đầu một mùa xuân ấm áp và hạnh phúc

    “Mùa xuân trắng rừng”

    Nhớ người đan nón chuốt từng sợi chỉ”

    Mùa xuân – Hình ảnh “bông mai trắng trong rừng” là loài hoa đặc trưng cho mùa xuân ở Việt Nam. Hoa nở trắng cả rừng. Màu không trắng như trong truyện “Cành lê trắng mấy bông hoa” của Nguyễn Du Kiều. Đó là màu trắng trong trẻo, tinh khôi của núi rừng Việt Nam. Đằng sau mùa xuân trong trẻo, dịu dàng và thơ mộng. Nhà thơ nhớ những người đan nón. Hình ảnh “người mài dũa non sông” thể hiện đức tính cần cù, tỉ mỉ, khả năng và tài năng của người dân nơi đây. Họ dệt mũ từ những sợi bông này. Nó là vật dụng không thể thiếu của người dân nơi đây để che nắng che mưa, đồng thời cũng có thể làm quà biếu cho những người thân yêu.

    “Ve hót rừng đổ vàng”

    Nhớ em hái măng một mình

    Khi bạn nghe thấy tiếng ve kêu, đó là âm thanh đặc trưng của mùa hè. Rừng hổ phách bỗng được dát vàng. Đó là sự thay đổi đột ngột, khiến người ta có cảm giác ngay khi vừa nghe tiếng ve kêu râm ran, lá cây bách chuyển từ màu xanh sang màu vàng. Cả không gian Việt Bắc như được nhuộm một màu vàng rực rỡ. Năm tháng cho ta sắc màu, và trong sâu thẳm màu vàng rực rỡ ấy là hình ảnh cô thiếu nữ hái măng. Ở đó, toát lên sự chăm chỉ, cần cù, chịu khó. Măng là loại rau nuôi quân cách mạng. Hình ảnh cô gái hái măng một mình thể hiện trạng thái tĩnh lặng, thư thái. Đoạn thơ làm ta liên tưởng đến câu: “Mai rụng rồi nụ mai cũng già”

    Nếu mùa đông có hoa mai, mùa xuân có hoa chuối, mùa hè có hoa hổ phách. Mùa thu có hoa gì? Mùa thu không có hoa nhưng mùa thu có người. Con người là bông hoa đẹp nhất. “Con người là hoa của đất”.

    Khác với văn học trung đại coi thiên nhiên là cái đẹp, văn học hiện đại coi con người là tiêu chuẩn của cái đẹp. Điểm này được thể hiện rõ nét trong những bài thơ miêu tả mùa thu của Du You.

    “Trăng soi rừng thu

    Nhớ câu ca ân tình”

    Nếu bài thơ lục bát là bài thơ miêu tả hình ảnh vầng trăng thì bài thơ này mang “tiếng nói của tình yêu”. “Moon-Music” của cặp đôi giúp tạo nên vẻ đẹp lãng mạn lung linh. Khi ấy, đất nước ta đang trong cuộc kháng chiến ác liệt, nhưng trong những vần thơ gửi bạn bè chỉ thấy sự thanh bình, yên ả, thanh bình và nghĩa tình thủy chung

    Nó chứa đầy chất thơ và nỗi nhớ da diết. Người ở nhà sẽ “tôi nhớ mình” “tôi nhớ tôi”. Tình yêu ấy thật chân thành, thật thiêng liêng, thật nhiều tình yêu thủy chung. Năm tháng trôi qua, nhưng tình nghĩa cách mạng thủy chung giữa Việt Nam và nhân dân miền Bắc vẫn thủy chung son sắt, thủy chung son sắt.

    Suốt cả 10 câu, yếu tố hài hòa nằm ở đoạn thơ, ở đoạn thơ, ở đoạn thơ, ở đoạn thơ, tả người. Sự hài hòa này tạo nên một bức tranh đẹp và đầy màu sắc. Chủ nhân bày tỏ tình yêu với thiên nhiên núi rừng Việt Nam và lòng trung thành với những con người hiền lành chất phác nơi đây. bạn yêu và tự hào về việt bắc. Mỗi chúng ta cần biết đến các vùng đất khác nhau của đất nước mình, yêu mến và tự hào về vẻ đẹp kì diệu của nó. Hơn hết, chúng ta ghi nhớ công ơn to lớn của những người lính đã hy sinh chiến đấu và xây dựng để tạo nên một đất nước hòa bình và tươi đẹp như ngày hôm nay.

    Vui lòng tham khảo thêm phần tài liệu của hoatieu.vn để biết thêm thông tin hữu ích.

Nguồn: https://anhvufood.vn
Danh mục: Giáo Dục

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *