Bài văn mẫu lớp 9: Bài viết số 7 (Đề 1 đến Đề 7) Tuyển tập 85 bài văn mẫu lớp 9 hay nhất

Bài văn số 7 lớp 9

Bài văn số 7 lớp 9

Bài văn mẫu lớp 9: Bài văn mẫu số 7 (Đề 1 đến đề 7) bao gồm dàn ý chi tiết và 85 bài văn mẫu từ đề 1 đến đề 7 giúp học sinh lớp 9 hoàn thiện bài Tập làm văn lớp 9 Bảy – Điểm Cao trong Sáng Tác Văn Học.

Bạn Đang Xem: Bài văn mẫu lớp 9: Bài viết số 7 (Đề 1 đến Đề 7) Tuyển tập 85 bài văn mẫu lớp 9 hay nhất

Tuyển tập 85 bài tập làm văn được tuyển chọn từ đề thi học sinh giỏi văn cấp quốc gia. Những bài văn mẫu lớp 9 này sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích giúp các em có thêm nhiều ý tưởng hay trong bài viết của mình.

bài văn mẫu lớp 9 số 7 đề 1

Đề bài: Cảm nghĩ của em về nhân vật gà trống trong đoạn trích Tức nước vỡ bờ (tiểu thuyết Tắt đèn có tong)

Tóm tắt ý kiến ​​của em về tính cách con gà trống

I. Lễ khai trương

– Giới thiệu tác giả, tác phẩm, người được phân tích

Ngô Đạt Tư là nhà văn xuất sắc viết về nông dân trước Cách mạng tháng Tám. Tác phẩm của ông được giới phê bình đánh giá là có nội dung phong phú và nghệ thuật kể chuyện của ông rất đặc sắc. Trong đoạn trích tiểu thuyết Tắt đèn, tác giả đã xây dựng thành công nhân vật chị gà trống.

Hai. Nội dung bài đăng

1. Thành phần

-“Truyện ngắn” ra đời năm 1936, khi xã hội còn thuộc địa nửa thuộc địa, người nông dân bị áp bức nhiều tầng nấc. Mọi người không sống, mọi người không sống, mọi người không sống, mọi người không sống.

<3

2. Phân tích nhân vật bà cụu

A. định mệnh

– Tình hình nguy cấp.

– Một bác nông dân nghèo vì gánh nặng thuế má phải bán hết khoai, cũi và con gái, được ít tiền cho bác nhưng chỉ đủ trả lương cho chồng. anh trai của Ji Ge đã chết năm ngoái, nhưng anh ấy vẫn phải trả giá.

-Con gà trống ốm nặng, mấy người lực lưỡng trói nó suốt đêm, sai tay chân khiêng về như một cái xác teo tóp. Mọi gánh nặng đều đổ lên vai cô.

– Gánh nặng sưu thuế khiến người nông dân sống khổ cực. Đó là thời kỳ kinh hoàng khi bọn thực dân phong kiến ​​ra sức bóc lột nông dân bằng các thứ thuế. Chị Gà cũng như bao người nông dân thời bấy giờ là nạn nhân của xã hội ấy.

Chất lượng

– người vợ, người mẹ yêu thương

– Trong lúc nguy cấp, chị gà trống tìm mọi cách để cứu chồng. Khi chồng lâm bệnh, đối mặt với hàng loạt thuế má, bà vẫn cay đắng van xin: “Sư phụ dạy con uống cháo để dưỡng dạ.” Hành động này hàm chứa quá nhiều yêu thương, âu yếm.

– Dũng cảm chiến đấu với kẻ mạnh để bảo vệ chồng

– Bán đứa con mình sinh ra, không thể đau lòng không có mẹ. Chắc tim anh đau lắm

– Một người phụ nữ thích hợp phải cương cứng tốt

– Lần đầu tiên cường giả đến, nàng cảm thấy mình kém cỏi van xin, có lúc run rẩy van xin, có lúc tha thiết xin họ xem xét lại

-Người giữ sợi dây nằm trong tay trưởng hậu cần, ông ta lao đến bắt gà trống và trói ở nhà. Kiên quyết chống cự: “Mày trói chồng nó lại, tao cho mày xem.” Cách xưng hô của cô ấy đã thay đổi. Từ nhún vai. Người bảo vệ đã bị bóp cổ bởi con gà trống và đẩy cô ấy ra cửa, nơi nó rơi vào mặt cô ấy. đất. Sau khi trợ lý chính bị chị gái bắt gặp và ngã xuống cầu thang, cô ấy nói: “Tôi thà ở tù. Tôi không thể chịu đựng việc họ có tình dục và tội phạm mãi mãi. Con bọ lúc nào cũng luồn lách. Tuyệt vọng, nông dân đã để thoát ra.

3. Đánh giá

– Ngô Dữ Liệu đã xây dựng thành công nhân vật chú gà trống bằng nghệ thuật xây dựng nhân vật và sử dụng vốn từ phong phú, sinh động, thể hiện được chiều sâu bản chất con người và triết lý “làm việc gì cũng phải phấn đấu”.

Ba. Kết thúc

– Cảm nhận của em về nhân vật.

Con gà trống đã gây ấn tượng với chúng tôi. Qua đó ta hiểu hơn về cuộc sống của người nông dân trong xã hội cũ, đồng thời ta ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của họ.

Suy nghĩ về tính cách con gà trống – Văn mẫu 1

Trong giai đoạn từ 1936 đến 1939, nền văn học Việt Nam đã xuất hiện nhiều tác phẩm có giá trị, tạo thành một trào lưu văn học hiện thực phê phán xã hội mạnh mẽ, phản ánh sinh động nỗi đau khổ, tủi hờn của nhân dân Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. Ngô Đạt Tư là nhà văn hiện thực xuất sắc và là cây bút phê phán của thể loại văn học này. Tắt đèn là một trong những sáng tạo thành công nhất của Bắp. Đây là bản cáo trạng chế độ thối nát của thực dân phong kiến, Tắt đèn còn khắc họa hình ảnh chị Dậu, tác phẩm nghệ thuật của chị dùng để đại diện cho những người phụ nữ nông dân Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám. Anh hết mực yêu thương chồng con, có tinh thần đấu tranh thoát khỏi ách áp bức.

Có đoạn đưa tin cho biết, sau khi gà trống ngất xỉu trong sân, những người bạn tâm giao sợ bị hại nên đã đem gà trống về nhà như thể xác chết. Chị Dậu và những người hàng xóm cố hết sức chăm sóc chú gà trống này. Bà vô cùng đau buồn và lo lắng cho tính mạng của chồng. chi lo cho anh từng giấc ngủ, từng bữa ăn.

Khi gà đau, nàng bò đến bên chồng bưng một bát cháo to, nhỏ nhẹ nói: “Thầy ơi, dậy uống chút cháo đi, sẽ hết đau bụng”. cô hết lòng chăm lo cho chồng. Công việc của cô bắt nguồn từ tình yêu sâu sắc và chân thành dành cho vợ. Cô muốn xem chồng mình ăn có ngon không. Hình ảnh này làm tôi nhớ đến bà Du, vợ của Du Pont cũng là người chăm chỉ và lo lắng, hy sinh tất cả cho chồng con.

<3

Những tình cảm cao quý đó là những nét tiêu biểu nhất của người phụ nữ Việt Nam. Cũng vì tình nghĩa vợ chồng cao vời vợi mà Dậu đã dũng cảm chống lại những kẻ thân tín của mình để bảo vệ người chồng thân yêu của mình.

Trong khi chú gà trống đang run rẩy húp bát cháo thì tên cai lệ và cả gia đình cầm roi, thước và dây lao vào. Họ không đánh nhưng miệng vẫn văng tục chửi thề, mỉa mai. Trước tình thế bất ngờ, thái độ của Dậu lúc đầu hoàn toàn bị động, cô run rẩy cầu xin: “Mẹ kiếp, em không sao, anh có mắng em cũng không sao, anh xem lại đi.” Cô khiêm tốn gọi anh, a, Bảo Phúc sinh mệnh. . Nhưng chúng không nghe, bọn tay sai vẫn hung hãn. Họ nhảy lên dây và lao đến chỗ con gà trống. Đến bây giờ, cô không còn chịu nổi sự áp bức tàn bạo của chúng, hiển nhiên càng tức giận, cô càng chủ động ra tay đánh giặc. Tinh thần bất chấp thể hiện ở thái độ và hành động. Khuôn mặt cô ấy tái nhợt và cách nói chuyện của cô ấy thay đổi. Lần cuối cùng, cô không gọi họ là ông, mà gọi họ là con cháu, mà làm bạn với cô, cô tỏ ra bề trên, chủ động tấn công: “Mày trói chồng nó lại, tao cho mày xem”. Động tác của cô vừa quyết liệt vừa nhanh chóng, cô trực tiếp nắm lấy cây gậy của anh, nắm lấy tóc anh và ngã xuống đất.

Những lời lẽ khiêu khích, những hành động quyết liệt không chỉ là biểu hiện của tình yêu thương với chồng mà còn thể hiện bản lĩnh, tinh thần chiến đấu quyết liệt của chị. Rõ ràng là “nước bờ”. Câu văn đanh thép của chị Dậu “Thà ngồi tù chứ để chúng nó hành dâm, tao chịu không nổi” thể hiện mạnh mẽ sự phản kháng lâu dài và lòng căm thù giai cấp. Bao nhiêu tủi nhục bấy lâu nay tôi chịu không nổi, nhất là khi chúng cố tình hành hạ con cặc. Nàng đợi chồng với tấm thân không thể đứng yên, cuối cùng nàng đã vùng lên chống lại sự áp bức với lòng căm thù không thể vượt qua.

Hành động gà trống phá nước trong đoạn trích chứng tỏ “có áp bức mới có đấu tranh”. Cuộc nổi dậy của gà trống cũng là biểu hiện của tinh thần nổi dậy chống lại áp bức, tuy mang tính chất tự phát nhưng nó vẫn thể hiện được tiềm năng tốt đẹp của người nông dân. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, quần chúng nông dân đã vùng lên đấu tranh bằng sức mạnh và ý thức cách mạng. Nghệ thuật khắc họa tính cách nhân vật qua sự phát triển mãnh liệt của chi tiết. Ngô Dữ Đào thể hiện thành công vai chị Gà. Đây là hình ảnh chân thực và cao đẹp của người phụ nữ nông dân trước Cách mạng tháng Tám, bằng tình yêu thương và lòng dũng cảm đã chống lại mọi áp bức, bất công của chế độ thực dân phong kiến.

Suy nghĩ về tính cách con gà trống – Văn mẫu 2

Nong Dadou là nhà văn hiểu sâu sắc đời sống, tâm trạng của quần chúng và có cái nhìn đúng đắn về quần chúng. Chúng ta trở lại với nhân vật gà trống. Phụ nữ tuổi Dậu là những người nghèo khổ, bị áp bức, bóc lột. Cuộc đời cô vật lộn trong bùn nhơ và bóng tối. Nhưng cô ấy là một người cao quý và xinh đẹp.

Người tuổi Dậu hiền lành, thật thà, chăm chỉ, hết mực yêu thương chồng con. Bạn có thể tiêu biểu cho tầng lớp phụ nữ nông dân Việt Nam cần cù, chịu thương, chịu khó. Nhưng trong một khoảnh khắc, người đàn ông dịu dàng đó, vì bảo vệ chồng mình, đã dũng cảm chiến đấu với kẻ đầu ngựa. Tuy động thái này chỉ mang tính tự phát, nhất thời nhưng nó đã phần nào thể hiện ý chí kiên cường của những con người bị chà đạp, hành hạ. Đó là một động thái đẹp. Lời nói của gà trống là lời phản kháng mạnh mẽ: “Chồng tôi ốm, đừng hành hạ anh ấy!”. Người phụ nữ ấy bị ức hiếp quá nhiều và có thể liều mạng chống lại kẻ thống trị: “Thà ở tù để chúng nó dâm dục mãi, tôi đành chịu”…

<3 Vào đêm bị Thống đốc tra khảo và cưỡng hiếp, cô đã kiên quyết chống trả và chiến thắng con thú ghê tởm. Viên quan đứng dậy, mở ví lấy ra một nắm giấy bạc trị giá hơn nửa đồng, vạch mặt con gà trống, nó há hốc mồm nói: “Tiền tao đưa mày mày muốn lấy à?” ". Con gà trống vốc một nắm bạc và ném xuống đất.

Đêm đó, “Mandarin” sẽ lặp lại cảnh của ba phước lành khác, và chị Ji cũng đã dạy cho anh ta một bài học hay. Ngoài bản chất xấu xa của quan chức giàu có, đạo đức của những người phụ nữ nông dân nghèo còn tinh tế hơn.

Đối lập với quần chúng là nhóm thống trị, thú dữ về đêm, tàn bạo, tham lam, dâm dục. Nếu Ngô tất yếu thành công trong việc thể hiện tính quần chúng, thì anh ấy cũng thành công trong việc tố cáo những tội lỗi thối nát của giai cấp thống trị. Các cựu tổng trưởng, chánh văn phòng, phó tổng thống, dân biểu, vợ chồng v.v… đều là một lũ túm tụm lại để hút máu dân lành. Thuế là một thảm họa cho người dân, nhưng là một điều có lợi cho họ. Để thu thuế, gà trống đã bán khoai, gạo, chó và trẻ em; để thu thuế, gà trống bị cùm và đánh chết; nhưng các quan chức quyền lực, nhờ thu thuế, được ăn uống, vui chơi và hút thuốc. tiền tiêu vặt. Họ cố gắng lợi dụng hoàn cảnh khó khăn của quần chúng để làm giàu và vui chơi. Càng thương người lao động bao nhiêu thì càng căm ghét bọn thống trị bấy nhiêu. Bức tranh xã hội càng chân thực bao nhiêu thì việc tố cáo nó càng mạnh bấy nhiêu, càng giáo dục quần chúng về lòng căm thù sâu sắc đối với các chế độ áp bức, bóc lột càng hiệu quả bấy nhiêu. Thái độ tắt đèn của Bắp rất lộ liễu. Đối với quần chúng nhân dân, ngòi bút của tác giả đầy sự đồng cảm sâu sắc, nhưng đối với bọn quan lại, ngòi bút của nhà văn lại đầy vẻ mỉa mai, châm biếm. Ngô tốt đầu không ngại vạch trần bản chất bỉ ổi, bất nhân của bọn cầm quyền. Thái độ của tác giả là một thái độ chiến đấu. Giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm toát lên tinh thần chiến đấu. Tất nhiên, cũng như các nhà văn hiện thực khác lúc bấy giờ, với quan điểm giai cấp của mình, ông không thể nhìn thấy bước tiếp theo của lịch sử. Tắt đèn rồi, chị Dậu bỏ chạy vào màn đêm “tối đen như tương lai”. Nhưng nhìn từ góc độ lịch sử, chúng ta không nhất thiết đòi hỏi nhà văn phải có cách nhìn xã hội cách mạng. Dám vạch trần những mâu thuẫn xã hội, dám lên tiếng về cuộc sống đau khổ và những phẩm chất tốt đẹp của những người bị áp bức, dám vạch trần sự thật về bọn cầm quyền, đó là những thành tích đáng được chúng ta trân trọng. quan trọng.

………

>>>Tham khảo: Bài viết số 7 lớp 9 đề 1: Phân tích nhân vật chị Dậu trong truyện ngắn Tức nước vỡ bờ

bài văn mẫu lớp 9 số 7 đề 2

Đề 2: Số phận và nhân vật Lão Hạc trong truyện ngắn “Lão Hạc” của Nam Tào.

Khái quát số phận và tính cách của lão Hạc

I. Giới thiệu:

– Cùng với tiểu tử ngô đồng, nguyễn hồng, …nam cao là những cái tên không thể thiếu trong các nhà văn hiện thực nhân đạo.

– Các tác phẩm của ông vừa rất hiện thực, vừa mang tính triết lý và mang tính nhân văn sâu sắc.

——Truyện ngắn “Lão Hạc” là một trong những tác phẩm tiêu biểu như thế!

——Nhân vật Lão Hạc để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc là một người nông dân hiền lành, chất phác, giàu tình cảm và đáng kính.

Hai. Văn bản:

1. Cuộc đời lão Hạc: Nghèo khó, nhiều tai ương:

– Vợ chết trẻ, nhà nghèo, con trai chán nản bỏ đồn điền cao su.

– Đời sau sống cô đơn, gặp nhiều rủi ro: bệnh nặng, sức yếu, thất nghiệp, mùa màng bị bão phá.

– Có con chó vàng làm bạn nhưng vì nghèo phải bán đi.

– Lúc nào cũng lo cho anh, vì anh không thể lo cho em trọn vẹn được.

——Dọc đường, nhất định phải gặp cái chết thảm.

2. Phẩm chất, nhân cách của lão Hạc:

A. Tràn đầy nhân ái, vị tha, yêu thương

Cha là một người cha rất yêu con và lo lắng cho con

Hãy tràn đầy lòng tự trọng.

3. Cái chết của hạc: sự việc tiêu biểu, nhân vật bộc lộ tính cáchTiêu biểu:

– Chết vì sống mòn.

– Ông chết vì quá thương con, muốn để lại toàn bộ vốn liếng cho con và giữ tiếng.

– Chết cho khỏi bị đẩy xuống con đường tha hóa.

– Hình phạt đau đớn khi bán vàng (bị lừa)

– Cái chết như một sự hy sinh tàn nhẫn cho tương lai biện minh cho sự bế tắc của hiện tại.

Xem Thêm: Soạn bài Ôn dịch thuốc lá | Soạn văn 8 hay nhất

– Bằng chứng của một tấm lòng lương thiện.

– Thể hiện nỗi bất hạnh và phẩm giá của người nông dân Việt Nam trước cách mạng.

4. Suy nghĩ và đánh giá nhân vật:

– Tội nghiệp một người đàn ông bất hạnh.

– Hãy nâng niu lòng tự trọng quý giá của bạn.

– Yêu người từ bi, thương người.

Ba. Kết luận:

– Lão Hạc là thành công nghệ thuật của Huấn Cao trong việc xây dựng hình tượng người nông dân trước Cách mạng tháng Tám: nghèo khó, giàu tình thương con, chất phác, nhân hậu, giàu lòng tự trọng. …

– Nhận xét về nghệ thuật miêu tả nhân vật.

– Cảm xúc cá nhân (tôn trọng, thích vai diễn. Vai diễn để lại cho bạn những suy nghĩ gì?)

Số phận của Lão Hạc và Hình mẫu nhân vật 1

Từ xưa đến nay, trên đời hễ nói đến tình yêu là sẽ nói ngay đến “lão hạc”. Tác phẩm này được đánh giá là một truyện ngắn xuất sắc của dòng văn học hiện thực phê phán giai đoạn 1930 – 1945. Đây là một truyện ngắn đầy tính nhân văn về một cuộc đời cô đơn, hạnh phúc và đau khổ bất kể trong hoàn cảnh nào. Cái chết của một lão nông nghèo. Vai lão Hạc đã khắc sâu hình ảnh một lão nông đáng kính, hiền lành, tự trọng, tự ái, biết quan tâm đến người đọc trong lòng người đọc.

Cuộc đời lão Hạc là một chuỗi bất hạnh, một cuộc đời đắng cay từ khi sinh ra cho đến khi chết đi. Lão gà trống góa vợ từ nhỏ, một mình nuôi con, mong con khôn lớn, trở thành miếng ăn của người già yếu. Nhưng hạnh phúc đó đã không đến với anh. Vì không lấy được vợ, người con trai giận dỗi đăng đàn xin vào làm công nhân đồn điền cao su. Cuộc chia ly của Lao He và con trai không hẹn ngày tái ngộ. Hạc đã mất vợ nay lại thêm nỗi đau mất con

Những nhọc nhằn về vật chất xen lẫn với nỗi đau tinh thần đã hóa thành những giọt nước mắt trong trái tim khắc khoải chờ đợi của người cha. Nhưng cuộc sống dường như vẫn không buông tha anh. Bất hạnh, bất hạnh liên tục ập đến với người cha tội nghiệp. Mệt mỏi vì than thở, mệt mỏi vì chờ đợi. Ông già ốm nặng. Sau trận ốm đó, ông ốm nặng không làm được việc nặng. Nghề sợi trong làng mất đi, phụ nữ có nhiều thời gian rảnh rỗi và tất cả đều cố gắng làm những công việc nhẹ nhàng. Crane rơi vào cảnh nghèo khó cùng cực. Ông sống với con ốc, con trai, củ khoai, củ ấu, quả sung luộc… những thứ không dễ gì kiếm được đối với một ông già đã kiệt sức.

Sếu đồng sống tìm chết và thoát chết. Anh ta tự tử bằng cách ăn mồi chó. Ông lão chết thê thảm, “đầu tóc rũ rượi, mắt long sòng sọc, sùi bọt mép, vật vã suốt 2 tiếng đồng hồ rồi mới chết”. Cái chết thật khốc liệt! Đau đớn biết bao cho phận người, kiếp người già như con hạc.

Tào Tháo bày tỏ lòng thương xót đối với những người cùng khổ như mình, lâm vào hoàn cảnh éo le, ắt phải chết. Ngay cả sếu cũng rút dao tự sát, rận bị bóp cổ chết, sếu cũng dùng mồi chó để tự sát! Lão Hạc từng hỏi thầy mình: “Nếu đời còn khổ thì hạnh phúc là gì?”. Câu hỏi này thể hiện nỗi niềm da diết của một người nghèo về vật chất nhưng giàu tình cảm. Tình yêu thương sâu sắc và thiết tha của ông dành cho các con của mình là một tình cảm cảm động giữa cha và con. Thấy con khổ vì không có tiền cưới vợ, Lão Hạc đau đớn. Ông lão cảm thấy xấu hổ với con trai mình và tự hành hạ mình mãi mãi. Khi tôi tức giận và chạy vào đồn điền cao su làm việc, trái tim của cha tôi thực sự tan nát. Nỗi trăn trở thường trực của người cha biến thành nỗi lo lắng: “Cháu tôi dễ hơn một năm rồi mà không có giấy tờ gì thầy ạ”. Chúng con đọc được những lời ấm áp yêu thương của cha. Ông thương và nhớ con trai, ông dồn hết tình cảm yêu thương cho cậu bé vàng – kỷ vật mà con trai ông để lại. Cái tên Golden Boy bao hàm tất cả tình cảm và sự gần gũi đối với một con vật—một sự tưởng nhớ. Không phải ai cũng có thể yêu động vật như vậy. Bão lũ triền miên, mùa màng trong vườn bị tàn phá, công ăn việc làm không còn, nếu cứ tiếp tục như vậy sẽ ăn hết số tiền dành dụm cho con. Đặt lên bàn cân mà làm phép tính, thức ăn cho chó cũng ngang ngửa ông già, mắc quá. Giữa số tiền dành dụm cho con và tâm sự của chú chó, anh sẽ chọn ai? Để đưa ra quyết định, anh đã phải trằn trọc, suy nghĩ rất nhiều và cùng lắm là anh dũng cảm bán con chó. Những lựa chọn nghiệt ngã và khó khăn được dàn dựng trong nước mắt. Nhưng nếu anh ta không bán con chó, anh ta sẽ chết và số tiền dành dụm được cho các con sẽ tiêu hết. Ông lão bán con chó không phải vì thức ăn mà vì tương lai của đứa trẻ. Hình ảnh chú Hạc tưởng mình lừa được con chó và “khóc to mồm méo xệch” chính là hiện thân của tấm lòng bao la.

Ông lão rất yêu thương và quyết định giữ lại khu vườn cho mình. Khi không còn kế sinh nhai lẽ ra phải bán vườn nhưng anh không làm, thà chết chứ không bán sào. Trước khi chết, ông đã tìm được nơi giao phó khu vườn… Cuộc đời của Lão Hạc thật là khốn khổ. Nhưng trong cuộc sống vất vả, Sếu vẫn biết tự trọng. Lòng tự trọng của một người không cho phép anh ta nhận lời giúp đỡ thầy, anh ta biết thầy không sung sướng hơn mình, càng không được phép gây chuyện với hàng xóm. Lao He biết rõ điều này nên đã tuyệt thực để tiết kiệm tiền lo tang lễ. Tôi thấy ở anh một triết lý sống cao cả biết bao.

Trong xã hội đen tối ngột ngạt, nhiều người đã đánh mất phẩm giá, tha hóa. Chúng ta cũng có thể dễ dàng tìm thấy chúng qua hàng loạt tác phẩm cao nam. Nhưng khác với họ, dù nghèo khổ đến đâu, Hạc vẫn sống một cuộc đời trong sạch. Chính cô giáo đã nhận xét về anh: “Lính thứ hai là một người hàng xóm khác của tôi. Anh ta là một tên trộm, vì vậy anh ta không thích hạc vì anh ta quá thật thà.” Khi hết sinh kế, anh có thể chọn con đường binh nhì, nhưng anh đã không làm thế. Anh thà chết chứ không bán linh hồn cho quỷ dữ. Một lối sống, cách ứng xử đáng trân trọng, đúng với tôn chỉ của dân tộc ta “tư bản hơn đời thường”.

Cuộc đời Hạc đầy nước mắt, đau khổ và bơ vơ; sống trong câm lặng, nghèo khổ và cô đơn; cái chết thì đau đớn. Tuy nhiên, lão Hạc có những phẩm chất tốt đẹp như hiền lành, giản dị, vị tha, nhân hậu, trong sáng, tự trọng… Lão Hạc là một người nông dân Việt Nam điển hình trong xã hội cũ. , mang đầy tinh thần nhân văn sâu sắc.

Số phận và tính cách của nhân vật lão Hạc – mẫu 2

nam cao là nhà văn hiện thực xuất sắc của giai đoạn văn học 1930 – 1945. Tác giả đã miêu tả cảnh hoang tàn, đổ nát của nông thôn Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám qua nhiều tác phẩm. Cái nghèo làm khổ nhà văn bởi nó ảnh hưởng đến nhiều tính cách, nhưng trong cái nghèo bi đát, những phẩm chất tốt đẹp của người nông dân vẫn tồn tại và lặng lẽ tỏa sáng. Truyện ngắn của Lão Hạc thể hiện tầm nhìn nhân văn sâu sắc của lão Hạc. Nhân vật chính là một người nông dân chịu nhiều bất hạnh vì cái nghèo nhưng chất phác, nhân hậu, thương con và giàu lòng tự trọng.

Vợ chết trẻ, Lão Hạc dành hết tình thương cho đứa con trai duy nhất. Ông sẽ hạnh phúc biết bao nếu con trai ông hạnh phúc, còn con trai ông bị phản bội vì quá nghèo không đủ khả năng kết hôn.

Thương con, ông già nghe lời cha, hiểu nỗi đau của con, không bán ruộng vườn lấy tiền cưới vợ mà chấp nhận mất tình. Càng thương con, ông càng đau đáu nỗi không thể giúp con thực hiện tâm nguyện, đến nỗi bỏ nhà vào đồn điền đất đỏ miền Nam làm thuê. Mỗi lần nhắc đến con, ông lại bật khóc.

Xem Thêm : Tìm hiểu tiếng việt lớp 4 dấu ngoặc kép sử dụng như thế nào cho đúng

Ông rất thích con chó này vì nó là kỷ vật duy nhất của con trai ông. Ông lão trìu mến gọi cậu là cậu bé vàng và đút cho cậu những bát cơm lành lặn. Suốt ngày nó to nhỏ to nhỏ với cậu vàng. Đối với ông, Cậu Vàng là hình ảnh của đứa con trai yêu quý, là người bạn mà ông chia sẻ nỗi cô đơn. Anh ta đã nhiều lần cố gắng bán số vàng nhưng không được.

Nhưng nếu Xiahe không muốn bán cậu bé vàng vì nhớ con, thương con thì nhất định phải chia tay. Tội nghiệp ông già! Anh nhẩm tính xem mỗi ngày anh ăn bao nhiêu, rẻ không, hai mươi xu. Nếu mọi thứ cứ tiếp tục như thế này, tôi không thể kiếm được một xu nào…không bán, không tiết kiệm một xu nào. Bây giờ, tiêu một xu là tiêu tiền của bạn. Xấu quá, chết mất!

Vì vậy, ông lo tích trữ ít vốn cho con trai nên đành phải chia tay với chú chó cưng. Anh vẫn còn đau đớn và day dứt sau quyết định này. Ông lão kể cho ông giáo nghe cảnh bán cậu vàng mà lòng đầy xúc động. Ông già bị dày vò bởi cảm giác rằng mình đã lừa một con chó. Nỗi đau của ông lão cứ chồng chất. Trước đây ông đã khổ vì quá nghèo không lấy được vợ cho con, nay vì đã nghèo mà cách cư xử tệ bạc của ông với con chó càng làm ông khổ hơn. Ông lão chịu đựng đau đớn chỉ để tiết kiệm một số tiền cho đứa trẻ.

Biểu hiện cao nhất của tình yêu đối với một đứa trẻ là cái chết của một ông già. Lão nông nghèo đó đã toan tính hết: Bây giờ làm gì được… Vườn này mẹ để dành cho nó, mình không ăn của nó… Không được, mình bán vườn đi mà ăn …Vâng Vì thương con, muốn dành dụm chút tiền để giúp con thoát cảnh nghèo khó, nhưng Ngài đã chọn cái chết. Đó là một sự lựa chọn tự nguyện và bạo lực. Lắng nghe những lời tâm tình chân thành của Lão Hạc với người thầy của mình, trong lòng người ta không khỏi ngậm ngùi, thương cảm và khâm phục. Một người đàn ông quá bất hạnh vì sự nghèo khó của mình! Một người cha rất yêu con!

Không chỉ vậy, qua từng trang truyện, ta còn thấy được Lão Hạc là một người nhân hậu, chất phác. Cả đời ông ở lũy tre làng. Chỉ có thầy trong làng là người có học nên đã tìm đến thầy để giãi bày tâm sự. Xian He luôn lịch sự và tôn trọng giáo viên của mình. Đó là cách thể hiện sự tôn trọng đối với những người nông dân hiểu biết và đa văn hóa. Hoàn cảnh của Lao He tuy nghèo khó nhưng ông vẫn tự lo cho bản thân, chăm sóc bản thân, cố gắng duy trì lối sống nhẹ nhàng, tránh xa những lối ăn uống vụng về. Thậm chí, vì thương hại, anh kiên quyết từ chối giúp đỡ.

Anh ấy chuẩn bị mọi thứ rất tỉ mỉ. Trước khi chết, ông lão nhờ ông giáo viết lá thư giữ hộ mảnh vườn cho con trai, gửi ông giáo 30 đồng để lo việc mai táng. Anh ấy không muốn mọi người tiêu tiền vì anh ấy. Chắc vì tốn kém nên người ta không oán ông? Không làm phiền người khác cũng là một cách giữ gìn phẩm cách. Thật là một đức tính đáng quý của ông già trông thô kệch đó!

Nhà văn Nam Cao đã khiến chúng ta cảm nhận được nỗi đau xót, uất ức và vẻ đẹp cao cả trong tâm hồn người nông dân Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám vì đói nghèo. Trên những trang viết của vĩ nhân, hình ảnh con hạc luôn gợi cho ta nhớ về những con người nghèo khổ, chất phác ấy với bao niềm kính yêu, yêu thương.

………

>>>Tham khảo: Bài viết số 7 lớp 9 đề 2: Số phận và tính cách của Lão Hạc trong truyện ngắn Lão Hạc

bài văn mẫu lớp 9 số 7 đề 3

Trích trong dàn ý của tác phẩm Chiếc lá cuối cùng

Một. giới thiệu:Truyện ngắn giới thiệu về o hen-ri và chiếc lá cuối cùng.

b. Nội dung bài đăng

* suy nghĩ của jonny về cái chết và chiếc lá cuối cùng.

-Xiu hết lòng chăm sóc cho giới (bạn bè ưu ái), bác sĩ cũng hết lòng chăm sóc (khoa học cũng đã thử).

– Butterman vẽ chiếc lá cuối cùng.

– Chiếc lá đã cứu sống Johnson. Nhưng người bán bơ già đã chết vì bệnh viêm phổi.

–Kiệt tác chiếc lá là tình yêu vị tha của ông già bán bơ.

c.Kết bài:Nhấn mạnh tình cảm của con người được gửi gắm trong tác phẩm, đồng thời nhấn mạnh sức mạnh kỳ diệu của tác phẩm nghệ thuật đối với con người.

Trích từ Nghĩ về chiếc lá cuối cùng – Ví dụ 1

Người phụ nữ bất hạnh nằm bơ vơ trên giường bệnh, bất động trên chiếc giường sắt sơn phết, tạo cảm giác như có một bức tranh đóng khung treo trên tường. Không gian trở nên hẹp hơn khi mọi thứ chuyển sang một chiều tĩnh. Chỉ có đôi mắt của bệnh nhân là có dấu hiệu của sự sống nhưng đôi mắt ấy cứ nhìn chằm chằm vào đầu hồi ngôi nhà gạch bên cạnh, đếm từng chiếc lá thường xuân rơi trong gió lạnh. Đó là biểu tượng cho thước đo cuộc sống của Joist: cô ấy đã đặt cho mình một niềm tin khó chịu rằng khi chiếc lá thường xuân cuối cùng rụng xuống, cô ấy sẽ chết.

Câu chuyện về tấm lụa vàng được kể cho một người bạn cũ của ông già với tấm lụa vàng. Anh ấy là một họa sĩ, nhưng là một nghệ sĩ thất bại. Vì “bốn mươi năm múa bút chưa tới váy nữ thần”. Nhưng anh ấy “luôn muốn vẽ một bức tranh tuyệt vời”, mặc dù anh ấy “chưa bao giờ bắt đầu”. Công cụ kiếm tiền bằng cách “bôi nhọ ngành công nghiệp hoặc ngành quảng cáo” hoặc “làm mẫu cho các nghệ sĩ trẻ”. Mặc dù vậy, những gì anh ấy luôn nói về là “kiệt tác sắp tới”. Cô ấy phi thường ở chỗ cô ấy “cười vào sự yếu đuối của bất kỳ ai” và tự coi mình là “một con chó ham ngủ tuyệt vời chăm sóc hai nữ họa sĩ trẻ, Giovanni và Xiu”.

Câu chuyện cuộc đời của Johnson, mong manh như chiếc lá trong cơn cuồng phong, bị người già “khinh bỉ và chế giễu”. Nhưng dù thái độ của ông lão có thế nào, bệnh tình của Johnsi vẫn không thuyên giảm. Và ông già “bé dữ tợn” long trọng hứa qua mùi rượu “hôi”: “Một ngày nào đó, tôi sẽ vẽ một tác phẩm xuất sắc…”.

Một ngày mới trên “Lời thì thầm và mệnh lệnh” Silver kéo tấm rèm xanh để cô nhìn ra ngoài, dù không muốn và đành phải “làm việc đó một cách nhàm chán”. “Nhưng trời ơi! Sau một đêm mưa gió tưởng chừng như không bao giờ dứt, vẫn còn một dây thường xuân bám chặt vào bức tường gạch. Đó là chiếc lá cuối cùng. Trên cây… những chiếc lá vẫn dũng cảm bám lấy cành chừng cách mặt đất 20 feet.”

Ngày hôm sau “lá thường xuân còn đó”. Jonsi chợt hiểu ra: “Có thứ gì đó giữ chiếc lá cuối cùng vẫn ở đó, cho bạn biết bạn đã tồi tệ như thế nào. Muốn chết là có tội”. Và niềm hy vọng về một ngày “sơn thủy Vịnh Napoli” hồi sinh trong lòng cô. Nhựa sống lên men, năng lượng của vi trùng hồi sinh, và bác sĩ nói: “Cô ấy đã qua cơn nguy kịch, anh thắng.” Điều gì giúp Johnson khỏe mạnh? Có thể là do hiệu quả của thuốc, cũng có thể là do đôi tay tỉ mỉ của Tú. Chắc hẳn, nhưng bao trùm tất cả, thứ kéo hương nhu từ con đường về cõi hư vô chính là chiếc lá cuối cùng trên bức tường đối diện với họ, thứ “không bao giờ chùn bước hay lay động trước gió thổi” bởi nó rất là công lao của một người xưa. vẽ nó vào đêm chiếc lá cuối cùng rơi. Để tạo ra tác phẩm xuất sắc ấy, ông lão đã phải dùng cả tính mạng để đánh đổi. Ông lão trả lại màu xanh cho những chiếc lá vàng héo, trả lại màu hồng cho đôi má thiếu nữ xanh xao, trả lại niềm tin và sức sống cho những kẻ yếu đuối.

Nghệ thuật chân chính có chức năng tạo ra và tái sản xuất. Nó đánh thức niềm tin vào cuộc sống, nó mở đường cho những khát vọng lớn lao, nó chắp cánh cho những ước mơ. Như vậy, hình ảnh ông đồ tuy chỉ là nét phác họa nhưng sống mãi trong tâm trí người đọc, bởi ông đã tạo nên một kiệt tác, nhuốm màu hi vọng, bằng những chất liệu nhân văn truyền thống được kết tinh trong tiến trình lịch sử. Chiếc lá cuối cùng trở thành hy vọng hồi sinh.

Trích từ Suy ngẫm về chiếc lá cuối cùng – Ví dụ 2

Những ai đã từng đọc truyện ngắn của nhà văn Mỹ O’Hen-ri (1862-1910) chắc chắn sẽ cảm nhận được một điều: bắt đầu từ hiện thực, cuộc sống đầy rẫy những bất công phi lý và mang đến nhiều bất hạnh. Đối với những mảnh đời nghèo khó, nhà văn luôn khơi gợi vẻ đẹp của lòng người ấy qua những cốt truyện bất ngờ, cảm động. “Chiếc lá cuối cùng” là một truyện ngắn xuất sắc của nhà văn tràn đầy tình yêu và niềm tin vào con người, với thông điệp khẳng định sứ mệnh và sức mạnh của nghệ thuật chân chính.

Truyện kể về cuộc sống chật vật của những người họa sĩ nghèo: hai nữ họa sĩ trẻ và một anh chàng johnsi sống cùng căn hộ với ông họa sĩ già bán bơ. Những khó khăn về vật chất làm cạn kiệt sức sáng tạo của họ và dẫn họ đến bi kịch. Bốn mươi năm qua, ông lão mơ ước vẽ được một kiệt tác nhưng không thực hiện được nên phải ngồi làm người mẫu cho các họa sĩ trẻ để kiếm chút tiền trang trải cuộc sống. Căn bệnh viêm phổi, bệnh tật và nghèo đói đã cướp đi niềm tin của Giovanni vào cuộc sống. Chỉ vẽ một chút phờ phạc, ám ảnh bởi những suy nghĩ vàng son: cô gái ốm yếu đếm từng chiếc lá rơi, chờ số phận định đoạt cuộc đời mình, khi chiếc lá rời đi, cô mang theo niềm tin, khi cuối cùng gục ngã, cô sẽ ra đi… không gian sống của những con người khốn khổ ấy lạnh lẽo, u ám như mùa đông, đầy lo toan.

Thật khủng khiếp, khi mỗi ngày trôi qua trong gió tuyết, mưa lạnh, lá thường xuân cứ rụng dần, chỉ còn lại chiếc lá cuối cùng cho Dận Tử nhìn thấy, cái chết cận kề. Có lẽ trước một người đã buông xuôi, chán đời, ai trong chúng ta cũng sẽ cảm thấy lạc lõng, bơ vơ. Vì vậy tác giả tập trung miêu tả giây phút căng thẳng giữa Tú và ông lão khi Tuấn Hi đã ngủ: “Họ nhìn ra ngoài cửa sổ, sợ hãi nhìn dây thường xuân, rồi nhìn nhau một lúc, nhưng không có gì cả. tất cả. Nói gì đi.” Có lẽ tại thời điểm đó, họ nhìn thấy cành thường xuân trần trụi cuối cùng? Dường như giữa điều kiện mùa đông khắc nghiệt và bão tố, khi Johnny thức dậy vào sáng hôm sau và thấy chiếc lá cuối cùng đã rụng, họ dường như đã dự đoán được điều gì đó.

Trong trường hợp này, người đau khổ nhất không phải John mà chính là cô bé xinh xắn. Vì khi Jockey nhìn ra ngoài cửa sổ một lần nữa, cô ấy sẽ phải chứng kiến ​​toàn bộ bi kịch sắp diễn ra. Nhà văn không miêu tả cụ thể tâm trạng của nàng mà chỉ cho biết nàng “tỉnh giấc sau khi ngủ được một tiếng đồng hồ” tức là nàng đã phải trải qua một đêm trắng đầy lo âu, thổn thức trong khắc khoải, bất lực. Trong một đêm mưa bão ngoài kia, những chiếc lá mong manh bám vào bức tường gạch chắc chắn bị vùi dập không chống chọi được với sự tàn phá của thiên nhiên. Điều này có nghĩa là vào thời điểm bức màn kéo lên, Johnsy sẽ chứng kiến ​​cái chết của chính mình. Nhưng Xiu không khỏi chạnh lòng khi thấy “Jones mở to hai mắt thẫn thờ nhìn tấm màn xanh đã kéo”. Bạn thậm chí không thể đóng rèm lại vì khi đó bạn sẽ cảm thấy tội lỗi rằng mình là người đã gây ra cái chết của Joan. Tôi hiểu tâm trạng chán nản của cô ấy, và cô ấy không có cách nào để giúp người chị đồng nghiệp của mình xua tan ý nghĩ điên rồ khủng khiếp đó.

Ngay lúc này, một hình ảnh bất ngờ xuất hiện đã đảo lộn mọi dự đoán, đảo ngược tình thế tưởng như đã định sẵn trong đầu Jae Jun, trong sự lo lắng của Zai Xiu và cả sự thất vọng của mọi người. Tình huống kỳ diệu đã thắp lại hy vọng: vẫn còn một chiếc lá thường xuân trên bức tường gạch. Có lẽ người vui mừng nhất lúc này chính là Xiu, bởi chiếc lá mà cô nhìn thấy không phải là ảo giác: “Đó là chiếc lá cuối cùng trên cây, chỗ gần cuống lá vẫn còn xanh đậm nhưng mép đã có răng cưa. đã nhuốm một màu mờ nhạt Những chiếc lá vàng vẫn dũng cảm treo trên cành cây cách mặt đất khoảng 20 feet.” Còn Jinxi thì sao? Cô cũng nhận ra: “Đây là chiếc lá cuối cùng”, miễn cưỡng thừa nhận sự thật và tiếp tục suy nghĩ: “Hôm nay nó sẽ rụng, đồng thời mình cũng sẽ chết”.

………….

>>>Tham khảo: Bài viết số 7 lớp 9 Đề 3: Phân tích truyện ngắn “Chiếc lá cuối cùng của o hen-ri”

bài văn mẫu lớp 9 số 7 đề 4

Chủ đề 4: Vẻ đẹp mộng mơ và ý nghĩa sâu xa của thơ Ta-go Vân Lãng

Khái quát vẻ đẹp mộng mơ và quan niệm nghệ thuật trong bài hát Vân Lãng

I. Giới thiệu: Giới thiệu về thơ Vân Lãng

Ví dụ:

Nhắc đến tình mẫu tử, một tình cảm thiêng liêng luôn được bao thế hệ, con người trân trọng và thể hiện trong cuộc sống của mình. Với các nhà thơ, nhà văn, tình mẹ con được thể hiện hết sức sâu sắc, trong sáng, hết sức gợi cảm. Một trong những cách rõ ràng nhất để làm điều này là tạo ra những tác phẩm tuyệt đẹp về tình mẫu tử, mà nhiều người đã đặt tên cho tác phẩm của r.ta-go là Mây và Sóng. Tác phẩm kể về tình mẫu tử thông qua hình ảnh và tưởng tượng của những người con trai kể về mẹ của mình.

Hai. body:Vẻ đẹp mộng mơ và ý nghĩa sâu xa của Shi Yunbo

1. Những lời hùng biện trong câu chuyện của người con trai vang vọng tận mây xanh của mọi người. Những cuộc điện thoại, những lời mời gọi thân thương, dịu dàngđầy ước mơ

Lời bài hát hay, bất tận

Thư mời rất hấp dẫn và thu hút

2. Lời từ chối của con trai: rất nhẹ nhàng và dễ thương

Vì bố bỏ mẹ nên bé không chịu đi chơi

Qua đó thể hiện tình mẫu tử nồng cháy

Chính vì thế nó mới thể hiện được tình mẫu tử thiêng liêng

Ba. Kết thúc:

Xem Thêm: Hội vật lớp 3 trang 59 | Giải Tiếng Việt lớp 3 Tập 2

– Hãy cho tôi biết cảm nhận của bạn về vẻ đẹp mộng mơ và ý nghĩa sâu xa của thơ Vân Lãng

Vẻ đẹp mộng mơ và ý nghĩa của Mây và Sóng – Bài mẫu 1

Ta-go là nhà thơ nổi tiếng của Ấn Độ, ông là người châu Á đầu tiên đoạt giải Nobel Văn học. Di sản của ông rất rộng lớn và phong phú. Trong số đó, bài thơ “Yunbo” được coi là một kiệt tác được in bằng tiếng Anh của măng non.

Cả bài thơ gồm hai phần: Yinying sống trên mây, rủ em bé sống trên sóng. Qua đó cho thấy vẻ đẹp mộng mơ và ý tứ sâu xa của bài thơ. Đây là một bài thơ trữ tình, giống như một bài đồng dao, ở đó ta thấy em bé kể chuyện ông mây và ông sóng rủ em bé đi chơi.

Đầu tiên là lời của những người trên mây: “Ta chơi từ sáng đến tối, chơi với bình minh vàng, chúng ta chơi với trăng bạc”

Tác giả hình dung em bé nhìn lên trời và lắng nghe lời nói trên 9 tầng mây cao. Những đám mây được nhân hóa, và chúng tôi tưởng tượng một lời mời thân thiện. Và đám mây giờ đã trở thành đối tượng của truyền thông. The Cloud’s Invitation is Tempting” được phát từ sáng sớm đến tối. Lời mời hấp dẫn đến nỗi cậu bé phải hỏi lại: nhưng làm sao tôi đến được đó. Người sống trên mây kéo tôi lên. Em ơi hãy đi đến tận cùng thế giới Hãy giơ tay lên trời Em sẽ được nâng lên 9 tầng mây Ta gặp một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp Đó là buổi bình minh của vầng trăng bạc, nơi tận cùng của trái đất. Nếu bạn giơ tay, sẽ có người nâng bạn lên 9 tầng mây. Qua bức tranh này, chúng ta có thể cảm nhận được bầu trời rộng lớn của trẻ thơ. Hay đây chỉ là giấc mơ của trẻ thơ, lời mời gọi đầy quyến rũ của đám mây trẻ thơ hãy đi đến tận cùng trái đất, bay lên bầu trời, khám phá những bí ẩn của thiên nhiên qua nhịp điệu? Bài thơ tago ta đã xem phải là một nhà thơ yêu thiên nhiên, yêu trẻ thơ, có tâm hồn rất trẻ thơ mới thể hiện được ước mơ tuyệt vời như vậy. Hãy hát lên niềm vui của tự do. Không chỉ vậy, bé không chỉ có ước mơ được bay đến tận cùng trái đất mà còn muốn được chu du khắp đại dương. Lời mời gọi của con người sống trên sóng còn mời gọi hơn: ta hát từ bình minh cho đến hoàng hôn. Chúng tôi đã lang thang xung quanh không biết chúng tôi đã ở đâu. “Anh tưởng tượng em đứng trước biển, với em là bao la vô tận.”

Vẻ đẹp mộng mơ và ý nghĩa của Mây và Sóng – Mẫu 2

“Nghệ thuật vượt qua quy luật của sự băng hoại, ngoại trừ việc nó không thừa nhận cái chết.” Vâng, chính vì sức sáng tạo vô tận và phong cách thơ độc đáo đã tạo nên sức sống bất hủ của thơ ca, nên chúng ta sẽ đi tìm những đề tài cổ kính, quen thuộc nhưng mỗi bài thơ đều chứa đựng giá trị thẩm mỹ riêng. Hàng ngàn năm trước, thơ ca cổ đại và hiện đại phương Tây đã không ít lần ca ngợi tình mẫu tử, đó là thứ tình cảm thiêng liêng và cao quý nhất trên đời. Theo đuổi một đề tài quen thuộc nhưng bằng tài năng và tấm lòng chân thành, Tage vẫn mang đến cho người đọc những vần thơ ý nghĩa, chứa đầy triết lý sống ý nghĩa về tình mẫu tử. Biển mây và sóng biển trong bài thơ đầy sức tưởng tượng thú vị.

Hai câu mở đầu của hai cảnh thơ là không gian mang tính tượng trưng: Giữa mây trời sóng nước, chốn cao rộng cõi đời kỳ thú mời bạn vào. Nó cũng là hình ảnh ẩn dụ cho những cám dỗ mà con người thường gặp trong cuộc sống, “sự bồng bột, vòng vèo”. Không những thế, ở lứa tuổi còn non nớt, tinh nghịch của bài thơ, bài thơ càng dễ hiểu hơn khi bé đặt câu hỏi để bộc lộ sự hấp dẫn, tò mò của mình: Nhưng làm sao để đến được đó. Háo hức được bay đến một nơi xa lạ, một đất nước xa lạ, một chốn bồng lai tiên cảnh để vui chơi, chẳng mấy chốc tôi bàng hoàng cảm nhận được tình thương của mẹ, bởi tôi ân hận: mẹ đang đợi tôi ở nhà mà tôi không thể’. t chịu bỏ mẹ. Lời nói hồn nhiên của em bé đưa chúng ta về tuổi thơ hồn nhiên chơi đùa cùng mẹ :

Em là mây anh là trăng

Tay anh sẽ nắm lấy em, mái nhà của chúng ta là bầu trời xanh.

Nhưng có lẽ, để lại dấu ấn sâu đậm nhất là tình mẫu tử thiêng liêng:

Em là sóng, anh là Kỳ An,

Lăn, lăn, lăn mãi rồi mỉm cười vỗ nhẹ vào chân mẹ.

Không ai trên thế giới này biết chúng ta đang ở đâu.

Mẹ như trăng và biển: đó là thiên nhiên vĩ đại, là vĩnh cửu, vô hạn, vô tận của vũ trụ. Em là mây, là sóng, bay cao, bay xa, mãi mãi ca ngợi em. Bạn đã trở thành bất tử trong trái tim tôi. Trước tình thương của mẹ, con luôn bé nhỏ như những chú gà con cần được che chở. Tình mẫu tử vĩnh cửu và thiêng liêng lại tràn về trong tâm trí chúng tôi, làm rung động mọi trái tim bé nhỏ. Vì vậy, chúng ta phải thấy rõ rằng trong cuộc sống, con người không thiếu dũng khí, dũng cảm để đối mặt với những cám dỗ trong cuộc sống, nhưng họ lại yếu đuối khi sẵn sàng gục ngã, đánh mất chính mình. Tình mẫu tử thiêng liêng đã trở thành điểm tựa vững chắc để chống chọi lại tất cả những điều này. Và chúng ta ai cũng khao khát hạnh phúc, nhưng đừng mù quáng tìm kiếm hương thơm hạnh phúc trên thiên đường mà hãy cúi mình đi tìm những hạnh phúc thực sự, gần gũi, giản dị và thiêng liêng quanh ta. Đây là thiên chức làm mẹ. Phải chăng đây cũng chính là giá trị nhân văn sâu sắc mà tago muốn gửi gắm. Câu thơ của Targo không chỉ dừng lại ở việc tôn vinh tình mẹ và vẻ đẹp của sự tưởng nhớ ấm áp, thiêng liêng mà Targo đề cao vai trò và sức mạnh của nó như một thứ vũ khí cao cả và hữu hiệu trước sự cám dỗ, một sự cám dỗ “ngu si, quỷ quyệt”. Nhiều người trong chúng ta thường bị mắc kẹt trong cuộc sống.

Nhưng chỉ mang vẻ đẹp về nội dung thôi chưa đủ, thơ của tago còn là sự chắt lọc những gì tinh túy nhất của viên ngọc tròn lấp lánh, không chỉ là tâm hồn, mà còn là vẻ đẹp của chiếc áo. Nghệ thuật, sự hài hòa tuyệt vời giữa hình thức và nội dung, giữa tâm hồn và thể xác. Nét độc đáo của bài thơ này nằm ở cấu trúc hai đoạn đối thoại giữa em bé và Vân Lãng nhưng không hề nhàm chán mà mang lại một cảm giác rất trong sáng, hồn nhiên cho lòng người đọc. Phải là một người yêu thiên nhiên, yêu trẻ thơ, Tago mới có thể làm nên những vần thơ hay như vậy. Tình mẫu tử đã có trong ca dao từ xa xưa, và thời xa xưa, nó đã hiện lên rất sống động trong những bài thơ của Tian Wu. Mây và sóng là biểu tượng vĩnh hằng của tình mẫu tử thiêng liêng, bất diệt, vĩnh cửu, sâu nặng.

Ta-go chạm vào sâu thẳm trái tim người đọc bằng lối viết trong sáng, nhẹ nhàng, gần gũi và những vần thơ về tình mẫu tử xúc động, ý nghĩa. Nhưng ý nghĩa tư tưởng lớn hơn nằm ở tinh thần nhân văn của tác phẩm, nó truyền tải đến người đọc những thông tin quý giá về cuộc sống: hạnh phúc không ở đâu xa, hạnh phúc ở trên đời, ở trong vòng tay yêu thương của mẹ. Tình mẫu tử có sức mạnh của chiến trường và có thể giúp con người chống lại những cám dỗ trong cuộc sống.

………

>>>Tham khảo: Bài viết số 7 lớp 9 đề 4: Vẻ đẹp mộng mơ và ý nghĩa sâu sắc của bài thơ Vân Lăng

bài văn mẫu lớp 9 số 7 đề 5

Chủ đề 5: Hồ Chí Minh nên thơ và đẹp như tranh vẽ.

Đề cương Thơ và Tranh Hồ Chí Minh

I. Giới thiệu:

  • Giới thiệu sơ lược về tác giả, tác phẩm: “Cảnh Kinh Bắc Bảo” là bài thơ nổi tiếng của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi Người hoạt động cách mạng.
  • Giới thiệu tác phẩm: Bài thơ miêu tả cuộc sống thường ngày của Bác Hồ nơi núi rừng và tinh thần lạc quan, phong thái ung dung, tâm trạng tự tại của một người chiến sĩ cách mạng.
  • Hai. Nội dung bài đăng

    Kỳ 1: Cuộc sống và công việc của bác ở núi rừng pac bo

    • Sửa: vâng><tối, ra ngoài><thể hiện thói quen đều đặn, nhịp nhàng của bạn…
    • Món ăn của tôi rất đơn giản, rất đơn giản: rau mồng tơi với măng. Đây là những thức ăn rừng và sẵn có. Cụm từ “thượng khí” không chỉ có nghĩa là sự sẵn có, chất lượng của món ăn mà còn thể hiện thái độ của người chiến sĩ cách mạng luôn sẵn sàng đương đầu với thử thách, khó khăn.
    • Điều kiện làm việc tồi tệ: bàn của tôi là một tảng đá ọp ẹp. Bên chiếc bàn ấy, Người đang làm công việc vô cùng quan trọng liên quan đến vận mệnh của Cách mạng Việt Nam.
    • Bài văn 2: Phong thái điềm đạm, tinh thần lạc quan, hòa hợp với thiên nhiên của bạn.

    • Câu cuối như tiếng nói nội tâm của ông: “Đời cách mạng là sang”. Sự sang trọng của bạn không phải là sự xa hoa về vật chất, mà là sự xa hoa khi được sống giữa thiên nhiên…
    • Bài 3: Nghệ thuật

      • Thể thơ tứ tuyệt ngắn.
      • Ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, giọng điệu vui tươi, hóm hỉnh thể hiện tinh thần lạc quan của bạn.
      • Việc cải chính hoạt động tốt.
      • Ba. Kết luận:

      • Liên hệ nhận xét về tác phẩm: Hồ Chí Minh không chỉ là lãnh tụ vĩ đại, anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới mà còn là một nghệ sĩ tài hoa, tiêu biểu cho tinh hoa, dân tộc và tinh thần thời đại.
      • Thánh ca hòa bình của Hồ Chí Minh – Mẫu 1

        Tinh thần lạc quan, tự do trong mọi hoàn cảnh cuộc sống là nét nổi bật trong nhân cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tinh thần ấy đã trở thành vũ khí sắc bén để chiến thắng mọi khó khăn, mọi kẻ thù. Thơ là người, thơ thể hiện phẩm chất cách mạng cao cả của người chiến sĩ cộng sản kiên trung. Bài thơ “tức canh bát bộ” viết ở vùng núi Bắc Ba tháng 2 năm 1941 là một trong nhiều bài mang đậm phong cách của Bác:

        Sáng ra suối, tối vào hang húp cháo măng cũng là để luận về sự khác biệt lịch sử đảng!

        Lần này Người trở lại Trung Quốc và trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam. Trong điều kiện sống cơ cực: “cơm cháo thịt heo”, làm việc trong cảnh thiếu vắng “bàn đá chông chênh”, bài thơ tràn đầy niềm vui và trí tuệ của một con người biết vượt qua khó khăn để đạt được mục đích của mình. sự nghiệp giải phóng dân tộc.

        Ở đầu bài thơ, ông viết: Sáng ra suối, tối vào hang.

        Câu thơ gãy gọn, súc tích, vỏn vẹn bảy chữ nhưng có thời, có hành. Thời gian là “ánh sáng” và “bóng tối”, không gian là “bờ sông” và “hang động”, trên nền thời gian ấy, trong không gian ấy hiện lên hình bóng của một con người cần cù lao động. Các từ chỉ hành động “sớm”, “tối” gợi cho ta sự liên tưởng đó. Điểm nổi bật của bài thơ là tác giả rất chú ý đến trật tự của hai câu. Nếu nói: “tối vào hang, sáng ra suối” thì chuỗi này lại tạo ra một giá trị biểu tượng khác. Lạc quan là bản chất của con người sắt đá ấy, nên thứ tự các câu thơ cần thiết phải là:

        Sáng ra suối, tối vào hang.

        Với trình tự này, cảnh dường như đang chuyển động chứ không đứng yên, tuân theo quy luật tuần hoàn của thời gian. Vì vậy, chúng tôi không ngạc nhiên khi thấy thái độ “sẵn sàng hoạt động” của bạn trong phần tiếp theo:

        Còn có cháo măng.

        Bài thơ nói về một tâm hồn, một thái độ, một nhân sinh quan nhưng lời ca vẫn giản dị như lời nói đời thường. Thơ Tứ Phương có đặc điểm là rất có âm tiết, thơ hay thì thành “thần”. Dòng “sẵn sàng” là điểm nổi bật của bài thơ.

        Câu này gợi cho ta nhớ đến triết lý sống của người xưa “quân tử không đủ ăn”. Bạn sẵn sàng chấp nhận cay đắng của cuộc sống vật chất với thái độ ăn chơi trác táng. Coi thường khổ đau, ngay cả khi bị hành hạ, đau đớn về thể xác, người chiến sĩ cách mạng này vẫn đùa giỡn, hài hước. Những câu thơ “đùa giỡn”, “ghẻ lạnh”, “xiềng xích” trong “Nhật ký trong tù” là một thái độ thoải mái trước những tình huống ngặt nghèo, và lời ca hóm hỉnh đến không ngờ.

        Khác với những người già “an cư lạc nghiệp”, chú He là một người lao động bán thời gian, luôn hết mình vì một sự nghiệp cao cả:

        Bàn đá không bằng sử sách.

        Làm việc trong điều kiện thiếu phương tiện cần thiết, mượn đá làm bàn, bàn đá là “chắp vá”, chi tiết ngộ nghĩnh, hài hước lại là chuyện khác. trong việc nhìn thấy mọi thứ. Bạn thường tìm thấy những chi tiết thú vị, điều đó cho thấy bạn là người có thái độ lạc quan.

        Thơ và tranh Hồ Chí Minh – Mẫu 2

        Bác Hồ trở về Trung Quốc vào tháng 2 năm 1941, và 30 năm sau Bác bôn ba khắp năm châu tìm đường cứu nước. Lúc bấy giờ, tình hình thế giới và trong nước có nhiều biến động lớn (Chiến tranh thế giới thứ hai, Pháp khủng bố cách mạng trở lại, Nhật vào Đông Dương; Châu Âu, Pháp đầu hàng phát xít Đức…), Người triệu tập Hội nghị Trung ương lần thứ bảy để vạch ra tình hình mới Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Trung Quốc quyết định thành lập Mặt trận Việt Minh (Việt Nam độc lập đồng minh) để đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân. dân tộc.

        Tôi sống ở Beibodong (tên chính xác là Chanbo, có nghĩa là đầu nguồn), và điều kiện sống vô cùng khó khăn.

        Đồng chí Ruan Jia nhớ lại: “Nơi đầu tiên tôi ở Bắc Ba, mặc dù ẩm ướt và lạnh giá nhưng vẫn là nơi tốt nhất để ở. Nơi thứ hai là một hốc nhỏ, cao và sâu trong rừng, chỉ có bên ngoài có vài cành sậy. Trời mưa to, con rắn bò vào giường. Một buổi sáng, anh thức dậy thấy một con rắn rất to nằm bên cạnh (…) và sức khỏe của anh sa sút. Tôi luôn bị sốt. Thuốc hầu như không gì khác hơn là lấy một ít lá cây rừng về uống theo phương pháp chữa bệnh của địa phương, thức ăn cũng rất khan hiếm(…)

        Có thời gian cơ quan chuyển lên vùng núi đá trắng, gạo không có, chú tôi và các anh em khác phải ăn cháo cả tháng trời. Trong mọi trường hợp, tôi thấy rằng cô ấy thích nghi khá tự nhiên. Tôi không hiểu khi bạn thực hành nó, làm thế nào mọi thứ diễn ra tốt đẹp…”

        Mặc dù sống trong hoàn cảnh khó khăn, nguy hiểm như vậy nhưng Bác Hồ vẫn rất vui vẻ. Tôi rất vui vì sau nhiều năm xa xứ, nay được sống và trực tiếp lãnh đạo phong trào trên đất nước này. Ít nhất là vì ngôn ngữ chính trị sắc bén. Biết đâu đã đến lúc giành độc lập hoàn toàn, dù con đường phía trước là tăm tối. “Đối với Nguyễn Ái Quốc và các đồng chí, những ngày ở pắc bo như những ngày vui bất tận, chờ đợi màu của cảnh vật đổi thay lớn lao (…) Chưa bao giờ Nguyễn Ái Quốc lao động hăng say như thế, người như hai hoặc trẻ hơn ba mươi tuổi.

        Cả bài thơ có bốn câu, giọng điệu hóm hỉnh vui tươi, tràn đầy niềm vui và sự thoải mái. Phân tích bài thơ này là phân tích để hiểu niềm vui thú vị, bởi đằng sau niềm vui ấy là vẻ đẹp tinh thần giản dị mà cao quý, chất phác và dũng cảm của Bác.

        Câu đầu của bài thơ có giọng điệu thư thái, thoải mái, đọc xong em cảm thấy cuộc sống của Bác thật nhàn nhã, hòa cùng nhịp điệu của cảnh vật:

        Sáng ra suối, tối vào hang.

        Xem Thêm : Bài giảng Giá trị văn học và tiếp nhận văn học

        Câu thơ ngắt nhịp ở giữa, tạo thành hai cặp sóng toát lên cảm giác nhịp nhàng, trật tự: sáng ra, đêm vào…đầy quá, đầy quá:

        Còn có cháo măng.

        Câu này có thể hiểu là: Dù chỉ có cháo và măng, nhưng tinh thần cách mạng đã sẵn sàng. Cách giải thích này không sai về mặt ngữ pháp, nhưng tôi thấy không hợp lắm với giọng điệu vui tươi, nhẹ nhàng của cả bài thơ. Có lẽ nên hiểu thế này: đồ ăn (cháo giò, măng) lúc nào cũng có.

        Câu đầu là đời sống, câu thứ hai là ăn uống, câu thứ ba là công việc, ba câu đều là tả hoạt động vật chất, chỉ có câu kết là bộc lộ cảm xúc và suy nghĩ.

        Cách hiểu này sẽ phù hợp hơn với mạch thơ và cấu trúc của thơ. Ở đây chúng tôi chú ý đến vần bằng (âm ang) của nhịp điệu tạo cho người ta cảm giác tươi vui, âm vang đồng thời tạo cảm giác đĩnh đạc, rộng mở trong thơ. Vần ở câu thứ ba làm nổi bật hình ảnh trong bài thơ, được thể hiện bằng những nét bút táo bạo, mạnh mẽ và sống động:

        Bàn đá chông chênh, lịch sử đảng dịch.

        Cả bài thơ chỉ có một chữ “ngẫu nhiên” mà rất sinh động, ba chữ “bản dịch lịch sử đảng” đầy sức hút và mạnh mẽ như ba câu kết.

        Vần có tiếng vang xa. Đó là nhân vật trữ tình được đặt ở trung tâm bài thơ, con người như vậy là chủ thể của thiên nhiên, không chìm lẫn trong thiên nhiên. Điều thú vị là “Linquanke” sống hài hòa với suối và hang động lại là một chiến sĩ cách mạng vĩ đại, dựa vào thiên nhiên để thực hiện các hoạt động cải cách xã hội. Đằng sau hình bóng cụ thể của chú này trong bản dịch lịch sử đảng là vẻ uy nghiêm của một lãnh tụ quốc gia, một nhà cách mạng vĩ đại – một hình ảnh đẹp. Bác Hồ đang làm nên lịch sử ở nơi “đầu nguồn” – trên cái nền thiên nhiên có suối, có rừng… Khung cảnh ấy, cuộc sống ấy, thật là vẻ đẹp “sang chảnh”! Cả bài thơ kết thúc bằng chữ “Sang”, có thể gọi đó là sự kết tinh của dấu chữ (thiếu chữ), thắp lên tinh thần của cả bài.

        Thơ Bác giản dị, ngắn gọn mà hàm nghĩa sâu rộng, đậm chất cổ điển và thể hiện đầy đủ tinh thần thời đại. Bài thơ này là một ví dụ điển hình của hồn thơ và phong cách đó.

        ………

        >>>Tham khảo: Bài số 7 lớp 9 Chủ đề 5: Cảnh trong lành và thơ mộng của Hồ Chí Minh

        bài văn mẫu lớp 9 số 7 đề 6

        Đề 6: Nêu cảm nghĩ về khổ thơ kết bài Ánh trăng của nguyễn duy.

        Dàn ý tưởng cho đoạn kết Ánh trăng

        Một. Giới thiệu:

        – Gợi lên chủ đề ánh trăng.

        – Giới thiệu phong cách thơ Nguyễn Duy và bài thơ “Ánh trăng”.

        – Đoạn cuối mang tính triết lý sâu sắc.

        b. Văn bản:bày tỏ suy nghĩ về khổ thơ cuối của bài thơ.

        1. Hình ảnh vầng trăng tròn vành vạnh:

        • Hiển thị quá khứ tươi đẹp dưới ánh trăng
        • Ánh trăng xưa trọn vẹn thủy chung không phai
        • Ánh sáng và mặt trăng vẫn như cũ, như cũ
        • 2. Hình ảnh “Ánh Trăng Lặng”:

          • Trăng tuy đẹp nhưng rất trung thành.
          • Nhưng dù đẹp đẽ, lấp lánh đến đâu thì vẫn phải nghiêm khắc.
          • Ác cảm của Moonlight với con người.
          • 3. Hình ảnh “Tôi giật mình”:

            • Hồi tưởng về quá khứ
            • Tác giả có lương tâm trong sáng
            • Thú nhận và cảm thấy có lỗi với bản thân
            • Lời nhắc tự hoàn thiện
            • Xem Thêm: Tiết 8 – Ôn tập giữa học kì 1 trang 100 SGK Tiếng Việt 5 tập 1

              4. Hình ảnh cho đến phần cuối cùng.

              • Tác giả trân trọng và mong muốn gìn giữ những giá trị truyền thống tốt đẹp
              • Hãy quên đi quá khứ, hãy sống cho chính mình và quên đi những người bạn thật sự của mình.
              • Nhắc mình phải sống ân nghĩa, thủy chung.
              • c.Kết luận:

                – Nêu cảm nhận của em về khổ thơ cuối bài thơ “Ánh trăng”.

                – Mối quan hệ từ ánh trăng đến chính con người.

                Suy nghĩ về khổ thơ kết bài Ánh trăng – Ví dụ 1

                Thời gian luôn là thứ vô hình… nó làm vơi đi bao đau khổ của mỗi người, đồng thời cũng xóa đi biết bao kỷ niệm đẹp, lòng chung thủy trong lòng mỗi người. Một trong số đó là nhà thơ Nguyễn Duy, qua bài thơ “Ánh trăng” ta học được một bài học sâu sắc: bài học về cách sống ân nghĩa, thủy chung, thủy chung.

                Điều kiện sống ngày nay đã có những thay đổi lớn, con người đang dần quên đi quá khứ. Người và Trăng trở nên xa lạ, lạc lõng và phẳng lặng trong tình yêu (mặc dù Trăng luôn tràn đầy yêu thương). Cuộc sống hiện tại với vật chất sung túc, tiện nghi đầy đủ khiến người ta dễ dàng quên đi quá khứ và tình cảm thắm thiết đã từng gắn bó.

                Rồi một hôm tôi chợt phát hiện vầng trăng xưa vẫn còn đó, tròn, đầy… Nỗi ân hận của tác giả chợt dâng lên… Chẳng phải lòng trăng mà là lòng người trước, dù là người khác chịu đựng, bảo vệ và chăm sóc chúng tôi? … Họ không phải là đồng bào của chúng ta, đồng bào của chúng ta, đồng đội của chúng ta, chiến hữu của chúng ta sao? Họ có sẵn sàng hy sinh cho chúng ta không? …Bây giờ chúng ta đã trở nên quá bất cẩn…

                Điều nhà thơ cảm nhận sâu thẳm trong lòng là điều ông muốn nói trong những lúc này, khi những từ ngữ ấy bỗng thành thơ… thì có lẽ ông đã sửa sai. Đó là sự hối hận, ăn năn của một người nhận ra sự bất cẩn của mình:

                Ngước lên xem cái gì bị xé nát Ruộng là hồ, sông là rừng

                <3

                Tuy nhiên, vầng trăng vẫn không trách tôi, và dáng vẻ dịu dàng lành mạnh đã an ủi tôi, và cũng cho tôi nhìn thấy nỗi nhục của thời kỳ đó… thời kỳ yêu thương mà chúng ta dần dần nhớ lại! Trăng ở đây không chỉ là quá khứ trọn vẹn mà còn là vẻ đẹp tự nhiên vĩnh hằng. Vầng trăng lặng thinh… Ta hãy tự suy nghĩ, tự đánh giá mình, và trong sự tĩnh lặng ấy ta thấy cả một không gian bao la rộng lớn.

                Quá khứ còn nguyên vẹn trong hiện tại. Trăng – hay những mối tình đã qua còn vẹn nguyên, nguyên vẹn, thủy chung. “Trăng khuyết”. Trăng vẫn đẹp, quá khứ vẫn sáng bóng yêu thương, dẫu người đã quên. Trăng “im thin thít”, một sự im lặng đến rợn người. Trăng không trách người quá vô tâm, mà thứ tha. “Trăng” dửng dưng, lặng thinh nhưng lương tâm con người thì dậy sóng. “Ánh trăng” hay bản án lương tâm đang đánh thức một tâm hồn. Cái “đáng sợ” của người lính phải chăng là sự thức tỉnh của lương tâm con người? Trong im lặng, “vầng trăng” thức dậy, đánh thức con người chìm trong cơn mê lâu ngày.

                Vầng trăng ở đây không chỉ là trăng, mà còn là biểu tượng cho sự giản dị, trong sáng và tình cảm của con người. Trái tim của vầng trăng là trái tim của đồng bào, trái tim của đồng đội trong vòng tay, trái tim của những người lính. Ánh trăng của nguyễn duy luôn bao dung và vị tha nên ánh trăng của nguyễn duy là một tác phẩm chứa đựng nhiều triết lí thầm kín. Đây là nguyên tắc “uống nước nhớ nguồn”.

                Đoạn thơ kết thúc của Tư tưởng Ánh trăng – Ví dụ 2

                Vầng trăng là một trong những đề tài quen thuộc thường thấy trong thơ ca. Nếu như nhà thơ chính trực đã tạo ra hình ảnh đẹp đẽ của vầng trăng như “đầu súng trăng treo” trong “Đồng chí” thì “Ánh trăng” của Nguyễn Vệ lại mang một ý nghĩa triết học ẩn chứa. Khổ thơ cuối gợi cho người đọc nhiều suy nghĩ. Ánh trăng như tiếng chuông đánh thức lòng người nhớ về quá khứ.

                <3

                Khổ đầu của bài thơ diễn tả những năm tháng gắn bó mật thiết với ánh trăng. Mặt trăng là Tianchi, và cánh đồng là cánh đồng. Những năm tháng dài ấy đủ vun đắp nên một tình bạn đẹp đẽ khắc sâu trong tâm trí mỗi người. Tuy nhiên, sau những năm tháng chinh chiến ác liệt, nhà thơ lại trở về với nhịp sống đô thị hối hả. Quen thuộc với đèn điện, cửa gương khiến anh dần trở thành “người lạ” tri kỷ của mình. Chữ “ngoại” khiến người đọc chạnh lòng. Rồi khi đèn vụt tắt, trăng chợt hiện, người lính như giật mình tỉnh lại một phần ký ức. Ánh trăng đột ngột làm binh lính khóc. Câu cuối khiến người đọc như chìm vào trầm tư:

                <3

                Ánh trăng tượng trưng cho quá khứ, những năm tháng gian lao, tuổi thơ đầy thiếu thốn của tác giả. Nhiều ngày trôi qua, hôm nay mới thấy được ánh trăng, trăng vẫn tròn như xưa. Nó cũng là đại diện cho quá khứ, vẫn còn đầy yêu thương, vẫn còn đầy lòng trung thành. Ánh trăng, dù hiếm hoi, dù người ta có thờ ơ với nó.

                Đối diện với vầng trăng tròn như vậy, nhà thơ bỗng cảm thấy xấu hổ. Anh tự cho mình là kẻ bất tài. Một người đàn ông thờ ơ với quá khứ của mình với người bạn tâm giao của mình. Vô tình ở đây không phải cố ý quên ký ức thời cơ hội, quên quá khứ, mà có lẽ vì áp lực và nhịp sống hối hả, người ta “vô tình” quên đi quá khứ.

                Không có một lời trách móc hay hờn dỗi dưới ánh trăng, có một sự im lặng kỳ lạ. Tuy nhiên, chính sự im lặng đó đã đẩy tâm trạng của mọi người trở nên hỗn loạn. Ánh trăng lúc này không còn chỉ là hiện tượng tự nhiên mà là tòa án lương tâm của mỗi người. Cú sốc của người lính là sự thức tỉnh đột ngột của lương tâm. Vầng trăng chỉ lặng lẽ, nhưng sức mạnh của nó đủ khiến một người đã hôn mê lâu ngày phải run sợ.

                Nhà thơ Ruan Wei đã làm được điều tưởng như không thể chỉ với một ánh trăng. Đây là một sự thức tỉnh lương tâm mạnh mẽ, một bài học triết học đầy suy tư. Ánh trăng là bạn, là tòa án lương tâm, là cội nguồn của mọi nhân hậu bao dung. Chỉ cần con người ta còn có suy nghĩ và biết nhìn nhận sai lầm thì không bao giờ là quá muộn.

                Khổ thơ cuối của bài thơ “Ánh trăng” được coi là một trong những điểm cộng của tác phẩm. Nó mang đến cho con người một triết lý nhân văn sâu sắc. Trong cuộc đời, sẽ có nhiều lúc quên đi quá khứ, quên đi những thứ đã từng gắn bó trong quá khứ. Nhưng chỉ cần con người có lương tâm thì không có gì là quá muộn. Quá khứ-hiện tại hay tương lai là sợi dây xuyên suốt mỗi tâm hồn.

                ..

                >>>Tham khảo: Bài viết số 7 lớp 9 đề 6: Cảm nhận về khổ thơ cuối bài thơ “Ánh trăng” của nguyễn duy

                bài văn mẫu lớp 9 số 7 đề 7

                <3

                Dàn ý về hình tượng bếp lửa trong bài thơ về bếp lửa

                I. Giới thiệu:

                – Giới thiệu hình ảnh bếp lửa Việt Nam trong bài thơ

                – Ví dụ:

                Trong gia đình, mỗi gia đình sẽ có những thành viên khác nhau với những điểm nổi bật khác nhau. Có gia đình làm nông, có gia đình làm giáo viên, có gia đình làm công nhân hoặc làm nghề khác. Trong gia đình bạn, bạn có thể là cha, mẹ, ông bà, cháu, chú… mọi người trong gia đình đều là những người bạn không thể thiếu trong cuộc đời chúng ta, mỗi người có thể đối xử khác nhau và thể hiện những cảm xúc khác nhau. Một tình cảm rất thiêng liêng mà nhà thơ thể hiện trong những bài thơ viết về bếp lửa bằng tiếng Việt đó là tình cảm ông bà. Ngoài tình mẫu tử thiêng liêng, hình ảnh bếp lò cũng rất nổi bật trong bài thơ.

                Hai. Nội dung bài viết: Hình ảnh bếp lửa bên bếp lửa trong thơ Việt Nam

                1. Hình ảnh ngọn lửa gợi cảm xúc:

                + Bếp lò là hình ảnh rất quen thuộc ở nông thôn Việt Nam

                + Ngọn lửa rất gần gũi, thân thiện

                + Hình ảnh ngọn lửa mơ màng nhen nhóm trong sương sớm thật thơ mộng và mộng mơ

                + Hình ảnh bếp lửa rất gần gũi, rất quen thuộc, rất gắn bó với tuổi thơ

                2. Hãy liên tưởng đến hình ảnh ngọn lửa:

                + Nhiệt tình, tâm huyết

                +tình yêu

                +Ngọn lửa trong tim không thể dập tắt

                + Lò lửa là nơi con cháu gửi gắm

                Ba. Kết bài: nêu quan điểm của em về hình ảnh bếp lửa

                Hình ảnh bếp lửa trong bài thơ Bếp lửa Việt Nam – mẫu 1

                Bằng Việt thuộc thế hệ các nhà thơ lớn lên trong thời kháng chiến chống Nhật. Trong những năm tháng xa quê hương xứ người, hình ảnh người bà đã khơi dậy nguồn cảm xúc mạnh mẽ, sôi sục của nhà thơ để tạo nên những vần thơ da diết, ám ảnh, đầy cảm xúc, cảm xúc. Hình ảnh người bà hi sinh đứa con trai yêu dấu gắn liền với hình ảnh bếp lửa đung đưa trong sương sớm qua bài thơ “Bếp lửa”. Hình ảnh “bếp lửa” ấm áp lại tỏa sáng, thắp sáng toàn bộ kết cấu mạch cảm xúc của nhà thơ.

                Bài thơ mở đầu bằng hình ảnh bếp lửa trong sương sớm, gắn liền với đôi bàn tay nhỏ cần mẫn của người bà nhóm lửa:

                “Đoàn lửa đung đưa trong sương mai, lửa trại ấm áp, chan chứa tình thương, biết bao nhiêu nắng mưa”

                Sương sớm lấp lánh trên bếp lửa được đôi bàn tay xương xẩu của bà đốt cần mẫn và khéo léo vào buổi sáng. Cụm từ “biết bao nhiêu nắng mưa” thể hiện sự vất vả, cần cù, sớm hôm hy sinh của người bà để đạt được viên mãn và tấm lòng hiếu thảo của người cháu.

                Không chỉ vậy, ngọn lửa thánh ấm áp còn kèm theo mùi khói ngào ngạt. Bếp lửa gắn liền với những mảnh đời cơ cực của hai bà cháu, mùi khói cay nồng đã trở thành mùi quen thuộc trong tuổi thơ mà dù xa quê, dù đi khắp thế gian vẫn phảng phất mùi hương ấy. Mắt tôi hơi mờ và tôi vẫn còn lo lắng và xúc động khi nghĩ về nó. Vì vậy, bếp lửa không chỉ gắn liền với hình ảnh người bà mà còn là kênh dẫn để tác giả hồi tưởng về tuổi thơ của mình, trong vòng tay yêu thương có chút cay đắng nhưng êm đềm. Nhớ bà cũng chính là hình ảnh Hoắc Kiến Hoa trong kí ức của tác giả, là nỗi nhớ bà nội và trái tim ấm áp hơn bao giờ hết. Cụ bà còn là biểu tượng của người giữ lửa, nhóm lên và lan tỏa ngọn lửa thiêng liêng, bất diệt:

                “Rồi sáng đêm mẹ lại thắp lên ngọn lửa, ngọn lửa lòng luôn sẵn sàng, ngọn lửa niềm tin bền bỉ…

                Cuộc đời chị đã trải qua mấy chục năm mưa sương, đến bây giờ chị vẫn giữ thói quen dậy sớm, thắp ngọn lửa ấm đượm tình thương, khoai lang, nhen nhóm trong mình những cảm xúc tuổi thơ ôi thật lạ lùng và thánh thiện- lửa . “

                Bà là người thắp lên ngọn lửa, ngọn lửa yêu thương luôn cháy trong tim sẵn sàng sưởi ấm cho cháu trong mọi hoàn cảnh. Bà nhóm lửa sưởi ấm mỗi khi đói, trái bóng ngọt ngào nghĩa tình với bà con hàng xóm cũng đánh thức và đánh thức những gì đẹp đẽ, hồn nhiên, trong sáng nhất của tuổi thơ tôi. Không gì có thể thần thánh hơn. Trái tim của bà, tình yêu của bà đã biến thành ngọn lửa vĩnh cửu, luôn tỏa sáng, soi đường cho mỗi bước tiến của cháu tôi. Nó thiêng liêng và bất diệt biết bao, dù có đi xa trăm họ nhà cháy, trăm con tàu chìm trong biển lửa, cuộc sống tiện nghi hiện đại cũng không bằng ngọn lửa trong lòng bà không ấm áp ngọt ngào, hay cay đắng. Khói bay vào mắt tôi. Nhưng tấm lòng người bà cũng thể hiện sự xúc động, chân thật qua hình ảnh bếp lửa. Ngọn lửa ấy, là nơi cô thắp lại tình yêu thương, sự quan tâm, lo lắng và những kỷ niệm đẹp thời thơ ấu của bạn. Ngọn lửa của cô như nguồn sáng mạnh mẽ không gì có thể dập tắt, khiến tôi tràn đầy tự tin và dũng khí trên đường đời. Có thể nói, ngọn lửa không chỉ có hơi ấm mà còn là cả một trời sức mạnh, một đại dương yêu thương, một điểm tựa vững chắc và thiêng liêng của tuổi thơ. Rồi cô nức nở không ngừng, vọng lại hình ảnh ánh lửa và đôi bàn tay cẩn thận của cô. Cái bếp độ Việt ấy như một kỷ niệm thầm kín thiêng liêng mà dù có đi xa, quen với tiện nghi hiện đại, tôi cũng không thể quên tiếng nức nở buổi sớm, bạn đã chuẩn bị bếp chưa? Vì vậy, bếp lửa chính là sự tồn tại thiêng liêng, cao cả của người bà, là sức mạnh và niềm tin bất diệt mà người cháu mãi khắc ghi trong lòng.

                Bằng những hình ảnh thơ giản dị mà cảm động, đẹp đẽ, nhà thơ Việt Nam đã vẽ nên bức chân dung người bà, người phụ nữ Việt Nam dũng cảm, cương nghị mà tình yêu thương sưởi ấm trái tim. Cháu trai, hậu phương vững chắc. Đồng thời khắc họa hình ảnh bếp lửa giàu giá trị thẩm mĩ, nghệ thuật tạo nên nhãn quan thơ tinh tế, xúc động. Tác giả cố ý để lại một hình tượng nghệ thuật thơ đầy ám ảnh và thừa

                Hình ảnh bếp lửa - Mẫu 3

                Hình ảnh bếp lửa trong thơ lửa Việt Nam – mẫu 2

                Bếp Lửa là một bài thơ hay của người Việt Nam. Bài thơ này đã đi qua chặng đường nửa thế kỷ, nhưng mỗi lần đọc lại, tôi luôn có một cảm xúc đẹp và một cảm xúc khó tả. Giọng thơ ngọt ngào, chân thành. Hình ảnh những bà nhân hậu, tiếng chim tu hú, những kỉ niệm vui buồn tuổi thơ… rồi hình ảnh bếp lò, tất cả cứ tái hiện trong tâm hồn mỗi chúng ta. Hình ảnh bếp lửa thật đẹp và cảm động, bởi bếp lửa là sự sống của bà, là nguồn hạnh phúc gia đình, là tình yêu thương của bà dành cho con cháu. Chỉ có bà ngoại có bếp lò.

                Mở đầu bài thơ là hình ảnh bếp lửa. “Loảng xoảng, bồn chồn” là những từ được dùng một cách công phu và khéo léo, vừa để miêu tả ngọn lửa, vừa để chỉ người bà đang tạo ra nó:

                “Lò lửa bập bùng sương sớm, lò ấm đượm tình bà cháu biết bao nhiêu nắng mưa.”

                Có khói và lửa. Lửa trong nhà bốc khói nghi ngút. Lò sưởi thời sơ tán, khói càng nhiều thời Kháng Nhật:

                “Năm bốn tuổi tôi ngửi thấy mùi khói… Tôi chỉ nhớ khói bay vào mắt, giờ nghĩ lại vẫn thấy cay cay sống mũi”.

                Tôi sống trong lòng bà, được bà quan tâm, chăm sóc “bà dạy dỗ tôi làm ăn, bà nuôi tôi ăn học”. Nhà nghèo, bố mẹ đi làm ăn xa nên anh “tám năm hương hỏa với bà nội”. Ngọn lửa này sưởi ấm tình cháu, cũng sưởi ấm tình bà cháu. Tôi yêu bạn và tôi muốn chia sẻ với bạn tiếng hú khi nghĩ đến bếp lò :

                “Hoắc Tuấn cảm thấy yêu cô ấy thật khó, chậc chậc! Bọn họ không đến cùng cô ấy ở cánh đồng xa.”

                Nàng cần mẫn tận tâm, miệt mài thức khuya dậy sớm nhóm lửa, lửa nguồn trường tồn, trường tồn, bất diệt.

                Các động từ: đốt, nấu, cất và hình ảnh ngọn lửa, ngọn lửa được tác giả sử dụng thật đắt giá, mỹ miều để “tin tưởng” một cách sống như vậy:

                Rồi chiều tối, đêm khuya, chị nhóm lên ngọn lửa trong tim, ngọn lửa của niềm tin bền bỉ…”

                Càng về sau, giọng thơ càng to hơn, tha thiết hơn. “Đời bà cơ cực”, bao nhiêu “sương mưa” trải qua mấy mươi năm, cho đến “đến bây giờ” bà vẫn “giữ thói quen dậy sớm” thắp lửa cho hạnh phúc con cháu. ”’Tình yêu””Thơm sắn””Nồi nếp mới cho vui”’Cảm xúc tuổi thơ”… đều do cô “nhóm” lại. Chữ “Tuấn” được hát liền bốn lượt, thắp lên trong lòng con cháu những vần sáng. Có thể cho rằng đây là những câu thơ hay nhất về hình ảnh cô và bếp lửa:

                “Mấy chục năm nay, bà vẫn giữ thói quen dậy sớm. Bếp lửa ấm khoai sắn, lại càng đánh thức trong bà cảm xúc tuổi thơ, bếp lửa thiêng đến lạ”!

                Người đọc có cảm giác mỗi buổi sáng, mỗi buổi chiều, rất đông con cháu ngồi bên bà quây quần bên bếp lửa gia đình hạnh phúc. Tiếng cảm thán cuối bài thơ như tiếng khóc của đứa cháu nhỏ, âm thanh bập bùng trong ánh lửa đã được người bà “đốt lên” và “ấp ủ” suốt đời.

                Hình ảnh ngọn lửa, ngọn lửa mãi mãi gắn bó với những người cô yêu thương. Dù sống và học tập ở xa nhưng người cháu vẫn nhớ về người bà nhân hậu và bếp lửa quê hương. Câu hỏi tu từ cuối bài thơ làm cho nỗi nhớ bà, bếp lửa, gia đình, quê hương sâu sắc hơn, chân thành hơn, da diết hơn:

                Tôi đi đây. Khói trăm tàu, lửa trăm nhà, niềm vui trăm nơi, nhưng không quên nhắc: – Mai mở bếp nhé?

                Những bài thơ dân tộc viết về người bà kính yêu trong gia đình không nhiều: Nguyễn Duy kể về người bà của mình qua bài thơ “Đoạn Luân” với những kỉ niệm tuổi thơ thật xúc động. “Cái Lò” độ Việt Nam là một bài thơ vẫn tiếp tục làm say đắm trái tim tuổi thơ của chúng ta. Hình ảnh người bà thân yêu và hình ảnh bếp lửa được tác giả nhắc đến vừa thân quen vừa xa lạ. Tình yêu là nguồn sáng của tâm hồn và là sức sống của thơ ca. “Bếp” thực sự có ánh sáng và sức sống dồi dào như vậy.

                ………

                >>>Tham khảo: Bài viết số 7 lớp 9 Đề 7: Phân tích hình ảnh bếp lửa trong bài thơ Bếp lửa

                Vui lòng tải xuống tệp tài liệu để biết thêm chi tiết

Nguồn: https://anhvufood.vn
Danh mục: Giáo Dục

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *